Hoạt động của sông Hồng và các chi lưu của nó có ảnh hưởng lớn tới địa hình,
và do vậy có ý nghĩa lớn đối với công tác quy hoạch phát triển đô thị. Biến động lòng
sông trong quá khứ để lại dấu ấn khá rõ nét trong trầm tích cũng như hình thái địa
hình. Thông qua các hoạt động của con người (chủ yếu là sử dụng đất), mà hoạt động
này có sự phân dịkhá rõ theo những thực thể vật chất tự nhiên và chính chúng tạo nên
một dấu hiệu hay một lớp thông tin đáng tin cậy trong quy trình xử lý GIS để nhận
biến sự biến động lòng sông. Từ việc phân tích những thông tin về các thành tạo địa
hình âm dạng tuyến, đôi nơi còn sót các ao hồ cùng thông tin về thành phần vật chất
(được xác định khá tốt trên ảnh viễn thám -hình 1) và các dấu hiệu gián tiếp (nhờ lớp
thông tin v ề phân bố dân cư và các đường đồng mức cũng như các điểm độ cao trên
bản đồ địa hình), với sự trợ giúp của các phần mềm GIS, đã tiến hành khôi phục lại
hoạt động của lòng sông Hồng trong quá khứ và xây dựng bản đồ các thế hệ lòng cổ
của sông Đáy, sông Nhuệ. Sự phân bố của các lòng cổ phù hợp với quy luật dòng
chảy, hầu hết các lòng cổ đều chạy theohướng tây bắc xuống đông nam.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2999 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu địa mạo cho quy hoạch mở rộng đô thị Hà Nội về phía tây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và đặc biệt là đặc trưng biến động trong quá khứ của sông Đáy, sông Nhuệ. Cách nhìn
nhận mới ở đây là việc phục dựng những đới biến động (chứ không chỉ là lòng sông
cổ) và nguyên nhân biến động của các lòng sông Hồng, sông Đáy, sông Nhuệ và sông
Tô Lịch nhằm phục vụ cho việc xác lập những diện tích có độ ổn định cao trong quy
hoạch phát triển và mở rộng thủ đô.
1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO KHU VỰC
Về mặt sơn văn, Hà Nội có đầy đủ 3 nhóm địa hình cơ bản là đồng bằng, đồi
và núi với cách sắp xếp cao dần về phía tây. Phần trung tâm rộng lớn hơn cả là đồng
bằng hạ lưu và đồng bằng châu thổ của sông Hồng, chuyển lên phía tây là những dải
gò đồi rất thoải của Thạch Thất - Hòa Lạc, Sơn Tây - Ba Vì. Đặc điểm địa mạo của
khu vực đã được tập thể tác giả cũng như các nhiều nhà khoa học khác phân tích
[1,2,6], trong đó đã cho thấy vùng phía tây Hà Nội có đầy đủ 3 nhóm địa hình cơ bản
là núi, đồi và đồng bằng. Địa hình khu vực khá đa dạng với các nhóm dạng địa hình
được thành tạo bởi quá trình bóc mòn chung, phân bố ở phía tây trên các khối núi Ba
Vì và Viên Nam; nhóm dạng địa hình do hoạt động dòng chảy được hình thành bởi
sông Hồng và các chi lưu như sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tích cũng như các sông
suối nhỏ khác; nhóm địa hình karst có diện tích không lớn, song tạo nên tính độc đáo
và đa dạng của cảnh quan, đó là các khối karst sót nổi trên nền đồng bằng tích tụ ở
Chùa Thầy, Quốc Oai,...; địa hình do quá trình biển và hỗn hợp sông biển liên quan
với biển tiến Pleistocen muộn và Holocen tạo nên các bề mặt cao 8-15m và 4-6m.
Dưới đây chỉ phân tích những đặc trưng địa mạo trong mối liên quan với quy hoạch
phát triển đô thị.
Phần cực tây của Hà Nội là khối núi Ba Vì, nơi có 3 đỉnh cao trên 1100m,
trong đó đỉnh Tản Viên cao 1287m mà vào những ngày quang mây, từ thủ đô Hà Nội
có thể chiêm ngưỡng được sự hùng vĩ của nó. Núi Ba Vì có dạng vòm - khối tảng,
mạng lưới thuỷ văn dạng toả tia rất đặc trưng. Núi được cấu tạo bởi tập hợp đá phức
tạp, song chủ yếu là đá phun trào bazơ, qua các pha tân kiến tạo nâng lên bị xâm thực,
bào mòn thành các bậc – vai núi là những mặt bằng cục bộ. Từ dưới lên có thể quan
sát thấy mặt bằng 200-300m, 400- 600m, 800-1000m và 1200m. Đáng chú ý hơn cả là
mặt bằng 400m và 600 m, có chiều dài 700 - 800 m, rộng 200 – 300 m. Nơi đây đã
xây dựng các khu nghỉ mát và an dưỡng từ thời thuộc pháp. Phía nam – đông nam Ba
Vì là dãy núi Viên Nam cũng được cấu tạo bởi đá trầm tích phun trào với đỉnh cao
1031m, là ranh giới tự nhiên với tỉnh Hòa Bình. Núi Ba Vì và Viên Nam là tài nguyên
quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho đồng bằng Sông Hồng. Tính độc đáo về địa
chất, địa hình đã tạo nên sự phân hoá khí hậu theo đai cao, sự đa dạng về cảnh quan,
phong cảnh sơn thủy hữu tình với các đỉnh núi cao soi bóng xuống dòng sông Đà, với
một hệ sinh thái rừng nhiệt đới điển hình, là nơi có nhiều sắc màu văn hóa truyền
thống của đông đảo các dân tộc sống quanh núi Ba Vì, đây là địa bàn thuận lợi cho
phát triển nền công nghiệp không khói có hiệu quả cho Thủ đô Hà Nội – đó là du lịch
sinh thái.
Ngay sát chân núi Ba Vì - Viên Nam là dải địa hình đồi thoải xen các khối núi
sót nhỏ, kéo dài từ khu vực xã Tiến Xuân, Yên Bình (huyện Thạch Thất), theo
phương tây bắc qua Yên Bài, Vân Hòa, Ba Trại (huyện Ba Vì). Các dải đồi thoải xung
quanh núi Ba Vì được hình thành do các máng trũng xâm thực phân cắt bề mặt
pedimen, đã được một số tác giả đề cập tới (Đỗ Hưng Thành và nnk. 1998; Đào Đình
Bắc, 1999). Sự đa dạng của địa hình khu vực này, từ các bề mặt nổi cao như các đồi
thoải, núi sót và các bề mặt thấp như bề mặt các nón phóng vật cổ, đáy thung lũng với
các thềm sông và bãi bồi từ lâu đã được đồng bào các dân tộc khác nhau khai thác cho
sản xuất nông - lâm nghiệp. Các quần cư nông thôn lâu đời nhất của vùng đồi núi Ba
Vì cũng tập trung nơi đây. Cần lưu ý là cùng với địa hình các khối núi ở phía tây, dải
đồi núi sót này chính là nơi đầu nguồn của các thung lũng sông suối, việc khai thác tài
nguyên, sản xuất và sinh hoạt của người dân cần được định hướng cho hợp lý, nhằm
bảo vệ môi trường hiện còn được coi là trong lành nhất của Hà Nội,
Một trong những không gian được quan tâm nhất về địa mạo của khu vực phía
tây Hà Nội là dải gò đồi thoải kéo dài từ Xuân Mai - Hòa Lạc theo phương bắc - tây
bắc lên Sơn Tây, vòng về phía tây qua khu vực Suối Hai. Về mặt địa mạo, hầu hết các
tác giả đều cho rằng các bề mặt gò đồi thoải cấu tạo bởi lớp cuội sỏi mài tròn không
đồng nhất, phủ trên nền đá gốc được hình thành do hoạt động của các dòng lũ đất đột
ngột đưa vật chất bở rời hỗn tạp từ các sườn núi phía trên xuống trong điều kiện khí
tượng – thuỷ văn và địa hình đặc thù vào Pleistocen giữa đến muộn (apQ12-3). Trên
bề mặt tích tụ hỗn hợp sông - lũ này, hoạt động xâm thực, bóc mòn đã hình thành các
thung lũng và máng trũng thoải, nay được đắp đập chặn tạo nên các hồ cảnh quan đẹp
của khu vực như hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô,... Với địa hình cao mà không dốc, nền
móng địa chất công trình ổn định, điều kiện thổ nhưỡng không thuận lợi, đây là nơi
thích hợp nhất cho quy hoạch mở rộng đô thị về phía tây.
Nằm chuyển tiếp giữa địa hình đồi núi phía tây và đồng bằng tích tụ phía đông
của thủ đô Hà Nội là dải đất có độ cao tuyệt đối khoảng 10-15m, nằm dọc sông Tích,
từ phía đông thị xã Sơn Tây đến Thạch Thất. Về hình thái, đây là đồng bằng dạng gò
thoải, độ chênh cao địa hình từ 3-5m. Thực chất, đồng bằng được phân biệt bởi ba bộ
phận khác nhau: Phần thấp nhất (ngoài địa hình bãi bồi dọc thung lũng) là các máng
trũng thoải, độ cao tuyệt đối khoảng 6-8m, cấu tạo bởi bột sét màu xám xanh, phần
dưới ẩn chứa các thấu kính hoặc lớp mỏng than bùn; Phần có diện tích lớn nhất là bề
mặt đồng bằng lượn sóng thoải, cấu tạo bởi bột sét xám vàng, xám xanh phủ trên nền
không đồng nhất; Phần cao nhất có dạng vòm rất thoải trên nền đồng bằng lượn sóng.
Về cấu tạo vật chất, bề mặt địa hình có dạng thềm này có sự khác nhau giữa hai bờ
sông Tích. Phía tây sông Tích, bề mặt dạng gò thoải được cấu tạo bởi lớp cát bột màu
xám vàng, dày 0,5 - 1,5m, phía dưới hầu hết là tầng đá ong dày từ 2 đến 4m, đôi nơi
đá ong lộ trơ trên mặt. Phía đông sông Tích, lớp phủ trầm tích trên mặt chủ yếu là bột
cát xám vàng dày 1-2m, phía dưới là sét bột loang lổ với nhiều kết vón laterit. Với
một số thông tin mới thu nhận được, có thể đưa ra ý kiến về nguồn gốc bề mặt đồng
bằng dạng gò thoải Thạch Thất, đó là bề mặt thềm mài mòn - tích tụ có liên quan với
đợt biển tiến cuối Pleistocen. Tầng đá ong phân bố ở khu vực Thạch Thất ngoài việc
hình thành trên nền đá phiến kết tinh của phức hệ Sông Hồng còn có thể do quá trình
phong hóa chính các trầm tích tuổi Pleistocen muộn hệ tầng Vĩnh Phúc.
Từ sông Đáy về phía đông, địa hình khu vực là một bộ phận hợp thành đồng
bằng delta sông Hồng. Đặc điểm địa mạo của đồng bằng thể hiện khá rõ sự tác động
có tính chu kỳ của biến đổi khí hậu toàn cầu trong kỷ Đệ tứ, đó là sự có mặt của các
chu kỳ biển tiến, biển thoái xen kẽ nhau, trên cơ sở đó sông Hồng và các chi lưu đã
tạo nên sự phân dị địa hình với các thành tạo độc đáo khác nhau. Trong mối liên quan
với quy hoạch phát triển đô thị, có thể phân biệt các bề mặt được thành tạo liên quan
với các thời kỳ biển tiến còn sót lại như các bề mặt tích tụ cao 8 - 10m cấu tạo bởi
trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc (a, amQ13vp) hoặc hệ tầng Hải Hưng (am, mlQ22hh) và
các bề mặt thung lũng bãi bồi cấu tạo bởi trầm tích hệ tầng Thái Bình (aQ2tb). Do
tính chất đặc biệt về hình thái và nguồn gốc của dải đồng bằng phía tây Hà Nội trong
mối quan hệ với quy hoạch đô thị, dưới đây sẽ đề cập chi tiết hơn về chúng.
2. PHÂN TÍCH, XÁC ĐỊNH HỆ THỐNG LÒNG SÔNG CỔ CHO QUY HOẠCH PHÁT
TRIỂN ĐÔ THỊ
Hoạt động của sông Hồng và các chi lưu của nó có ảnh hưởng lớn tới địa hình,
và do vậy có ý nghĩa lớn đối với công tác quy hoạch phát triển đô thị. Biến động lòng
sông trong quá khứ để lại dấu ấn khá rõ nét trong trầm tích cũng như hình thái địa
hình. Thông qua các hoạt động của con người (chủ yếu là sử dụng đất), mà hoạt động
này có sự phân dị khá rõ theo những thực thể vật chất tự nhiên và chính chúng tạo nên
một dấu hiệu hay một lớp thông tin đáng tin cậy trong quy trình xử lý GIS để nhận
biến sự biến động lòng sông. Từ việc phân tích những thông tin về các thành tạo địa
hình âm dạng tuyến, đôi nơi còn sót các ao hồ cùng thông tin về thành phần vật chất
(được xác định khá tốt trên ảnh viễn thám - hình 1) và các dấu hiệu gián tiếp (nhờ lớp
thông tin về phân bố dân cư và các đường đồng mức cũng như các điểm độ cao trên
bản đồ địa hình), với sự trợ giúp của các phần mềm GIS, đã tiến hành khôi phục lại
hoạt động của lòng sông Hồng trong quá khứ và xây dựng bản đồ các thế hệ lòng cổ
của sông Đáy, sông Nhuệ. Sự phân bố của các lòng cổ phù hợp với quy luật dòng
chảy, hầu hết các lòng cổ đều chạy theo hướng tây bắc xuống đông nam.
Hình 1. Dấu vết các lòng sông và lòng sông cổ (ton ảnh màu đen) và các bãi bồi giữa hai
tuyến đê sông Đáy (ảnh màu xám mịn) trên ảnh vệ tinh SPOT 2005
Do sự biến đổi liên tục của các dòng chảy trong mỗi đai uốn khúc và thậm chí
còn có sự dịch chuyển của cả đai uốn khúc, việc xác lập các đới biến động của các
dòng chảy sẽ có ý nghĩa lớn hơn việc chỉ xác định các lòng sông cổ cụ thể. Đằng sau
ý nghĩa của việc nghiên cứu đới biến động lòng sông chính là xác định được các khu
vực không bị sông cắt qua - các vùng đất có nền móng ổn định, thuận lợi cho phát
triển đô thị. Trên cơ sở các tiêu chí xác định đới biến động lòng sông sau biển tiến cực
đại Holocen là: sự tập trung cao của các lòng sông cổ; hệ thống đê và các gờ cao ven
lòng nằm kề các thành tạo trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc (a, amQ1
3vp), hệ tầng Hải
Hưng (am, mlQ2
2hh), đã xác lập đới biến động lòng sông Đáy, sông Nhuệ. Đới biến
động của các sông này có chiều rộng khá lớn, nhiều đoạn có thể so sánh với đới biến
động của sông Hồng hiện nay (trên 3000m). Đã xác lập được ba đới biến động lòng
sông Đáy, sông Nhuệ gồm:
- Đới biến động sông Đáy hiện đại: Đới biến động của sông Đáy hiện đại phân
bố chủ yếu trong phạm vi tuyến đê sông Đáy. Trên bình đồ, đới có hình phễu với phần
mở rộng là khu vực chia nước từ sông Hồng vào sông Đáy. Chiều rộng của đới biến
động lòng sông ở đây đạt trên 8km, thu hẹp dần về phía đập Phùng là 3 km. Phía sau
đập Phùng, đai uốn khúc khá ổn định với chiều rộng đạt trung bình 3 km. Các lòng
sông cổ trong phạm vi đới biến động này chỉ được quan sát và khoanh vẽ chính ở phía
bắc đập Phùng. Phía nam đập, hầu như chỉ quan sát thấy lòng sông cổ giáp tuyến đê ở
phía tây sông Đáy. Dòng sông Đáy uốn khúc mạnh trong phạm vi đới biến động,
nhiều đoạn hai đỉnh khúc uốn sát nhau, thể hiện động lực dòng chảy yếu ở giai đoạn
sau cùng của lịch sử phát triển.
- Đới biến động của sông Đáy cổ phía tây đê sông Đáy: Nằm giữa đê tả Đáy
và sông Tích là đới biến động của sông Đáy cổ. Các lòng sông cổ tại đây thể hiện khá
rõ, đó là các lòng sông có bán kính cong lớn. Sự bảo tồn các dấu tích lòng sông cổ
khá tốt này có thể do chúng không chịu ảnh hưởng của sông kể từ sau thời điểm đắp
đê sông Đáy. Đới biến động lòng sông Đáy cổ cũng được bắt đầu từ phía giáp sông
Hồng tại Sơn Tây, kéo dài theo phương tây bắc - đông nam qua phía đông Thạch Thất
đến khu vực Phùng Xá. Phía nam đường Láng - Hòa Lạc, đới hoạt động lòng sông
không còn được thể hiện rõ nữa. Đới biến động có chiều rộng khoảng 3 km, tương
xứng với đới biến động của sông Đáy hiện đại. Đáng chú ý là ở phía tây đới biến động
này là thềm bậc I của sông với tầng trầm tích sét loang lổ khá điển hình, nhiều nơi
trầm tích bị kết vón hoặc thậm chí tạo đá ong.
- Đới biến động sông Nhuệ: So với sông Đáy, việc xác định, khoanh vẽ đới
biến động của sông Nhuệ khó khăn hơn, nhiều đoạn khoanh vẽ hiện chỉ là giải định.
Đới biến động của sông Nhuệ có chiều rộng đạt từ 2-3km, được chia thành 3 khu vực
khác nhau như sau:
+ Khu vực thứ nhất tại khu vực phía tây Cổ Nhuế. Tại đây bờ bắc của đới biến
động được giới hạn bởi lòng sông Hồng, bờ nam là các lòng sông cổ phân bố từ khu
vực Hạ Mỗ, kéo dài theo hướng đông nam qua Tân Lập, Tây Tựu. Chiều rộng của đới
đạt trên 3km.
+ Khu vực thứ hai là đoạn Liên Mạc - Cổ Nhuế, là đới biến động mới nhất của
sông Nhuệ, còn để lại dấu vết rõ ràng là hàng loạt dòng sông cổ và gờ cao ven lòng tại
Cổ Nhuế. Đới biến động cũng có dạng hình phễu với cửa vào tại Liên Mạc đạt khoảng
3km, phần phía đông nam thu hẹp chỉ còn khoảng 2km.
+ Khu vực thứ ba bắt đầu từ cổ Nhuế tới Mễ Trì. Trong đoạn này, ranh giới
của đới biến động được xác định chủ yếu theo hình thái địa hình của các lòng sông cổ
và sự tồn tại các khối sót cấu tạo bởi trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc, Hải Hưng. Ngoài
một nhánh của đới biến động kéo dài về phía nam theo sông Nhuệ hiện đại, nhánh thứ
hai được giải định kéo dài về phía sông Tô Lịch, được giới hạn phía bắc bởi các lòng
sông cổ dọc theo hồ Thành Công, Đống Đa và tuyến đê La Thành. Hai nhánh cổ trên
uốn lượn quanh khối sót Yên Hòa - Trung Hòa.
Phần phía nam các đới biến động, trong khoảng từ tuyến đường Láng - Hòa
Lạc về phía nam phân bố khá dày các lòng sông cổ trên bề mặt định hình thấp, là khu
vực có sự chia cắt địa hình tương đối phức tạp, không có quy luật. Theo các dấu hiệu
hiện có, có thể giả thiết rằng các khu vực này thuộc vùng cửa sông trong Holocen
giữa - muộn. Tuy nhiên đây là một vấn đề cần có nhiều sự đầu tư, nghiên cứu tiếp tục.
3. MỘT SỐ Ý KIẾN CHO CÔNG TÁC QUY HOẠCH MỞ RỘNG ĐÔ THỊ HÀ NỘI VỀ
PHÁI TÂY
Từ những phân tích trên, có thể nhận ra rằng trên phông chung của một đồng
bằng châu thổ tưởng chừng đơn điệu, địa hình khu vực thủ đô Hà Nội cũng phân hóa
khá phức tạp, phản ánh rõ và nhạy bén mối tương tác giữa các tác nhân tạo địa hình
chính mà chúng tôi vừa điểm qua trên đây. Sự phân hóa và tính độc đáo của địa hình
khu vực phía tây Hà Nội cho phép đưa ra những kiến nghị khẳng định sự đúng đắn về
quyết định mở rộng đô thị Hà Nội về phía tây. Việc phân chia 5 vùng có đặc trưng địa
hình khác nhau đã đề cập tới ở trên đã là những định hướng cho công tác quy hoạch
phát triển các khu vực chức năng của thành phố. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nhấn
mạnh rằng do nằm trên đồng bằng châu thổ, nên quỹ đất của Hà Nội phía nam sông
Hồng thuộc loại thượng đẳng điền, trong khi vùng đất cao của các bậc thềm phù sa và
các pediment cổ phía bắc và phía tây Hà Nội đã bị bạc mầu do bị xói mòn rửa trôi lâu
dài, nhưng bù lại chúng có nền móng vững chắc và đã thoát khỏi ảnh hưởng của nước
lũ sông Hồng. Vì vậy, cần phải sử dụng thông minh và tiết kiệm những diện tích đất
châu thổ và ưu tiên sử dụng những không gian bán sơn địa dưới chân núi Ba Vì cũng
như ở các khu vực Sóc Sơn, Đông Anh cho việc quy hoạch phát triển mở rộng thủ đô.
Một trong những tác động quan trọng cho việc quy hoạch này là tuyến đường
cao tốc Láng - Hòa Lạc đã được khánh thành, thuận lợi cho tiếp cận với khu vực Hòa
Lạc, Ba Vì. Các dự án Xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội tại Hòa Lạc và Khu Công
nghệ cao Hòa Lạc nếu được đầu tư và quản lý tốt chắc chắn sẽ là những điểm sáng về
quy hoạch đô thị, thu hút được các cơ sở giáo dục đào tạo, các khu công nghiệp, khu
dân cư lên vùng đất thuận lợi cho phát triển đô thị.
Hình 2. Bản đồ địa mạo ứng dụng cho quy hoạch mở rộng đô thị Hà Nội về phía tây
Kết quả mới nhất mà tập thể tác giả muốn giới thiệu trong công trình này
chính là ý nghĩa của việc nghiên cứu xác định đới biến động lòng sông Đáy, sông
Nhuệ với quy hoạch phát triển đô thị Hà Nội. Kết quả nổi bật của của nghiên cứu này
chính là Bản đồ địa mạo ứng dụng cho quy hoạch mở rộng đô thị về phía tây (hình 2).
Một trong những cơ sở quan trọng cho việc xây dựng bản đồ địa mạo ứng dụng chính
là các đới biến động lòng sông. Các đới biến động lòng sông chính là địa hình bãi bồi
hiện đại, ít nhất là còn chịu ngập lụt đến khi đắp đê (không vẽ các bãi bồi dạng lớp
phủ được hình thành do dòng lũ phủ tràn lên các thành tạo cổ khác). Các khu vực
không bị lòng sông sau Holocen muộn cắt qua là bề mặt tích tụ sông, sông biển tuổi
Holocen giữa hoặc Pleistocen. Chúng có thể là các thềm sông hoặc bãi bồi cao chỉ bị
ngập và phủ một lớp mỏng trầm tích do lũ tràn bờ. So với các bản đồ địa mạo, địa
chất hiện có [6], bản đồ địa mạo ứng dụng này chỉ ưu tiên vẽ các bãi bồi khi chúng
thực sự là các lòng sông trong quá khứ hoặc hiện đại. Trên bản đồ này cho thấy ngoài
khu vực Xuân Đỉnh, trên địa bàn phía tây Hà Nội còn nhiều bề mặt nổi cao dạng bậc
thềm khác, không bị biển tiến Holocen và các dòng sông cổ Holocen muộn cắt qua.
Các kết quả này có ý nghĩa quan trọng cho quy hoạch phát triển đô thị.
Trên cơ sở nghiên cứu lòng sông cổ và đới biến động lòng sông Đáy, sông
Nhuệ khu vực phía tây Hà Nội, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Các chi lưu sông Hồng có nét chung là suy tàn khá nhanh. Hầu hết cửa vào
của sông Đáy và sông Nhuệ trong quá khứ là rất xa so với ngày nay, ở thời kỳ đầu
luôn tạo với dòng chảy của sông Hồng một góc nhọn. Sự dịch chuyển của cửa sông về
phía đông làm giảm khả năng chuyển nước cho các chi lưu này, theo thời gian, các chi
lưu có thể bị tách khỏi dòng sông chính và biến thành các sông chết.
Phân tích sơ đồ biến động lòng sông có thể nhận thấy sự biến đổi dần của các
con sông theo hướng dịch chuyển về phía đông (hướng về sông Hồng hiện đại), phù
hợp với nhận định về sự tịnh tiến dòng chảy các con sông do khối nâng kiến tạo từ
phía tây. Các kết quả nghiên cứu cho thấy trục động lực của các dòng chảy cổ hầu hết
đều có phương tây bắc - đông nam, song song với trục động lực sông Hồng hiện nay,
hoàn toàn phù hợp với cấu trúc địa chất, địa mạo. Quá trình phân dị tạo núi vào đầu
Neocen cùng với các hoạt động đứt gãy sông Hồng, sông Chảy đã làm các con sông
trong khu vực này hoạt động một cách mạnh mẽ hơn, chúng dần bị tịnh tiến dần ra
phía trung tâm trũng bởi hoạt động của các khối nâng. Cho tới nay, có lẽ sông Hồng
đã nằm tại vị trí trùng với đứt gãy sâu nên con sông này không còn hoạt động mạnh
như trước. Tuy nhiên, dấu ấn lòng cổ sông Hồng vẫn còn được thấy rõ, đó là những
khu vực như Hồ Tây hay khu Yên Sở,… Càng về phía Nam, do chịu tác động của
vùng châu thổ, vũng vịnh vào những đợt biển tiến nên vùng phía Nam của khu vực
nghiên cứu xuất hiện rất nhiều các lòng cổ chạy không theo quy luật.
Đặc biệt, các nghiên cứu mới nhất cho thấy cửa vào trong quá khứ của sông
Nhuệ có thể rất lớn và quan sát thấy hướng động lực dòng chảy sông Nhuệ kéo thẳng
tới trục dòng chảy của sông Tô Lịch hiện nay. Điều đó có thể đưa ra giả thiết là sông
Tô Lịch chính là một phần của đới biến động lòng sông Nhuệ trong quá khứ. Điều đó
có thể cho phép đề xuất giải pháp hợp lý để có thể khôi phục dòng chảy cho sông
Nhuệ cũng như tìm ra cách làm sạch môi trường nước các con sông này, đặc biệt là
sông Tô Lịch.
Phân tích các khu quần cư ở khu vực nghiên cứu có thể nhận thấy rằng hầu hết
các làng và khu phố đều được xây dựng trên các đê cát ven lòng. Do quá trình đô thị
hoá mạnh, hiện nay các công trình lớn và nhà dân được xây dựng ngay trên các vùng
thấp trũng. Chính những công trình này đã làm thay đổi diện mạo tự nhiên của các
lòng sông. Qua phân tích địa chất công trình cho thấy hầu hết những khu vực có mức
độ sụt lún lớn nhất đều trùng với những nơi có tồn tại các tầng đất yếu tướng lòng
sông. Điều này lý giải cho những những công trình sụt lún hiện nay đang diễn ra tại
rất nhiều nơi như ở Quốc Oai, Thành Công…
Bên cạnh yếu tố sụt lún nền móng công trình, ngập úng đô thị cũng là một vấn
đề đáng quan tâm, chú ý hiện nay. Đặc biệt là trong đợt mưa lũ cuối năm 2008, rất
nhiều khu vực đã bị ngập úng. Qua khảo sát và đối chứng với kết quả nghiên cứu lòng
sông cổ cho thấy hầu hết những khu vực có mức độ ngập úng cao nhất đều nằm trong
các lòng sông cổ. Đây đều là những dải trũng có khả năng tích nước vào mùa lũ, kết
hợp với việc quy hoạch đô thị sai quy cách đã khiến nước không thể tiêu thoát kịp.
Các kết quả nghiên cứu đới biến động lòng sông cũng cho thấy ngoài thành
tạo thềm bậc I phân bố ở khu vực phía tây sông Đáy như Thạch Thất, Sơn Tây không
chịu ảnh hưởng bởi dòng chảy sông trong Holocen muộn, trong phạm vi nghiên cứu
còn tồn tại 4 khối hầu như không bị lòng sông cắt qua. Đó là các khối Hoài Đức,
Xuân Đỉnh, Trung Kính và Hoàng Thành. Các khối này đều là các bề mặt phẳng hoặc
vòm thoải, cấu tạo bởi trầm tích sét loang lổ đỏ của hệ tầng Vĩnh Phúc (Hoài Đức,
Xuân Đỉnh, Trung Yên) hoặc tầng sét của hệ tầng Hải Hưng phủ trên sét loang lổ hệ
tầng Vĩnh Phúc. Các phân tích ở trên cũng cho hấy khu vực Hoàng Thành Thăng
Long – nơi được lựa chọn để xây dựng kinh đô cũng là bề mặt không bị sông phân
cắt. Đây là khu vực thuận lợi nhất cho quy hoạch mở rộng, phát triển đô thị trên phần
đồng bằng tích tụ tại Hà Nội.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm địa mạo, dưới góc độ phục vụ cho định hướng
quy hoạch mở rộng đô thị Hà Nội cho phép rút ra một số kết luận sau:
1. Vùng phía tây Hà Nội có đầy đủ 3 nhóm địa hình cơ bản là núi, đồi và đồng
bằng. Địa hình khu vực khá đa dạng với các nhóm dạng địa hình được thành tạo bởi
quá trình bóc mòn chung, phân bố ở phía tây trên các khối núi Ba Vì và Viên Nam;
nhóm dạng địa hình do hoạt động dòng chảy được hình thành bởi sông Hồng và các
chi lưu như sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tích cũng như các sông suối nhỏ khác; nhóm
địa hình karst có diện tích không lớn, song tạo nên tính độc đáo và đa dạng của cảnh
quan, đó là các khối karst sót nổi trên nền đồng bằng tích tụ ở Chùa Thầy, Quốc
Oai,...; địa hình do quá trình biển và hỗn hợp sông biển liên quan với biển tiến
Pleistocen muộn và Holocen tạo nên các bề mặt cao 8-15m và 4-6m.
2. Dưới góc nhìn địa mạo, lấy núi Ba Vì - Viên Nam làm trung tâm, có thể
phân chia khu vực phía tây Hà Nội thành các vùng có ý nghĩa khác nhau trong phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường như sau: 1. Vùng núi Ba Vì - Viên Nam:
Bảo tồn hệ sinh thái rừng nhiệt đới và phát triển du lịch sinh thái; 2. Vùng đồi núi sót
Tiến Xuân - Vân Hòa - Minh Quang: Phát triển du lịch và các khu trang trại trên cơ sở
phát huy các giá trị của văn hóa bản địa và bảo vệ môi trường của vùng đầu nguồn; 3.
Vùng gò đồi thoải Hòa Lạc - Sơn Tây: Phát triển các đô thị và khu công nghiệp, là
không gian thuận lợi nhất cho mở rộng đô thị Hà Nội; 4. Vùng đồng bằng bóc mòn -
tích tụ tây sông Đáy: Vùng đất cao, song bằng phẳng; phát triển đô thị hài hòa với
hành lang xanh; 5. Vùng đồng bằng tích tụ Hà Nội: Phát triển đô thị, cần chú ý đánh
giá đầy đủ các khó khăn liên quan với các dải địa hình trũng và các khu vực thuận lợi
hơn là các khu vực không bị sông cắt qua.
3. Sông Đáy và sông Nhuệ đã từng là những chi lưu lớn của sông Hồng, tuy
nhiên, do các yếu tố tự nhiên đặc biệt là hiện tượng uốn khúc, dịch chuyển cửa sông
và sự can thiệp khá sâu sắc của con người, nay các dòng chảy này hầu như đã suy tàn.
Việc nghiên cứu, xác lập lại được các lòng cổ và đới hoạt động của lòng sông Đáy và
sông Nhuệ có ý nghĩa lớn đối với quy hoạch phát triển đô thị Hà Nội. Ngoài đới biến
động lòng sông Đáy nằm trong phạm vi hệ thống đê sông Đáy hiện nay, việc xác định
một đới biến động cổ hơn của dòng sông này ở phía tây cho phép suy nghĩ tới một
dẫn liệu về sự dịch chuyển liên tục của hệ thống sông Đáy theo chiều từ tây sang
Đông, phù hợp với đặc trưng của hoạt động tân kiến tạo nơi đây. Việc xác định cửa
vào tự nhiên của sông Nhuệ là một đới khá rộng, nằm cách cửa tại cống Liên Mạc khá
xa về phía tây và cũng có xu hướng dịch chuyển về phía đông hy vọng sẽ góp phần
cho công tác quy hoạch và làm sáng tỏ hơn các tư liệu lịch sử nơi đây.
4. Nghiên cứu xác lập đới biến động lòng sông Đáy, sông Nhuệ cho phép chỉ
ra các dải địa hình trũng với các tầng đất yếu, có nguy cơ sụt lún và ngập nước cục bộ
cao. Thêm vào đó, các bề mặt dạng khối sót cấu tạo bởi trầm tích loang lổ của hệ tầng
Vĩnh Phúc, Hải Hưng trước biển tiến Holocen không bị các lòng sông cắt qua (Hoài
Đức, Xuân Đỉnh, Trung Hoà, Hoàng Thành) là những khu vực có nền móng ổn định,
phù hợp cho quy hoạch phát triển mở rộng đô thị Hà Nội.
*Công trình được hoàn thành với sự hỗ trợ của Nhiệm vụ Bảo vệ môi
trường mã số QMT.09.03. Tác giả xin chân thành cám ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức An, Uông Đình Khanh và nnk (2007). Đặc điểm địa mạo
vùng thủ đô Hà Nội với công cuộc đô thị hóa và phát triển bền vững,
Kỷ yếu hội thảo khoa học…, Nxb Hà Nội, H., 2007, tr.14.
2. Đào Đình Bắc, Đặng Văn Bào (2010). Đặc điểm địa mạo, hệ thống
lòng sông cổ khu vực thủ đô và ý nghĩa của chúng đối với sự phát
triển của kinh đô Thăng Long - Hà Nội. Phát triển bền vững Thủ đô
Hà Nội, Văn hiến, anh hùng, vì Hòa Bình; Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Quốc tế. Trg 970 - 981.
3. Đặng Kinh Bắc (2010). Nghiên cứu xác lập đới biến động lòng sông
Đáy, sông Nhuệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dang Van Bao_Dang Kinh Bac.pdf