Luật cơ bản về DNNVV mới được ban hành năm 1999 hỗ trợ cho việc cải cách cơ cấu để tăng tính thích nghi của DNNVV với những thay đổi của môi trường kinh tế – xã hội, tạo thuận lợi cho việc tái cơ cấu công ty. Các Luật tạo thuận lợi cho thành lập doanh nghiệp mới và Luật hỗ trợ DNNVV đổi mới trong kinh doanh khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập các doanh nghiệp mới, tăng nguồn cung ứng vốn rủi ro, trợ giúp về công nghệ và đổi mới. Luật xúc tiến các hệ thống phân phối có hiệu quả ở DNNVV hỗ trợ cho việc tăng cường sức cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ thông qua công nghệ thông tin và xúc tiến các khu vực bán hàng. Một Hệ thống cứu tế hỗ tương cũng đã được thiết lập nhằm hạn chế sự phá sản của DNNVV
104 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu các vấn đề về doanh nghiệp vừa và nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hú Thọ ở phía Tây.
Những nét chính về dân cư, hành chính, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội Hà Nội
+ Dân cư, mật độ dân số
Số dân là: 6.1 triệu người, Dân cư Hà Nội phân bố không đều giữa các lãnh thổ hành chính và giữa các vùng sinh thái.Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 2881 người/km2 (mật độ trung bình ở nội thành 19163 người/km2, riêng quận Hoàn Kiếm là 37265 người/km2, ở ngoại thành 1721 người/km2). Mật độ này cao gấp gần 12 lần so với mức trung bình của cả nước, gần gấp đôi mật độ dân số của vùng đồng bằng sông Hồng và là thành phố có mật độ cao nhất cả nước.
+Hà Nội, đầu não chính trị của cả nước
Là trái tim đất nước, Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội.
Thủ đô cũng là nơi diễn ra các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đại sứ quán của nhiều quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác được tiến hành tại đây.
Hà Nội tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn mà Việt Nam đăng cai như Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp, Hội nghị cấp cao các nước ASEAN...
Tính đến năm 2002, GDP Hà nội đạt 20.280 tỷ đồng chiếm 7,8% tổng sản phẩm nội của cả nước với tốc độ tăng trưởng 10,37% so với năm 2001. Trong đó tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 2,4%; ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 38,8% và ngành dịch vụ chiếm 58,8%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm 2000-2002 của Hà Nội đều tăng hơn 10% mỗi năm.
Hằng năm, Hà Nội tổ chức một số lượng lớn hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa phương.
Phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia đều được thực hiện và bảo vệ đề tài tại Hà Nội.
Hà Nội cũng là nơi đào tạo nhân tài cho cả nước. Đã có biết bao nhiêu cử nhân, tiến sĩ, giáo sư... trưởng thành từ đây, đang có mặt ở khắp mọi miền của Tổ quốc, phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; góp sức làm cho nước mạnh dân giàu, nâng cao dân trí cho xã hội.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đô :
Năm 2008, năm bản lề thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 và thực hiện chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Thành phố Hà Nội năm 2008 đã đạt được những kết quả đáng kể với tốc độ phát triển so với năm trước đạt ở mức độ khá: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 10,58%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,8%, tổng mức bán lẻ tăng 31,2%, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 35,5%, tổng vốn đầu tư xã hội tăng 19,3%, các mặt văn hoá, xã hội, trật tự an toàn được duy trì ổn định.
Dự kiến cả năm 2008, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 10,58% so năm 2007, trong đó ngành công nghiệp mở rộng tăng 11,7% (đóng góp 5,02% và mức tăng chung), các ngành dịch vụ tăng 10,8% (đóng góp 5,36% vào mức tăng chung) và ngành nông, lâm, thuỷ sản tăng 2,7% (đóng góp 0,2% và mức tăng chung).
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thành phố tăng 12,8% so năm 2007, trong đó kinh tế nhà nước tăng 1,4% (kinh tế Nhà nước Trung ương tăng 2%, kinh tế Nhà nước địa phương giảm 0,5%), kinh tế ngoài Nhà nước tăng 18,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,5%.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngân sách Nhà nước địa phương đạt 6385,86 tỷ đồng bằng 63,9% kế hoạch cả năm. Ước tính cả năm 2008, Hà Nội thu hút được khoảng 300 dự án (giảm 17,8% so năm 2007), với vốn đầu tư đăng ký khoảng trên 5 tỷ USD (tăng 53,3%); trong đó cấp mới 270 dự án (giảm 19,6%), với vốn đầu tư ước tính 4,4 tỷ USD (tăng 54,9%), bổ sung tăng vốn 30 dự án (tăng 3,4%) với khoảng 0,6 tỷ USD (tăng 42,2%). Dự kiến vốn đầu tư xã hội năm 2008 là 97.697 tỷ đồng, tăng 19,3% so năm 2007, trong đó vốn đầu tư Nhà nước giảm 22,1%, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,9%, vốn đầu tư của kinh tế ngoài Nhà nước tăng 29,2%, dân tự đầu tư tăng 37,9% và vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,1%.
Tổng mức và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước tăng 28,2% so với năm 2007, trong đó tổng mức bán lẻ tăng 31,2%. Dự kiến cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội tăng 35,5% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu địa phương tăng 25,2%. Kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội dự kiến cả năm 2008 tăng 26,8% so với năm 2007, trong đó nhập khẩu địa phương tăng 23,1%, máy móc thiết bị phụ tùng tăng 20,6%, vật tư nguyên liệu tăng 29,3%. 12 tháng năm 2008, khách Quốc tế đến Hà Nội là 1255 ngàn lượt khách, giảm 2,8% so cùng kỳ; khách nội địa là 6595 ngàn lượt khách, tăng 14,1%; doanh thu du lịch đạt 10 135 tỷ đồng tăng 28,5% so với năm 2007.
So với năm 2007, trên địa bàn Thành phố khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 25,8%, khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 10,3%, doanh thu vận chuyển hàng hoá tăng 36,4%, khối lượng hành khách vận chuyển tăng 16,5%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 17,7%, doanh thu vận chuyển hành khách tăng 28,6%.
Cả năm 2008, giá trị tem thư, tem máy là 38 tỷ đồng, tăng 7,1% so với năm 2007, bưu phẩm chuyển phát nhanh là 22 tỷ đồng, giảm 16,6%, doanh thu đạt 901 tỷ đồng, tăng 11,3%. Số lượng thuê bao thu cước tăng thêm là 221 ngàn thuê bao điện thoại (trong đó 68% thuê bao di động), 102 ngàn thuê bao internet. Doanh thu ước tính đạt 2560 tỷ đồng, tăng 12% so năm 2007. Chỉ số giá tiêu dùng tháng mười hai năm 2008 so tháng trước giảm 1,3%. Dự kiến chỉ số giá tiêu dùng 12 tháng năm 2008 so 12 tháng năm 2007 tăng 22,92%, chỉ số giá vàng tăng 32,72%, chỉ số giá Đôla Mỹ tăng 3,25%.
Tổng diện tích lúa mùa toàn thành phố là 100.512 ha bằng 99,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến thời điểm 1 tháng 10 năm 2008, tổng đàn trâu có 28,9 ngàn con, giảm 1,35% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò có 207.367 con, giảm 11,51% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 6.860 tấn tăng 22,28% so với năm trước. Đàn bò sữa tăng 1,88% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng sữa tươi đạt 11.301 lít tăng 29,02%. Số đầu con 1,67 triệu con, tăng 1,89%; số con xuất chuồng đạt 4,03 triệu con tăng 17,74%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 276,3 ngàn tấn tăng 20,21%. Chăn nuôi gia cầm phát triển tương đối ổn định, tổng đàn gia cầm là 15,7 triệu con, tăng 6,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đàn gà nuôi đạt 11,18 triệu con chiếm 71,21% tổng đàn và tăng 7,39%. Sản lượng thịt gia cầm giết bán trong năm đạt 36,42 ngàn tấn, tăng 7,15%; sản lượng trứng các loại đạt 408,5 triệu quả, tăng 2,86%.
Năm 2008, trồng mới và trồng bổ sung được 250 ha rừng, Sản phẩm lâm nghiệp ước tính thu hoạch trong năm: Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 6.665 m3; sản lượng củi 40.815 Ster; sản lượng tre, luồng, vầu 2.830 ngàn cây.
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn thành phố là 18.045 ha, tổng số lồng, bè nuôi thuỷ sản là 379 chiếc. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong năm là 34.746 tấn bằng 88,7% so với năm 2007, trong đó sản lượng cá là 34.717 tấn. Sản lượng khai thác thuỷ sản trong năm là 3.022 tấn tăng 22,35% so với năm 2007, trong đó cá 1.874 tấn. Số hộ đánh bắt thuỷ sản 2.757 hộ, số lao động đánh bắt thuỷ sản năm 2008 là 3.858 người.
So với năm 2007, giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản tăng 6,68%, trong đó: trồng trọt tăng 3,48%, chăn nuôi tăng 13.85%, dịch vụ nông nghiệp giảm 2,84%, thuỷ sản giảm 14,01% và lâm nghiệp giảm 5,04%. Sản lượng thóc đạt 1.177.440 tấn (tăng 6,21% so năm 2007), ngô đạt 108.271 tấn (tăng 13,79%), rau các loại đạt 489.617 tấn (tăng 2.39%), đỗ tương đạt 43.799 tấn (giảm 19,35%), lạc đạt 15.442 tấn (tăng 6,16%) trên diện tích: lúa 206.088 ha (giảm 1,28%), ngô 25.493 ha (tăng 5,63%), rau các loại 28.433 ha (giảm 0,21%), đỗ tương 34.736 ha (giảm 2,19%), lạc 8.331 ha (tăng 0,3%).
Hiện nay, ngành giáo dục mầm non Hà Nội có 767 trường (công lập 300 trường), 11.174 lớp (2.943 lớp nhà trẻ và 8.231 lớp mẫu giáo), 282.813 cháu (62.460 cháu nhà trẻ, 233.990 cháu mẫu giáo). Giáo dục tiểu học có 674 trường (công lập 653 trường), 13.253 lớp và 411.548 học sinh với công tác phổ cập giáo dục đúng độ tuổi được duy trì với hiệu quả cao, huy động 99% trẻ trong độ tuổi vào lớp 1. Giáo dục trung học cơ sở có 584 trường (579 trường công lập), 9.362 lớp và 345.711 học sinh. Số học sinh tuyển mới vào lớp 6 năm học 2008-2009 là 82.086 học sinh. Giáo dục trung học phổ thông có 182 trường (104 trường công lập), 5.008 lớp và 226.502 học sinh, số học sinh tuyển mới vào lớp 10 năm học 2008-2009 là 75.676 học sinh.
Số đơn vị ngành y tế gồm 86 đơn vị với 45 đơn vị tuyến thành phố (26 bệnh viện, 17 trung tâm chuyên khoa, 1 trường cao đẳng y tế, 1 chi cục dân số – kế hoạch hoá gia đ́nh), 41 đơn vị tuyến quận huyện (29 trung tâm y tế dự pḥòng, 12 bệnh viện) và 577 đơn vị tuyến xã - phường - thị trấn (toàn thành phố có 2 xã chưa có trạm y tế là xã Phú La - Hà Đông và xã Chi Đông – Mê Linh).
Từ đầu năm 2008, đã xảy ra 2 đợt dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm với tổng số người mắc bệnh là 2.284 người, trong đó 263 trường hợp dương tính với phẩy khuẩn tả, xảy ra trên 26 quận huyện. Số người mắc dịch sốt xuất huyết là 123 người. Tính đến 15 tháng 11 năm 2008, luỹ tính số người nhiễm HIV-AIDS là 17.389 người, số người chuyển sang AIDS là 4.659 người, số người tử vong là 2.793 người.
Tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn trong thời gian gần đây diễn biến theo chiều hướng tốt: số vụ tai nạn giao thông xảy ra trong 11 tháng 2008 là 920 vụ (giảm 8% so cùng kỳ năm trước) làm chết 693 người (giảm 3%) và làm bị thương 492 người (giảm 36%).
Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước tính cả năm 2008 đạt 67.430 tỷ đồng vượt 12% dự toán năm, trong đó thu nội địa là 54.420 tỷ đồng vượt 12,2% dự toán. Tổng chi ngân sách địa phương năm 2008 là 20.499 tỷ đồng, vượt 3,1% dự toán, trong đó chi thường xuyênlà 9.247 tỷ đồng, vượt 16,6% dự toán, chi xây dựng cơ bản là 9.065 tỷ đồng, chỉ đạt 89,8% dự toán.
Tổng nguồn vốn huy động đến hết tháng 12 năm 2008 là 428.092 tỷ đồng, tăng 6,45% so tháng trước và tăng 10,6% so cùng kỳ năm trước, trong đó tiền gửi dân cư tăng 15,34% và 15,8%, tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng 0,3% và 7,01%. Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng 12 năm 2008 đạt 258.869 tỷ đồng, tăng 23,48% so tháng trước và tăng 27% so cùng kỳ năm trước, trong đó dư nợ ngắn hạn tăng 19,81% và 25,03%, dư nợ trung và dài hạn tăng 29,22% và 30,09%.
Năm 2009 được xác định là năm nước rút để thực hiện thắng lợi kế hoạch KTXH 5 năm 2006 - 2010, quý I năm 2009 KTXH Hà Nội tiếp tục phát triển và tăng trưởng so cùng kỳ năm trước: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 3,1%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 5,7%, vốn đầu tư xã hội tăng 10,34%, tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 19,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 8,4%..., an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định, đời sống nhân dân lao động được bảo đảm.
Tổng sản phẩm trên địa bàn quý I năm 2009 tăng 3,1% so cùng kỳ năm trước. Ngành công nghiệp xây dựng đạt mức tăng khá nhất với giá trị tăng thêm tăng 5,5% (đóng góp 2,47% vào mức tăng chung), các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm tăng 4% (đóng góp 1,88% vào mức tăng chung), ngành nông - lâm - thuỷ sản có giá trị tăng thêm giảm 18,4% (làm giảm 1,25% vào mức tăng chung)
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng 5,7% so cùng kỳ năm trước, trong đó kinh tế Nhà nước tăng 2,2% (kinh tế Nhà nước Trung ương tăng 2,6%, kinh tế Nhà nước Địa phương tăng 0,9%), kinh tế ngoài Nhà nước tăng 9,7% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 4,8%.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn Nhà nước do Địa phương quản lý đạt 5.581,0 tỷ đồng, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2008; bằng 19,8% so với kế hoạch năm 2009. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt 2.629,8 tỷ đồng, tăng 75,5% so với cùng kỳ, đạt 22,6% so với kế hoạch năm 2009, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước đạt 648,5tỷ đồng, giảm 50,6% so với cùng kỳ và đạt 10% so với kế hoạch năm, vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước đạt 952,1 tỷ đồng, giảm 24,6% so với cùng kỳ, đạt 23,5% so với kế hoạch năm. Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn quý I năm 2009 dự kiến đạt 22.419 tỷ đồng, tăng 10,34% so cùng kỳ năm trước, trong đó vốn trong nước đạt 20.476 tỷ đồng tăng 12,98%, vốn ngoài nước đạt 1.943 tỷ đồng, giảm 11,48%. Trong tổng số vốn trong nước, vốn đầu tư của Nhà nước tăng 17,48%, doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư giảm 24,62%, các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đầu tư tăng 20,76%, dân tự đầu tư tăng 8,79%, vốn khác giảm 72,41%.
Hà Nội thu hút được 60 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 42 triệu USD. So với cùng kỳ năm trước số dự án chỉ bằng 83% (60/72), vốn đầu tư đăng ký chỉ bằng 7% (42 triệu USD/575 triệu USD)
Tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội quý I năm 2009 tăng 19,5% so cùng kỳ năm trước, trong đó bán lẻ tăng 19,9%. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 8,4% so cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu địa phương giảm 4,4%. Kim ngạch nhập khẩu quý I năm 2009 trên địa bàn giảm 48,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu địa phương giảm 36,2%.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng 15,18%, chỉ số giá vàng tăng 5,82%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 10,48%. Chỉ số giá tháng Ba năm 2009 so tháng Mười hai năm 2008 tăng 1,22% (tốc độ tăng giá bình quân 1 tháng là 0,4%).
Quý I, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 7.000 người trên 21.000 lao động đăng ký (kế hoạch 2009 là giải quyết việc làm cho 126.000 người).
Tổng thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn là 19.199 tỷ đồng, đạt 27,2% dự toán năm; Trong đó: Thu nội địa là 17.266 tỷ đồng, đạt 30,2% dự toán năm (thu từ khu vực DNNN Trung ương đạt 41,6%, thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,5%, thu từ khu vực ngoài quốc doanh đạt 35,4%); thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế VAT hàng nhập khẩu là 1.650 tỷ đồng, đạt 23,1% dự toán năm; thu từ dầu thô là 283 tỷ đồng, đạt 4,5% dự toán năm.
Chi ngân sách địa phương ước thực hiện 3.500 tỷ đồng, đạt 14,3% dự toán HĐND Thành phố thông qua. Trong đó: Chi đầu tư XDCB trong nước ước thực hiện 800 tỷ đồng, đạt 7,1% dự toán năm, chi thường xuyên ước thực hiện 2.590 tỷ đồng, tăng 23% dự toán năm.
2.2. Thực trạng các DN nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội
2.2.1. Số lượng và quy mô các DNN&V trên địa bàn Hà Nội
Tại thời điểm 31/12/2006, số doanh nghiệp trên địa bàn TP Hà Nội phân theo quy mô lao động (Phụ lục 1)
Theo phụ lục 1 ta thấy rằng tổng số DNN&V là 21.216 doanh nghiệp (tổng những DN dưới 300 lao động ), chiếm 97% trong tổng số DN trên địa bàn TP Hà Nội, điều này cho thấy DNN&V ở Hà Nội phát triển rất mạnh, tạo ra một nguồn thu không nhỏ cho Thủ đô mỗi năm.
So với cả nước thì số DN trên địa bàn Hà Nội chiếm tỷ lệ rất cao, hơn hẳn số DN ở các vùng khác như Đông bắc bộ, Tây bắc bộ, Bắc trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây nguyên hay Đồng băng sông Cửu Long. Duy chỉ có TP Hồ Chí Minh là có số DN lớn hơn Hà Nội.
Hà Nội cũng là địa phương có trên 3.000 doanh nghiệp ĐKKD giai đoạn 2000 – 2007
Bảng 3. Địa phương có trên 3.000 doanh nghiệp ĐKKD giai đoạn
2000 – 2007
STT
Địa phương
Số lượng DN
(doanh nghiệp)
Số vốn
(triệu đồng)
1
TP. HCM
82.591
267.033.251
2
Hà Nội
53.339
222.068.899
3
Hải Phòng
9.852
47.392.428
4
Đà Nẵng
6.625
16.015.373
5
Bình Dương
5.564
21.756.697
6
Đồng Nai
5.290
25.002.736
7
Khánh Hoà
3.962
11.010.388
8
Cần Thơ
3.720
8.905.958
9
Quảng Ninh
3.708
25.152.616
Hơn nữa, tính đến cuối năm 2007, Hà Nội có thêm 10.913 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh, với tổng số vốn đăng kí là 120.501.824 triệu đồng, số vốn đăng kí bình quân đạt 11.042 triệu đồng
Với số lượng lớn các DN đăng kí kinh doanh như vậy, Hà Nội đã giải quyết được việc làm cho hàng nghìn lao động. Ở đây ta lại thấy rõ hơn về tầm quan trọng cũng như vai trò của DNN&V trong nền kinh tế.
Tính đến tháng 12/2008, trên địa bàn Hà Nội có khoảng 76.000 doanh nghiệp. Trong đó, có 1250 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đầu tư ước tính khoảng 15,6 tỷ USD; 676 doanh nghiệp Nhà nước và 74.029 doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Khu vực kinh tế ngòai nhà nước đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế Thủ đô, đóng góp 21,7% GDP toàn Thành phố; 20% GTSXCN; thu hút 60% lao động việc làm... góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.
Cơ cấu các DNN&V
Biểu đồ 1. DN phân bố theo ngành
Biểu đồ trên cho thấy có quá ít doanh nghiệp tham gia vào một số ngành công nghiệp kỹ thuật cao, ngành có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng như ngành công nghiệp điện tử; ngành sản xuất máy móc thiết bị điện, ngành sản xuất ô tô, xe máy...; số doanh nghiệp tham gia vào các ngành này chỉ ở mức trên dưới 1% trong tổng số doanh nghiệp; trong khi đó có quá nhiều doanh nghiệp tham gia vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động giản đơn. (nguồn : Trung tâm hỗ trợ DNN&V Hà Nội)
Mặc dù phát triển mạnh như vậy nhung DNN&V vẫn luôn gặp phải những khó khăn. Không có gì là hoàn hảo và nền kinh tế cũng thế, muỗn có được thành công thì các DNN&V phải vượt qua được những thách thức của thị trường.
2.2.2. Những khó khăn mà các DNN&V của Hà Nội đang gặp phải
Trong tình hình lạm phát như hiện nay,trong khi giá cả mọi mặt hàng đều tăng (trừ mỗi cước viễn thông) và ngân hàng thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng việc tăng lãi suất và hạn chế cho vay thì tình trạng của DNN&V lại càng “bi đát” hơn bao giờ.
Biểu đồ 2. 10 khó khăn cản trở DNN&V
(nguồn : Trung tâm hỗ trợ DNN&V Hà Nội)
Doanh nghiệp phải huy động vốn bằng mọi cách
Khi các ngân hàng thương mại tăng lãi suất cho vay, lựa chọn khách hàng cũng như lựa chọn các dự án đầu tư, các doanh nghiệp khi ấy "mạnh ai nấy lo", tự huy động vốn từ mọi nguồn bằng mọi khả năng của mình: "Thắt lưng buộc bụng", huy động trên thị trường bằng cổ phiếu, vay tín chấp... Tuy nhiên đây cũng chỉ là giải pháp tạm thời.
Bảng 4. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn vốn
Tỷ lệ (%)
- Vốn tự có
36,25
- Vốn vay ngân hàng
45,31
- Vốn khác
18,44
Nguồn : Báo cáo NHNN, 2008
Trong cơ cấu vốn của DNNVV thì tỷ trọng vốn vay ngân hàng lên đến trên 45%, điều này cho thấy vốn tín dụng ngân hàng giữ một vai trò quan trọng đối với DNNVV.
Theo nghiên cứu mới đây của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có đến 74,47% doanh nghiệp được điều tra cho hay, ngân hàng vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu của họ. Theo điều tra 282 doanh nghiệp thì có đến 79,2% doanh nghiệp có vay vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp
Tỷ lệ %
- Đúng nhu cầu
10,5
- Thỏa mãn ¾ nhu cầu
26,1
- Đáp ứng ½ nhu cầu
33,5
- Chỉ vay được ¼ nhu cầu
29,8
Bảng 5. Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp
Nguồn : VCCI, 2008
Nhu cầu về vốn của DNNVV chủ yếu là vốn vay ngân hàng nhưng mức độ đáp ứng vốn cho doanh nghiệp của ngân hàng chỉ vào khoảng 30-40%. DNNVV hiện nay khó tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng, một số khó khăn
được tổng hợp như sau :
Bảng 6. Những khó khăn khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng
Khó khăn
Tỷ lệ %
- Lãi suất vay cao
73,8
- Thiếu tài sản thế chấp
29,6
- Vướng mắc về thủ tục hành chính
23,7
- Khó khăn về lập phương án kinh doanh
19,1
Nguồn : VCCI, 2008
Trong những khó khăn mà DNNVV gặp phải khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng thì khó khăn do lãi suất vay cao chiếm tỷ lệ đáng kể 73,8%. Doanh nghiệp hoạt động phải có lãi trên 20% mới đủ trả lãi vay cho ngân hàng đã là một vấn đề hết sức khó khăn chưa kể đến phần lợi nhuận đủ để trang trãi các chi phí khác của doanh nghiệp.
Giảm thiểu tối đa chi phí: Doanh nghiệp thường "thắt lưng buộc bụng" bằng việc tạm thời cắt giảm chi phí cạnh tranh, các chi phí quản lý và đãi ngộ nhân viên, các khoản đầu tư cho cơ sở hạ tầng sản xuất, chi phí quảng bá hình ảnh... Đây là một chương trình ngắn hạn và hiệu quả làm gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Tuy nhiên xét về lâu dài cách này mang lại nhiều tác động không tốt tới tình hình phát triển của doanh nghiệp. Trước hết, điều này gây xói mòn những nỗ lực cải thiện cạnh tranh về lâu dài. Đôi khi việc cắt giảm lại “vô tình loại bỏ những thứ quý giá trong đống lộn xộn cần phải quẳng đi” ví dụ như một vài năng lực quan trọng sẽ mất đi, và kết quả thu được trở nên ngược lại với mong muốn. Cuối cùng, công ty lại phải đối mặt với những việc gia tăng chi phí ở các khu vực khác.
Huy động từ các quỹ đầu tư: Ngoài việc phải trả lãi suất ngân hàng 1,5 %/tháng (tương đương 18%/năm) còn phải trả thêm phí thu xếp vốn vay là 0,4 %- 0,5 %/ tháng - lãi suất thực đã đội lên tới 24%/năm (tăng thêm 2% so với trước đây). Việc tăng lãi suất cho người kinh doanh vay vốn làm tăng giá thành sản phẩm và dịch vụ, tác động tăng giá trên thị trường xã hội, đi ngược lại mục tiêu kiềm chế lạm phát của việc NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Bên cạnh đó việc doanh nghiệp vay vốn lại càng khó khăn hơn khi các ngân hàng Thương mại buộc phải lựa chọn khách hàng, lựa chọn dự án... Nhiều dự án bị từ chối vay vốn, hoặc doanh nghiệp không dám vay, không dám triển khai dự án. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nguồn vốn từ thị trường: Vay vốn ngân hàng khó khăn buộc các doanh nghiệp phải huy động nguồn vốn khác đó là những nguồn vốn trực tiếp mang tính chất thị trường, như: phát hành cổ phiếu, bán cổ phiếu nội bộ, cổ phần hoá Hoặc là vay tín chấp bằng cách huy động nguồn vốn thông qua người nhà, vay trực tiếp trên thị trường không thông qua ngân hàng hoặc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong cán bộ công nhân viên hay là kéo dài thời hạn thanh toán với bạn hàng hoặc ngân hàng... Các giải pháp này tuy giúp ngăn chặn nạn đầu cơ vào bất động sản, chứng khoán nhưng không khả quan mấy và không lâu dài nhất là khi tình hình thị trường cổ phiếu đang sụt giảm. Với những DN cần vốn dài hạn và các dự án đầu tư lớn, nếu không có đủ vốn đế đáp ứng kịp thời sẽ rất dễ gây đổ bể.
Doanh nghiệp bị hạn chế phát triển
Khó khăn nữa của doanh nghiệp là bị kiềm chế sự phát triển. Tình hình tài chính yếu kém nên vấn đề nợ đọng trong doanh nghiệp càng tăng. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy tạo vốn dễ đưa doanh nghiệp tới các việc làm tiêu cực: đầu cơ, buôn lậu... Vấn đề thiếu nhân sự cũng mang lại nhiều tổn thất lớn cho nhà đầu tư.
Nợ đọng tăng cao, mất cơ hội hợp tác và đầu tư: Trong bối cảnh thiếu vốn làm ăn, chuyện các doanh nghiệp sử dụng vốn của các đối tác, khách hàng là điều không tránh khỏi. Bên phía doanh nghiệp thì tìm đủ mọi cách để thu tiền đúng thời hạn, nếu không được thì càng sớm càng tốt để còn tái đầu tư. Bên phía khách hàng thì viện ra đủ thứ lý do để trì hoãn việc thanh toán hóa đơn... Ngoài ra còn vấn đề nợ quá hạn ngân hàng vì khi trả thì cũng chưa vay lại ngay được. Tình hình này kéo dài sẽ tác động rất xấu đến tính phát triển bền vững của các doanh nghiệp.Vì nó đặt doanh nghiệp vào thế bị động về tài chính và làm mất đi nhiều cơ hội hợp tác đầu tư khác của doanh nghiệp.
Dễ phát sinh các hiện tượng tiêu cực như đầu cơ, trồn thuế, buôn lậu: Thiếu vốn, doanh nghiệp không đủ sức đầu tư dài hạn. Họ sẽ tập trung nhiều vào những lĩnh vực không tạo ra nhiều năng lực sản xuất cũng như giá trị gia tăng thậm chí là đầu cơ. Điều này rất nguy hiểm vì sẽ gây nên tình trạng khan hiếm hàng hóa. Giá cả mặt hàng này sẽ theo đó mà đội lên nhiều lần so với giá của thế giới và giá trị thực của nó. Điều này còn ảnh hưởng rất lớn tới nỗ lực giảm lạm phát của chính phủ. Ví dụ như giá thành các loại gạo đầu tháng 5/2008 đều tăng lên gấp đôi giá trị thực gây nhiều hoang mang trong lòng người dân. Ngoài ra đó là nạn nhập lậu để trốn thuế tăng lợi nhuận. Điều này cũng tác động tới lạm phát không kém vì đây là hình thức làm cho đồng đô la chảy ngược không kiểm soát.
Thiếu nhân sự, lao động: Việc không đủ nhân sự gây ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Doanh nghiệp trong thời kỳ tài chính khó khăn nên không có khả năng tăng lương và các chế độ đãi ngộ để giữ chân nhân viên. Để đảm bảo cho cuộc sống của bản thân và gia đình, người tài năng và các cán bộ nhân viên lũ lượt xin nghỉ việc để tìm kiếm cơ hội ở các mảnh đất màu mỡ hơn như công ty liên doanh, nước ngoài... nơi các chế độ đãi ngộ dành cho họ tốt hơn. Doanh nghiệp lại phải tiếp tục tuyển dụng và đào tạo lại nhân sự. Điều này gây tâm tư hoang mang trong bộ phận nhân sự và gây cho chủ doanh nghiệp nhiều tổn thất về thời gian cũng như về kinh phí đào tạo và giá trị sản xuất.
Nhìn chung các DNN&V lao động ít được đào tạo một cách bài bản mà chủ yếu theo những phương pháp truyền nghề, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Bản thân các DN khó có thể giữ được những nhân viên giởi vì hầu hết lao động các DNN&V là những người mới ra trường rất thiếu kinh nghiệm hoặc từ nông thôn lên tìm việc làm.Họ sẵn sàng nhận mức lương thấp trong thời gian đầu chỉ để có việc làm.Do đó, nhiều nhân viên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1882.doc