Trên thực tế việc vợ chồng chia tài sản chung đã phản ánh những mâu
thuẫn của họ trong việc sử dụng, quản lí và định đoạt tài sản nên việc chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân rất có thể sẽ làm cho tình cảm vợ chồng trở
nên sứt mẻ bởi nó chưa được người ta đón nhận và áp dụng trong hoàn cảnh
tích cực. Người ta chỉ áp dụng qui định này khi bắt đầu có mâu thuẫn và lại áp
dụng nó với mục đích để tách bạch hoàn toàn tài sản của vợ chồng.
Cũng theo quan niệm của người Việt Nam thì việc chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân có nhiều điều bất tiện.
Thứ nhất, theo phong tục Việt Nam, tài sản trong nhà là của chung, để
vun đắp gia đình, cho con cháu đời sau, là niềm vinh danh cho cha mẹ chứ
không phải của riêng đôi vợ chồng nên việc chia chác có thể sẽ phá vỡ nếp
nhà.
Thứ hai, trong xã hội Việt Nam hiện nay, người ta thường chỉ chia tài
sản sau li hôn, nếu vợ chồng chia khi đang chung sống, dễ bị mang tiếng là
hôn nhân “có vấn đề”.
Thứ ba, tình cảm vợ chồng thiêng liêng, mà tài sản chung là yếu tố cơ
bản, từ đó mới nảy nở nhiều tình cảm tốt đẹp khác. Vì vậy, xét cho cùng, việc
chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân mà không bị cắt về tình cảm là điều không
dễ làm. Việc này nếu có tiến hành thì cũng là ở thế “chẳng đặng đừng” mà
thôi57.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2106 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở hữu chung hoặc theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu một
trong các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ với mình mà người đó không
có tài sản riêng35. Việc yêu cầu được chia tài sản chung của chủ sở chung
không cần có lí do chính đáng.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một
trường hợp của chia tài sản thuộc sở hữu chung. Theo qui định của Luật Hôn
nhân và Gia đình thì tài sản chung chỉ được chia khi có lí do chính đáng và
theo thỏa thuận của vợ chồng (khi vợ chồng không thỏa thuận được thì mới
yêu cầu tòa án chia).
Theo đó người yêu cầu chia tài sản chung là vợ hoặc chồng hoặc cả hai
khi có lí do chính đáng.
Trường hợp người thứ ba yêu cầu chia không được qui định trong Luật
Hôn nhân và Gia đình, tuy nhiên theo qui định về việc áp dụng Bộ luật Dân
sự trong trường hợp Luật Hôn nhân và Gia đình không có qui định36 thì có
thêm một người có quyền yêu cầu là người mà vợ hoặc chồng có nghĩa vụ
riêng với họ. Hơn nữa một trong các lí do được coi là chính đáng để chia tài
sản chung là chia để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng nên có thể hiểu quyền
yêu cầu của người thứ ba vẫn tồn tại trong khi người thứ ba chỉ thực hiện
34 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế .`u273 .ộ tài sản vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Tư
pháp 2008, tr. 232.
35 Xem điều 224 Bộ luật Dân sự năm 2005.
36 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
- 25 -
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ với một người, còn vợ chồng họ tự nguyện
chia tài sản chung để thanh toán. Tuy nhiên theo người viết, thường thì tài sản
chung này được chia do vợ chồng tự nguyện chỉ nhằm để trốn tránh hay trì
hoãn việc thực hiện nghĩa vụ với người kia, còn nếu bình thường khi vợ
chồng không hề có mâu thuẫn gì thì chắc họ sẽ tự nguyện dùng khối tài sản
chung để thanh toán chứ không chia tài sản chung. Theo người viết thì cơ chế
để thực hiện quyền yêu cầu của người thứ ba như sau: người thứ ba có quyền
yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình, thậm chí được kê
biên tài sản riêng của người đó; nếu tài sản riêng không đủ thì người này có
thể yêu cầu vợ chồng bằng cách nào đó để có tài sản thực hiện nghĩa vụ đối
với mình; nếu không được thì người này có quyền yêu cầu vợ chồng thỏa
thuận chia tài sản chung để người kia có tài sản thanh toán cho mình, thậm chí
được tham gia vào việc chia tài sản chung đó; nếu cả ba người không thể thỏa
thuận được thì người thứ ba này có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung
của vợ chồng họ để một người có tài sản thực hiện nghĩa vụ với mình37.
2.3. ĐIỀU KIỆN CHIA
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì điều kiện để có thể
chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là phải có lí do chính đáng, hiện tại
luật đã dự liệu hai trường hợp cụ thể được coi là có lí do chính đáng đó là
trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng và trường hợp vợ chồng thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng, ngoài ra luật vẫn để dự trù các trường hợp có lí do
chính đáng khác.
2.3.1. Đầu tư kinh doanh riêng
Đầu tư kinh doanh riêng là khái niệm tương đối rộng và tương đối khó
xác định, theo người viết thì hoạt động đầu tư kinh doanh riêng là hoạt động
nhằm sinh lợi, do một người (vợ hoặc chồng) bỏ vốn ra để thực hiện một
37 Có ý kiến cho rằng trong trường hợp này quyền khởi kiện của người thứ ba không được thừa nhận. ThS.
Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp Luật Hôn
nhân và Gia đình hiện hành, Tạp chí Luật học số 5 năm 2003, tr. 26-29
- 26 -
trong các công đoạn của quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung cấp dịch vụ trên thị trường38.
Việc đầu tư kinh doanh được coi là một lí do chính đáng bởi để thực
hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thì chắc chắn cần phải có một khối tài sản
thuộc sở hữu của người đầu tư để giao dịch. Việc tài sản đem đầu tư là tài sản
thuộc sở hữu chung sẽ gây nhiều phức tạp cho việc thực hiện giao dịch, bởi
việc định đoạt tài sản đó cần có sự thỏa thuận của các đồng sở hữu chủ, nếu
như người kia không quan tâm đến việc kinh doanh hoặc thậm chí phản đối
việc kinh doanh đó thì việc thỏa thuận sẽ rất mất thời gian, thậm chí rắc rối và
khó thực hiện trong khi hoạt động kinh doanh thì cần phải nhanh chóng để
“chớp thời cơ”. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh
nhằm phát triển kinh tế gia đình và đất nước, Luật Hôn nhân và Gia đình qui
định rằng đây là một lí do chính đáng để vợ chồng có thể chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân. Hơn nữa, nhiều hoạt động kinh doanh cũng được coi
là mạo hiểm nên cần tách riêng một khoản tài sản để nếu việc kinh doanh bị
thua lỗ thì cũng không ảnh hưởng quá nhiều đến sự tồn tại của gia đình.
Nói chung là việc chia tài sản này nhằm để một người có tài sản riêng để
thực hiện các giao dịch bảo đảm vay vốn kinh doanh, để giúp thực hiện các
giao dịch đỡ phức tạp hơn, bảo đảm cuộc sống của gia đình không bị ảnh
hưởng nặng nề khi việc kinh doanh thua lỗ.
2.3.2. Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
Theo Bộ luật Dân sự, nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc
nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ
có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Việc thực hiện nghĩa vụ dân
sự riêng là việc thực hiện nghĩa vụ mà chỉ một người (vợ hoặc chồng) phải
thực hiện còn người kia (chồng hoặc vợ) không phải liên đới thực hiện. Việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng này chỉ nhằm để thực hiện đúng nghĩa vụ
phải thực hiện, chứ có mục đích nhằm để phát sinh lợi (vì nếu nhằm để phát
38 Khái niệm kinh doanh này được lấy tương tự như khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm
2005.
- 27 -
sinh lợi thì sẽ thuộc trường hợp chia để đầu tư kinh doanh riêng). Nghĩa vụ
dân sự riêng bao gồm các trường hợp thực hiện nghĩa vụ phát sinh do giao
dịch do một bên thực hiện trước thời kì hôn nhân hoặc không nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình. Theo người viết nghĩa vụ dân sự riêng thường
phải phát sinh trước khi chia tài sản chung39 có như vậy việc chia tài sản chung
mới là cần thiết để cho một trong hai người có thể thực hiện được nghĩa vụ này.
Tuy nhiên cũng có trường hợp nghĩa vụ riêng là nghĩa vụ trong tương lai, tuy
nhiên nó phải có tầm quan trọng nhất định thì mới được coi là chính đáng.
Luật chỉ dự liệu trường hợp chia tài sản để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
chứ không hề dự liệu việc chia tài sản để thực hiện trách nhiệm hình sự hay trách
nhiệm hành chính với hình phạt tiền.
2.3.3. Lí do chính đáng khác
Trường hợp này là do luật chưa dự liệu hết được các trường hợp. Theo
Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 thì trường hợp vợ
chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn không muốn li hôn, được coi là
một trường hợp có lí do chính đáng (trường hợp này có thể được coi là “li thân
thực tế”). Theo người viết thì trường hợp một người thường xuyên có hành vi
phá tán tài sản mà không thuộc trường hợp bị tuyên hạn chế năng lực hành vi
dân sự (vì không nghiện hút hay nghiện các chất kích thích khác) cũng được coi
là lí do chính đáng để vợ chồng chia tài sản chung. Thực tế là không hề có một
chuẩn mực nào để đánh giá sự chính đáng trong lí do của việc chia tài sản chung,
nếu như việc chia tài sản chung do tòa án quyết định thì một lí do có được coi là
lí do chính đáng khác không sẽ do tòa án cân nhắc, còn nếu việc chia là do vợ
chồng thỏa thuận thì không thể kiểm soát được lí do chia tài sản có là chính đáng
hay không, mà chỉ có qui định về sự vô hiệu của bản thỏa thuận chia khi nó được
lập ra nhằm để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
2.4. CÁCH THỨC CHIA
Theo nguyên tắc của Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc chia tài sản chung
được tiến hành theo cách thức ưu tiên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì
39 Có ý kiến cho rằng nghĩa vụ dân sự riêng có thể là nghĩa vụ trong tương lai, tuy nhiên nếu như nghĩa vụ
phát sinh trong tương lai thì có lẽ khó có thể coi là có lí do chính đáng.
- 28 -
mới yêu cầu tòa án chia40. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận được (hoặc là cả
ba người thỏa thuận được khi người thứ ba yêu cầu vợ chồng chia) thì việc
chia là hoàn toàn tự do có thể chia hết tài sản, chia một phần tài sản, chia cho
hai bên có tài sản như nhau, chia cho một bên tất cả tài sản hiện có...miễn là
việc chia đó không nhằm để trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản.
Trường hợp không thỏa thuận được thì việc chia do tòa án, tuy các văn bản
hiện hành không qui định về cách thức chia trong trường hợp này nhưng kế
thừa các qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 thì có lẽ cơ chế
chia giống như trong một vụ li hôn41. Việc không qui định về cách thức chia
trong trường hợp này có thể là sơ suất của nhà làm luật.
2.5. HÌNH THỨC CHIA VÀ HIỆU LỰC
2.5.1. Thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì thỏa thuận của vợ
chồng phải được lập thành văn bản. Yêu cầu bắt buộc của văn bản là phải ghi
rõ các nội dung: lý do chia tài sản; phần tài sản chia (bao gồm bất động sản,
động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia
hoặc giá trị phần tài sản được chia; phần tài sản còn lại không chia (nếu có);
thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; phải ghi rõ ngày, tháng,
năm lập văn bản và phải có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản có thể có
người làm chứng, hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ
chồng hoặc theo qui định của pháp luật42. Vậy nên việc chia tài sản của vợ
chồng hiện tại không hề bắt buộc phải có người làm chứng, hay phải công
chứng chứng thực, tuy nhiên với một số trường hợp để đảm bảo cơ sở pháp lí
chắc chắn cho việc thực hiện các thủ tục pháp lí tiếp theo có liên quan đến tài
sản chia thì bản thỏa thuận chia tài sản chung phải có công chứng, chứng thực
ví dụ chia tài sản chung là quyền sử dụng đất, chia tài sản chung để tham gia
giao dịch bảo đảm.
40Qui định tại khoản 1 điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
41 Xem điều 18 và điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
42 Xem khoản 1 và khoản 2 điều 6 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.
- 29 -
Thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng phải được ghi rõ trong văn bản đó. Điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-
CP qui định về hiệu lực của văn bản thỏa thuận như sau:
“1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu
lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.
2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu
lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không
xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được
công chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực
được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.”
Dễ nhận thấy rằng thời điểm có hiệu lực được qui định là phải ghi trong
văn bản nhưng nếu thiếu nó thì cũng không làm mất tính hợp pháp của văn
bản (theo qui định của khoản 1) và sự thỏa thuận của vợ chồng về thời điểm
có hiệu lực trong trường hợp văn bản phải được công chứng chứng thực theo
qui định của pháp luật sẽ không có giá trị (theo khoản 3).
2.5.2. Quyết định của tòa án
Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì vợ hoặc chồng
hoặc cả hai người yêu cầu tòa án chia tài sản chung, hoặc trong trường hợp
người thứ ba có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng với vợ hoặc
chồng mà không được đáp ứng thì cũng có quyền yêu cầu tòa án chia. Trường
hợp này sẽ phải tiến hành các thủ tục tố tụng theo qui định của luật tố tụng
dân sự.
Hiệu lực của việc chia tài sản chung trong trường hợp này là ngày quyết
định cho chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật.
2.6. HẬU QUẢ PHÁP LÍ VỀ TÀI SẢN CỦA VIỆC CHIA
Hậu quả pháp lí về tài sản của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân chính là sự thay đổi của các khối tài sản. Theo qui định của điều 30 Luật
- 30 -
Hôn nhân và Gia đình thì hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân là “hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở
hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu
chung của vợ chồng”.
Theo các qui định của luật thì quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng
được mở rộng phạm vi đó là hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sẽ thuộc
sở hữu riêng của vợ chồng, phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung
của vợ chồng. Như vậy tức là khối tài sản riêng chỉ được mở rộng với các hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ khối tài sản riêng được chia còn khối tài sản chung
vẫn được phát sinh theo luật. Tức là mọi tài sản tạo ra, mọi thu nhập hợp
pháp, mọi tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung, mọi tài sản mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung đều là tài sản chung. Theo như câu chữ của
luật thì hoa lợi lợi tức từ tài sản riêng của vợ chồng không do chia và thậm chí
cả thu nhập từ việc bán tài sản riêng do được chia cũng thuộc khối tài sản
chung. Việc này sẽ ảnh hưởng đến việc đầu tư kinh doanh của người được
chia tài sản để đầu tư kinh doanh và như thế thì không phù hợp với mục đích
của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
Để tránh việc qui định như vậy Nghị định 70 hướng dẫn chi tiết Luật
Hôn nhân và Gia đình đã qui định thêm về hậu quả chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân như sau:
“Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng
của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác43”.
Tuy nhiên qui định của Nghị định này thực tế đã làm thay đổi chế độ tài
sản vợ chồng (ngay cả tên điều 9 của Nghị định cũng là “khôi phục chế độ tài
sản chung của vợ chồng”), bởi theo như qui định này thì chỉ có những tài sản
được tặng cho, thừa kế chung, tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung và
những hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản chung mới thuộc khối tài sản chung,
còn lại những tài sản là thu nhập hợp pháp của vợ chồng như lương, tài sản
mà một người tạo ra trong thời kì hôn nhân thuộc khối tài sản riêng của vợ
43 Khoản 2 điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.
- 31 -
chồng…và nếu như vợ chồng quyết định chia tất cả tài sản chung thì khối tài
sản chung sẽ gần như không còn có thể tồn tại nếu không được thừa kế chung,
tặng cho chung hay vợ chồng không khôi phục lại chế độ tài sản chung. Có ý
kiến cho rằng qui định này thực chất là đã chấp nhận chế độ biệt sản của vợ
chồng44, có ý kiến cho rằng qui định này là trái luật và phải bị vô hiệu hóa45.
2.7. VIỆC KHÔI PHỤC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi vợ chồng đã
chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Việc khôi phục chế độ tài sản chung
phải theo thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Trong văn bản này bắt buộc
phải ghi rõ lí do khôi phục tài sản chung, phần tài sản riêng của mỗi bên, phần
tài sản chung (nếu có), thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản
chung. Văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ
bắt buộc phải có chữ kí của cả hai vợ chồng, không bắt buộc phải có người
làm chứng hay công chứng chứng thực, kể cả trường hợp văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng chứng thực nhưng không
phải là trường hợp bắt buộc phải công chứng chứng thực theo qui định của
pháp luật. Chỉ có qui định bắt buộc phải công chứng chứng thực đối với các
văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung trong trường hợp văn bản
thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo
qui định của pháp luật46.
Việc khôi phục chế độ tài sản chung này căn cứ vào qui định tại điều 9
Nghị định 70 thì là khôi phục toàn bộ chế độ tài sản chung, tuy nhiên theo
người viết, có thể khôi phục một phần chế độ tài sản chung, nó thực ra chỉ là
việc khôi phục toàn bộ chế độ tài sản chung rồi lại chia tài sản chung nhưng
có thỏa thuận là hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sau khi chia và thu
nhập hợp pháp của vợ chồng sau khi chia là tài sản chung của vợ chồng.
44TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Tư
pháp 2008, tr. 253.
45 TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lí luận về các phương pháp phân tích luật viết, NXB Tư pháp 2006,
tr. 123.
46 Xem khoản 3 điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.
- 32 -
Chương 3
VẤN ĐỀ THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KÌ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1. THỎA THUẬN NHẬP TÀI SẢN RIÊNG CỦA MỘT BÊN VỢ HOẶC
CHỒNG VÀO TÀI SẢN CHUNG
Thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng là một vấn
đề ít được bàn tới và cũng ít được qui định cụ thể như thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân. Có lẽ ít trường hợp mà thỏa thuận nhập tài sản
riêng của vợ chồng vào tài sản chung trở nên cần thiết bởi nếu như những tài
sản riêng (trừ những tài sản có được do chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân) được đem giao dịch hay biến đổi thì đa phần sẽ tự trở thành tài sản
chung theo qui định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Hơn nữa
do sự đặc biệt của quan hệ vợ chồng, do sự gắn kết đặc biệt giữa vợ chồng, sự
gắn kết vì tình yêu, vì sự phát triển giống nòi nên vợ chồng coi nhau như một,
cùng hướng tới một mục đích là phát triển kinh tế để gia đình được sống sung
túc đầy đủ, tạo điều kiện tốt nhất để con cái học hành vì thế mà vợ, chồng
luôn muốn đem tất cả những gì mình có để phục vụ cho các nhu cầu của gia
đình, không muốn giữ của riêng, nên việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng
vào tài sản chung được coi như là một điều đương nhiên.
Nhưng để tránh những tranh chấp về tài sản sau này, Nghị định số
70/2001/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 70) đã qui định rõ là việc nhập
những tài sản có giá trị lớn, nhà ở, quyền sử dụng đất phải được lập thành văn
bản có chữ kí của cả hai vợ chồng, trong trường hợp pháp luật qui định thì
phải công chứng, chứng thực47. Tuy nhiên với những trường hợp vợ, chồng
chưa từng muốn nhập tài sản riêng vào tài sản chung và đối với tài sản đó thì
việc nhập không bắt buộc phải lập thành văn bản nhưng lại có tranh chấp48 về
tài sản đó thì việc chứng minh nó là tài sản riêng của một người là vô cùng
khó khăn và phức tạp bởi đời sống chung của vợ chồng là vô cùng phức tạp.
47 Xem khoản 1 điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.
48 Có thể tài sản có giá trị không lớn về mặt vật chất nhưng lại có ý nghĩa về mặt tinh thần hoặc có thể một tài
sản như thế thì có giá trị không lớn nhưng nhiều tài sản kiểu đó thì lại có giá trị lớn…
- 33 -
Trong trường hợp đó nguyên tắc nếu không có chứng cứ chứng minh tài sản
mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là
tài sản chung49 sẽ được áp dụng.
Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung có thể được tiến hành vào bất
cứ lúc nào trong thời kì hôn nhân nên vợ chồng hoàn toàn có thể nhập tài sản
riêng vào khối tài sản chung ngay khi đăng kí kết hôn.
Việc hai người nam nữ chuẩn bị kết hôn thỏa thuận trước về việc nhập
tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung (tức là hai người lập bản thỏa
thuận trước khi kết hôn và xác định thời điểm có hiệu lực là khi quan hệ hôn
nhân được xác lập) không được qui định trong pháp luật Việt Nam, tuy nhiên
theo người viết thì điều này hoàn toàn hợp lí, mặc dù có thể nó không được
công nhận trong pháp luật hiện hành.
3.2. THỎA THUẬN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KÌ HÔN NHÂN
3.2.1. Những ý kiến về sự hợp lí và hợp pháp của các qui định về
chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Như đã nói ở những phần trước, việc qui định cho vợ chồng có thể chia
tài sản bằng cách thỏa thuận sẽ tạo điều kiện cho vợ chồng được thuận tiện
trong việc giao dịch, Nghị định 70 đã qui định tương đối đầy đủ và chi tiết về
việc này, tuy nhiên có tương đối nhiều ý kiến xoay quanh tính hợp lí và hợp
pháp của các qui định về thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
của Nghị định này.
Thứ nhất: qui định trong thời kì hôn nhân, nếu có lí do chính đáng vợ
chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định
trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định
quá “mở”. Giả sử, ngay sau khi kết hôn với lí do kinh doanh riêng, vợ chồng
có thoả thuận toàn bộ tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về
người đó, thì khi đó lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào?50
49 Xem khoản 3 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
50 ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp
Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, tạp chí Luật học số 5 năm 2003, tr. 26 - 29.
- 34 -
Thứ hai: Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định 70 trong trường hợp vợ
chồng có thoả thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung, thì kể từ
ngày văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực, việc xác
định phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu
chung căn cứ vào sự thoả thuận của vợ chồng. Qui định này đã trao cho vợ
chồng một quyền hạn quá rộng. Việc vợ chồng có quyền chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân, đồng thời có quyền khôi phục chế độ tài sản chung mà
không cần có sự xem xét của Toà án đã đưa Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 trở thành hình thức51.
Thứ ba: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
theo qui định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế
định này đã phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc
lập về tài sản sau chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống li thân
hoặc một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có
tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên
hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình.52
Thứ tư: Qui định tại khoản 2 điều 8 Nghị định 70 hoàn toàn mâu thuẫn
với qui định tại điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình, do đó cần kịp thời sửa
đổi, hay phải vô hiệu hóa qui định này53.
Ngoài ra còn những ý kiến khác về những vướng mắc khi áp dụng qui
định này và cần luật có sự qui định cụ thể hơn.
v Theo người viết có thể lí giải về tính hợp lí, hợp pháp của các qui
định tại Nghị định 70 như sau:
w Về tính hợp pháp:
51 ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp
Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, đã dẫn.
52 ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp
Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, đã dẫn.
53 ThS. Nguyễn Phương Lan, Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân, Tạp chí Luật học số 6 năm 2002, tr. 22 - 27.
- 35 -
Nghị định 70 là Nghị định qui định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000 nên nó được soạn thảo cùng với dự án luật để trình lên cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành khi luật có hiệu lực54, việc nó thực sự
mâu thuẫn với điều 27 có lẽ là khó xảy ra vì nó được soạn thỏa cùng thời
điểm với dự án luật. Xét về việc mâu thuẫn với điều 27 thì điều 30 cũng là
một điều có thể xem là mâu thuẫn với điều 27 tuy nhiên do nó cùng trong một
văn bản nên không thể nói là điều nào trái với điều nào và cần phải vô hiệu
hóa điều nào, việc đó cho thấy qui định ở điều 27 không phải là một qui định
cứng nhắc, nó có sự linh hoạt của nó. Hơn nữa, việc giải thích pháp luật để
làm rõ hơn về tinh thần, nội dung, phạm vi, ý nghĩa và mục đích các qui định
của pháp luật so với nội dung ban đầu của nó, giúp mọi người hiểu và thực thi
các quy định của pháp luật một cách chính xác và thống nhất là điều vô cùng
cần thiết, thực tế thì Chính phủ và tòa án là hai cơ quan đang giải thích pháp
luật nhiều và thường xuyên nhất ở nước ta55, nên những qui định ở Nghị định
70 được coi là cách giải thích các qui định ở Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000.
Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình qui định về việc chia tài sản trong
thời kì hôn nhân bắt buộc phải có lí do chính đáng chứ không qui định là tài sản
để chia bắt buộc phải là tài sản đã thuộc sở hữu chung của vợ chồng về mặt
thực tế, điều đó có nghĩa là luật không hề cấm việc chia những tài sản chắc
chắn sẽ thuộc về vợ chồng trong tương lai. Điều đó cũng có nghĩa là theo luật
thì những tài sản chắc chắn sẽ thuộc sở hữu của vợ chồng trong tương lai như
thu nhập hợp pháp có thể được thỏa thuận chia. Việc chia với những tài sản
chắc chắn sẽ thuộc về vợ chồng trong tương lai không có gì là trái luật. Qui
định của khoản 2 điều 8 chỉ là nêu lên qui tắc chia (thu nhập hợp pháp của ai
thì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.doc