Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang là người bị bắt khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt. Thông thường trong những trường hợp phạm tội quả tang, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể xác định được rõ ràng đó là hành động phạm tội và cần bắt ngay để ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc trốn tránh pháp luật của người đang bỏ chạy ngay sau khi thực hiện tội phạm. Trong các vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang thường là ngay từ ban đầu đã có đủ chứng cứ, người thực hiện hành vi phạm tội thường nhận tội, các vật chứng được thu hồi cho nên rất thuận lợi cho việc điều tra. Đối với hành vi phạm tội mà họ thực hiện phải đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng. Người phạm tội thường không có sự chuẩn bị một cách kỹ càng về công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm trong việc thực hiện tội phạm. Như vậy không phải tất cả các tội ít nghiêm trọng đều áp dụng thủ tục rút gọn. Xuất phát từ yêu cầu là việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án phải được tiến hành một cách nhanh chóng nhưng phải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên cần phải cân nhắc những loại tội ít nghiêm trọng nào mà không phức tạp, khó khăn lắm khi xử lý vụ án để xét xử theo thủ tục này. Bởi lẽ, đối với loại tội ít nghiêm trọng nhưng tính chất phức tạp, khó đánh giá, thống nhất hành vi và tội danh thì cần phải có thời gian để điều tra, xác minh một cách thận trọng, thu thập chứng cứ một cách đầy đủ thì mới có thể kết luận được. Người thực hiện hành vi phạm tội phải có căn cước, lai lịch rõ ràng cũng là một trong những điều kiện để xem xét giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Với điều kiện này các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ không mất nhiều thời gian để xác minh độ tuổi, mức độ nhận thức hành vi phạm tội, hoàn cảnh gia đình, dân tộc, tôn giáo hay các đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo , đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng người.
6 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về thủ tục rút gọn trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
ThS. Đỗ Thị Phượng
Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
Trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 có một chương mới quy định về thủ tục rút gọn (chương XXXIII gồm 7 điều từ Điều 317 đến Điều 323). Chương “Thủ tục rút gọn” nằm trong phần thứ 7 của BLTTHS là phần quy định về thủ tục đặc biệt. Do đó, các thủ tục tố tụng này không áp dụng cho tất cả các vụ án hình sự mà chỉ giải quyết theo thủ tục rút gọn đối với một số vụ án nhất định.
Thủ tục rút gọn đã được quy định ở nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, tổ chức bộ máy của cơ quan tư pháp cũng như yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm mà ở các quốc gia này có những quy định về thủ tục, điều kiện, phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn khác nhau… Ở Việt Nam, các quy định về thủ tục rút gọn đã từng được thể hiện tại Thông tư số 10/TATC ngày 8/07/1974 của Toà án nhân dân Tối cao. Theo quy định này thì thủ tục rút gọn được thực hiện ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử với tổng số thời gian là không quá 14 ngày với những vụ án ít nghiêm trọng, đơn giản, rõ ràng. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định thủ tục rút gọn thành một chương riêng bao gồm những quy định về phạm vi, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục áp dụng. Thủ tục rút gọn là một dạng của thủ tục tố tụng đặc biệt trong đó nhà làm luật đã giản lược nhiều thủ tục tố tụng không cần thiết nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng mà vẫn đảm bảo tính chính xác, đúng đắn. Mặt khác, các quy định về thủ tục rút gọn cũng không trái với các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, không trái với chức năng thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, và vẫn đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Như vậy, thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là thủ tục đặc biệt trong đó thời hạn và các thủ tục tố tụng đã được rút ngắn và giản lược để việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm được nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác và đúng đắn.
Quy định về thủ tục rút gọn sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng một số lượng lớn những vụ án ít nghiêm trọng mà theo thủ tục tố tụng hiện hành vẫn phải giải quyết theo thủ tục thông thường. Bên cạnh đó thủ tục rút gọn sẽ góp phần vào việc giải quyết án tồn đọng, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án hình sự, đáp ứng được một trong những nội dung của cải cách tư pháp hiện nay. Tuy nhiên qua nghiên cứu chương này chúng tôi nhận thấy vẫn còn một số quy định bất hợp lý hoặc chưa đầy đủ. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu về thủ tục rút gọn và đề cập tới một số mặt hạn chế của nó.
1. Phạm vi và điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn.
Theo tinh thần của Điều 318 BLTTHS năm 2003, khi xét xử những vụ án mà có các điều kiện quy định tại Điều 319 thì việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm được áp dụng theo các quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này nhưng không được trái với những quy định của chương XXXIV.
Điều 319 quy định: Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang;
- Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
- Tội phạm được thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
- Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng;
Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang là người bị bắt khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt. Thông thường trong những trường hợp phạm tội quả tang, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể xác định được rõ ràng đó là hành động phạm tội và cần bắt ngay để ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc trốn tránh pháp luật của người đang bỏ chạy ngay sau khi thực hiện tội phạm. Trong các vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang thường là ngay từ ban đầu đã có đủ chứng cứ, người thực hiện hành vi phạm tội thường nhận tội, các vật chứng được thu hồi cho nên rất thuận lợi cho việc điều tra. Đối với hành vi phạm tội mà họ thực hiện phải đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng. Người phạm tội thường không có sự chuẩn bị một cách kỹ càng về công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm trong việc thực hiện tội phạm. Như vậy không phải tất cả các tội ít nghiêm trọng đều áp dụng thủ tục rút gọn. Xuất phát từ yêu cầu là việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án phải được tiến hành một cách nhanh chóng nhưng phải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên cần phải cân nhắc những loại tội ít nghiêm trọng nào mà không phức tạp, khó khăn lắm khi xử lý vụ án để xét xử theo thủ tục này. Bởi lẽ, đối với loại tội ít nghiêm trọng nhưng tính chất phức tạp, khó đánh giá, thống nhất hành vi và tội danh thì cần phải có thời gian để điều tra, xác minh một cách thận trọng, thu thập chứng cứ một cách đầy đủ thì mới có thể kết luận được. Người thực hiện hành vi phạm tội phải có căn cước, lai lịch rõ ràng cũng là một trong những điều kiện để xem xét giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Với điều kiện này các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ không mất nhiều thời gian để xác minh độ tuổi, mức độ nhận thức hành vi phạm tội, hoàn cảnh gia đình, dân tộc, tôn giáo hay các đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo…, đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng người.
Như vậy, khi giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn cần phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện trên, nếu thiếu một trong những điều kiện đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án sẽ rất khó có thể giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác được. Bên cạnh đó việc giải quyết theo thủ tục rút gọn còn phải đảm bảo được các quyền lợi cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cho nên trong một thời gian quá ngắn như vậy đòi hỏi các điều kiện đó phải đầy đủ. Có ý kiến cho rằng, cần quy định thêm điều kiện: “người phạm tội tự thú” trong Điều 319. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng không cần thiết phải có điều kiện đó vì khi đã có điều kiện thứ nhất là “Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang” tức là đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm bị đuổi bắt thì họ không thể bỏ trốn sau đó ra tự thú được. Nếu cho điều kiện này vào sẽ mâu thuẫn với điều kiện thứ nhất. Với các điều kiện trên đây thì việc điều tra, truy tố, xét xử sẽ không mất nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
2. Về thẩm quyền và quyết định áp dụng thủ tục rút gọn:
Về thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn. Xuất phát từ điều kiện áp dụng các thủ tục rút gọn là chỉ áp dụng thủ tục này đối với những loại tội ít nghiêm trọng, đơn giản, chứng cứ rõ ràng cho nên việc điều tra, truy tố, xét xử loại án này thuộc thẩm quyền của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án ở cấp huyện.
Về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
Điều 320 BLTTHS 2003 quy định:
“1.Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
2.Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
3. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại”.
Thủ tục rút gọn được tiến hành bắt đầu từ giai đoạn điều tra vụ án sau khi được Cơ quan điều tra đề nghị hoặc Viện kiểm sát xét thấy vụ án đó có đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 BLTTHS, Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời gian 24h.
Tuy nhiên với quy định này, chúng tôi thấy có điểm bất hợp lý như sau: Thứ nhất, với quy định ở khoản 1 Điều 319 sẽ dẫn đến cách hiểu là sau khi ra quyết định khởi tố vụ án (tức là sau khi xác định được sự việc có dấu hiệu tội phạm, Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án) thì theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ điều kiện quy định ở Điều 319 thì Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mà chưa có quyết định khởi tố bị can. Còn trong khoản 2 Điều 319 lại quy định: “Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ…”. Nếu theo quy định này thì sau khi có quyết định khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra phải có quyết định khởi tố bị can sau đó Cơ quan điều tra mới đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Điều đó có nghĩa là phải có quyết định khởi tố bị can trước khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Như vậy có sự không thống nhất giữa khoản 1 và khoản 2 của Điều 319. Do đó sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố bị can rồi mới đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
Mặt khác, bị can, người đại diện hợp pháp cần được giải thích rõ về thủ tục rút gọn để họ biết những quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn quá ngắn của thủ tục để có khiếu nại hay không khiếu nại về quyết định áp dụng thủ tục này. Nếu họ không được giải thích đầy đủ về thủ tục rút gọn có thể dẫn đến tình trạng họ sẽ không tin tưởng vào năng lực, trình độ của người tiến hành tố tụng, hay các quyền lợi của họ sẽ không được bảo đảm như khi áp dụng các thủ tục thông thường. Bên cạnh đó, khi được giải thích về quyền và nghĩa vụ theo thủ tục rút gọn, họ sẽ phải chuẩn bị về tâm lý và vật chất cũng như người bào chữa cho mình trước toà. Vấn đề bào chữa cho bị can, bị cáo là vấn đề rất quan trọng không chỉ đặt ra ở các thủ tục đặc biệt mà ngay cả các thủ tục thông thường. Do đó áp dụng thủ tục rút gọn ngoài việc đơn giản hoá quá trình tố tụng còn phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong đó có quyền bào chữa.
Thứ hai, Khoản 1,3 Điều 320 của BLTTHS quy định về đề nghị của Cơ quan điều tra và thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thuộc về Viện kiểm sát là rất chung chung. Cần phải chỉ rõ Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng viện kiểm sát cấp nào để tránh sự nhầm lẫn, chồng chéo về thẩm quyền. (Theo quy định Điều 34, Điều 36 BLTTHS 2003 thì chỉ khi Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một phó Thủ trưởng được Thủ trưởng uỷ nhiệm hay Phó viện trưởng Viện kiểm sát uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát, do đó theo chúng tôi chỉ nên quy định là Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát là đủ).
3. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo thủ tục rút gọn.
Việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo thủ tục rút gọn cũng giống như theo thủ tục chung là một vấn đề quan trọng vì nó liên quan trực tiếp tới quyền tự do thân thể và các quyền lợi khác của bị can, bị cáo. Do đó cần phải quy định chặt chẽ về thời hạn, thủ tục tạm giữ, tạm giam. Chính vì vậy mà Điều 322 BLTTHS năm 2003 quy định:
“1. Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
2. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
3. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày.”
Về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố được áp dụng theo các quy định chung trong BLTTHS. Có nghĩa là các căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo thủ tục rút gọn này đều phải tuân thủ theo quy định tại Điều 79, khoản 2, khoản 3 Điều 86, khoản 3 Điều 88 BLTTHS. Tuy nhiên để phù hợp với thời hạn điều tra, truy tố và tính chất của thủ tục rút gọn mà BLTTHS quy định thời hạn tạm giữ, tạm giam ngắn hơn so với quy định chung. Nếu trong quy định chung thì thời hạn tạm giam để điều tra không giống với thời hạn để điều tra (vì có trường hợp chưa xác định được bị can ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án do đó thời hạn tạm giam ở giai đoạn điều tra ngắn hơn so với thời hạn điều tra) còn đối với thủ tục rút gọn, ngay sau khi ra quyết định khởi tố vụ án là quyết định khởi tố bị can nên thời hạn tạm giam ở trong quy định này bằng thời hạn điều tra. Một điểm bất hợp lý khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo thủ tục rút gọn là thời hạn tạm giam được rút ngắn hơn so với quy định chung trong khi đó thời hạn để Viện kiểm sát phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định tạm giam của Cơ quan điều tra vẫn không rút ngắn mà vẫn là 3 ngày. Nếu theo thời hạn này, Cơ quan điều tra sẽ phải chờ đợi Viện kiểm sát hoàn trả hồ sơ sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn thì sẽ mất rất nhiều thời gian, họ không thể chủ động điều tra vụ án đó trong thời hạn tối đa chỉ có 12 ngày kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án. Đối với các biện pháp ngăn chặn khác như bắt người, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh hay đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo thủ tục rút gọn đều được áp dụng theo quy định chung của BLTTHS.
4. Quy định về điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn.
* Về điều tra
Khoản 1 Điều 321 quy định thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười hai ngày, kể từ ngày khởi tố vụ án. Như vậy, trong một thời gian rất ngắn Cơ quan điều tra phải tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết để xác định tội phạm và người thực hiện tội phạm, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, những chứng cứ buộc tội và gỡ tội…Chúng tôi cho rằng, với quy định về thời hạn như vậy là quá ngắn, Cơ quan điều tra không thể tiến hành các hoạt động điều tra được. Việc quy định thời hạn điều tra cho thủ tục rút ngắn như thế nào cho phù hợp với khả năng thực tế, điều kiện về phương tiện, trang thiết bị, cán bộ điều tra vụ án là hết sức quan trọng, tránh tình trạng việc quy định chỉ mang tính hình thức, đảm bảo các hoạt động điều tra được nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đầy đủ, toàn diện.
Khoản 2 Điều 321 quy định: “Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát”. Bản kết luận điều tra, đề nghị Viện kiểm sát truy tố là văn bản pháp lý trong đó thể hiện các kết quả điều tra của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra. Căn cứ vào nội dung của kết luận điều tra này mà Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can. Ngược lại các nội dung của kết luận điều tra cũng sẽ là cơ sở để Viện kiểm sát có quyết định việc truy tố hay không. Tuy nhiên nếu phải làm kết luận điều tra, Cơ quan điều tra sẽ mất rất nhiều thời gian. Hơn nữa, trong khi tiến hành các hoạt động điều tra, các biên bản, tài liệu như bắt quả tang, hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người tham gia tố tụng… đã thể hiện rất rõ và cụ thể trong hồ sơ vụ án. Chính vì vậy BLTTHS đã giản lược thủ tục làm kết luận điều tra và chỉ quy định là Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố, gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát xem xét và quyết định việc truy tố.
* Về truy tố.
Khoản 1 Điều 323 quy định:
“1. Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau:
a. Truy tố bị can trước toà án bằng quyết định truy tố;
b. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c. Tạm đình chỉ vụ án;
1. Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung”.
Khi nghiên cứu về thời hạn trong giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát ở quy định trên, chúng ta thấy với thời hạn bốn ngày là quá ngắn cho Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ và đưa ra các quyết định. Chúng tôi cho rằng nên kéo dài thời hạn trên tối đa là 7 ngày là khá hợp lý và có tính khả thi để đảm bảo cho Viện kiểm sát có đủ thời gian thực hiện được các yêu cầu của thủ tục tố tụng. Thủ tục rút gọn chỉ được tiếp tục thực hiện khi Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can trước toà bằng quyết định truy tố. Nếu theo quy định tại Khoản 1 Điều 166 là điều luật quy định của thủ tục chung thì Viện kiểm sát ra quyết định: “Truy tố bị can trước Toà án bằng bản cáo trạng”, vậy bản cáo trạng trong điều luật trên và quyết định truy tố trong khoản 1 Điều 323 có giống nhau không? Bản cáo trạng là văn bản của Viện kiểm sát mà nội dung là những căn cứ để truy tố bị can trước Toà án. Phần cuối cùng của Bản cáo trạng là quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát. Nếu như theo khoản 1 Điều 323, Viện kiểm sát sẽ không phải trình bày toàn bộ những căn cứ áp dụng, nội dung của vụ án trong cáo trạng mà chỉ cần ra quyết định truy tố bị can trước Toà án bằng quyết định truy tố. Chúng tôi cho rằng, theo quy định của BLTTHS thì thủ tục truy tố là bắt buộc (vì đây là giới hạn của việc xét xử), Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền truy tố bị can ra Toà án và Toà án phải dựa vào quyết định truy tố đó để đưa vụ án ra xét xử. Do vậy BLTTHS 2003 đã giản lược phần cáo trạng và giữ lại thủ tục truy tố là hợp lý, vừa đảm bảo thủ tục truy tố và xét xử tại phiên toà nhanh chóng mà vẫn đảm bảo được các quy định của thủ tục rút gọn theo đúng trình tự của BLTTHS. Trong trường hợp Viện kiểm sát ra các quyết định: tạm đình chỉ vụ án, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
* Về xét xử
Việc xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung. Tuy nhiên do trong giai đoạn truy tố BLTTHS 2003 đã lược bỏ cáo trạng chỉ còn quyết định truy tố cho nên việc xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ khác thủ tục xét xử thông thường ở chỗ thay vì đọc cáo trạng, kiểm sát viên sẽ tóm tắt nội dung vụ việc và công bố quyết định truy tố. Có ý kiến cho rằng BLTTHS cần quy định giản lược một số thủ tục trong khi xét xử theo thủ tục này, ví dụ: Hội đồng xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ cần một thẩm phán mà không cần có hai hội thẩm nhân dân tham gia, hay nếu trong khi xét xử bị cáo đã nhận tội thì không cần phải xét xử theo các trình tự như BLTTHS quy định mà có thể nghị án và tuyên án đối với bị cáo đó ngay. Theo chúng tôi các ý kiến này đều không hợp lý. Vì khi quy định Hội đồng xét xử chỉ có một thẩm phán thì đã vi phạm các nguyên tắc quy định tại Điều 15 (Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia), Điều 16 (Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật), Điều 17 (Toà án xét xử tập thể)… Hoặc nếu trong khi xét xử bị cáo nhận tội thì Toà án có thể tuyên án về hành vi phạm tội mà bị cáo đã nhận là đã vi phạm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong Điều 10 BLTTHS. Do đó quy định về xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn là hoàn toàn hợp lý không trái với các nguyên tắc của BLTTHS.
Về thời hạn của việc xét xử, cũng những lý do đã trình bày ở các phần trên về thời hạn điều tra, truy tố, thời hạn chuẩn bị để xét xử ở giai đoạn xét xử trong BLTTHS mới quy định là quá ngắn, Toà án không thể có đủ thời gian để chuẩn bị các công việc cần thiết như nghiên cứu hồ sơ, xem xét chứng cứ được cho nên cần kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử từ bảy ngày (theo khoản 1 và khoản 2 Điều 324) lên mười ngày ở mỗi điều khoản này.
Khoản 4 Điều 324 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Chánh án hoặc Phó chánh án Toà án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày”. Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng cần tăng thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử này là hai mươi ngày cho phù hợp.
Sau khi Toà án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Tuy nhiên trong khoản 3 Điều 324 không quy định về việc Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Do đó cần bổ sung cụm từ đó vào điều luật để đảm bảo sự thống nhất khi áp dụng pháp luật.
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng nên quy định thủ tục rút gọn ở thủ tục phúc thẩm đối với loại án đã được rút gọn ở thủ tục sơ thẩm. Song theo chúng tôi không nên quy định rút gọn ở thủ tục phúc thẩm. Bởi vì phúc thẩm là thủ tục tố tụng tạo điều kiện để toà án cấp trên trực tiếp xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm đã được xét xử theo thủ tục rút gọn. Việc xét xử phúc thẩm trong trường hợp này cần được tiến hành theo thủ tục chung. Do đó chúng tôi cho rằng quy định như trong khoản 5 Điều 324 là phù hợp.
Tóm lại, đưa được thủ tục rút gọn vào trong BLTTHS sửa đổi, bổ sung 2003 là một điểm rất tiến bộ của các nhà làm luật. Tuy vẫn còn một số điểm thiếu sót nhưng thủ tục rút gọn này đã kế thừa các quy định về thủ tục này trong các văn bản pháp lý trước đây, trên cơ sở tham khảo quy định của các nước, có nghiên cứu tới điều kiện kinh tế xã hội, hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy của cơ quan tư pháp cũng như yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm của Việt Nam cho phù hợp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề về thủ tục rút gọn trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.doc