Nghiên cứu sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke

Mục lục 1

Lời mở đầu 3

Phần một: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và marketing hiện nay của công tyTNHH Việt Thành 5

I. Tổng quan về công ty TNHH Việt Thành 5

1. Quá trình phát triển của công ty TNHH Việt Thành 5

2. Cơ cấu tổ chức của công ty TNHH Việt Thành 8

II. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 9 TNHH Việt Thành 9

1. Năng lực sản xuất chung của công ty 9

1.1. khả năng tài chính 9

1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật lực lượng lao động 10

1.3. Lực lượng lao động 11

2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2002-2005 12

III. Thực trạng hoạt động marketing của công ty TNHH Việt Thành 14

1. Tổ chức bộ máy marketing của công ty 14

2. Tình hình xây dựng và thực hiện chiến lược marketing của công ty 16

3. Những hoạt động marketing của công ty 16

4. Những đánh giá chung về môi trường kinh doanh công ty đang phải đối mặt 21

Phần hai: Chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng đối vơi các sản phẩm thạch rau câu Poke 23

I. Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu 23

1. Xác định vấn đề nghiên cứu 23

2. Xác định mục tiêu nghiên cứu 24

3. Phạm vi nghiên cứu 25

II. Thiết kế dự án nghiên cứu chính thức 26

1. Các phương pháp thu thập thông tin 26

1.1. Phương pháp quan sát 27

1.2. Phương pháp điều tra 29

2. Thiết kế bảng hỏi và mẫu điều tra 31

3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu 33

III. Quá trình thu thập và xử lý thông tin 34

IV. Báo cáo kết quả thu được 36

Phần ba: một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường hình ảnh sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường 37

I. Nhóm giải pháp về phía công ty 37

1. Xây dựng một nề nếp làm việc mới 37

2. Xây dựng hệ thống thông tin nội bộ trong công ty 39

II. Nhóm giải pháp marketing hỗn hợp 41

1. Xây dựng thương hiệu Poke trên thị trường 41

2. Thoả mãn sự hài lòng của người tiêu dùng thông qua 4P 43

2.1. Sản phẩm 43

2.2. Giá cả 44

2.3. Phân phối 47

2.4. Xúc tiến hỗn hợp 49

Kết luận 51

Tài liệu tham khảo 52

Phụ lục

 

doc52 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty. Hiện nay, công ty chịu tác động rất nhiều từ những yếu tố của môi trường vi mô. Những yếu tố này thường xuyên thay đổi và tác động trực tiếp đến các kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Với tính chất của sản phẩm mà hiện nay công ty đang sản xuất và kinh doanh là thực phẩm ăn liền cho nên nhóm khách hàng mà công ty hướng tới chủ yếu là tầng lớp thanh thiếu niên, phụ nữ và trẻ em, trong đó khách hàng mục tiêu mà công ty hướng tới là trẻ em. Mặt khác, do phong tục tập quán và những nét văn hoá riêng của người Việt Nam cùng với những quy định của pháp luật cho nên những chương trình quảng cáo của công ty tới khách hàng mục tiêu của mình bị hạn chế đi rất nhiều, từ đó làm cho kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Một yếu tố nữa của môi trường vi mô tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của công ty đó chính là tình hình cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Do đặc điểm của ngành hàng sản xuất mà công ty hiện đang tham gia là ngành sản xuất hàng tiêu dùng cho nên trình độ máy móc công nghệ để tham gia sản xuất là không nhiều, không đặc biệt, nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư sản xuất được. Vì thế trên thị trường hiện nay công ty có rất nhiều các đối thủ cạnh tranh, từ đó làm cho các khu vực thị trường của công ty ngày một thu hẹp lại. Đối với thị trường tiêu dùng cao cấp( có giá bán sản phẩm là trên 20 000đ) thì ngoài sản phẩm nhập khẩu của công ty là Poke và Poke ABC được nhập khẩu từ Đài Loan thì ngoài thị trường cũng có các sản phẩm khác như Newchoise, Fruitpeti cũng là các sản phẩm được nhập khẩu từ Đài Loan. ở thị trường tầm trung ( có giá bán từ 13 000đ đến dưới 20 000đ) có các sản phẩm của công ty như Hugo, JOY, Poke (do công ty tự sản xuất) và các sản phẩm của các doanh nghiệp khác như Newtown, Long Hải, TenTen, Hữu Nghị, Hải Hà…Và ở thị trường cấp thấp (có giá bán dưới 13 000đ) thì có các sản phẩm của Long Hải, Hải Vân, 319 Bộ quốc phòng…Việc trên thị trường có nhiều các đối thủ cạnh tranh một mặt tạo cho doanh nghiệp nhiêu khó khăn như phải đầu tư các trang thiết bị hiện đại để sản xuất, giảm thiểu các chi phí… nhưng mặt khác nó cũng tạo ra một trào lưu tiêu thụ trong người tiêu dùng, kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đa dạng hoá các mặt hàng của mình để đáp ứng ngày một tốt hơn những nhu cầu, mong muốn khắt khe của người tiêu dùng. Hiện nay công ty có được bốn loại sản phẩm trải rộng trên tất cả các thị trường, tạo được nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng, đồng thời cũng tạo cho công ty một lợi thế rất lớn trong việc bao phủ được thị trường một cách toàn diện hơn, công ty có thể có được nhiều khách hàng hơn và do đó có thể đẩy sản lượng tiêu thụ của công ty nhiều hơn. Phần hai: Chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu 1. Xác định vấn đề nghiên cứu Khi đề cập đến vấn đề nghiên cứu của một cuộc nghiên cứu marketing, có nghĩa là chúng ta bàn đến chủ đề hay đề tài của một cuộc nghiên cứu hay nói cách khác là đề cập đến khả năng quản lý của nó. Vấn đề nghiên cứu ở đây không chỉ được xem xét trên khía cạnh là nó có đúng đắn, chính xác, rõ ràng và cần thiết hay không mà nó còn được xem xét trên phạm vi của nó như thế nào. Để lựa chọn được những vấn đề nghiên cứu thật sự thích hợp cho một cuộc nghiên cứu marketing cụ thể thị thường người ta phải tính đến các yếu tố là khả năng ngân sách dự định dành cho cuộc nghiên cứu đó, thời gian để tiến hành nghiên cứu, trình độ, khả năng của những người tiến hành nghiên cứu và cuối cùng là khả năng có được những thông tin cần thiết có liên quan đến việc nghiên cứu. Để xác định được vấn đề trong cuộc nghiên cứu thì đòi hỏi phải sử dụng những phương pháp cụ thể để tiến hành tiếp cận và lựa chọn chúng. Do đó chúng ta sẽ sử dụng các cách tiếp cận là sử dụng phương pháp hình phễu, phân tích hoàn cảnh, tình huống và thực hiện điều tra sơ bộ. Phương pháp hình phễu là một quá trình phân tích gồm nhiều bước công việc kế tiếp nhau. Thoạt đầu người nghiên cứu chú ý đến một phạm vi đề tài rộng lớn đang có những dấu hiệu bất thường, nổi cộm trong kinh doanh. Sau đó sẽ thu hẹp dần chúng lại để có thể tìm được những vấn đề cốt lõi nhất và tăng dần mức độ quản lý đối với chúng. Như vậy, phương pháp hình phễu là quá trình loại trừ dần những cái không phải là vấn đề hay là những vấn đề không không quan trọng, không cấp thiết ra khỏi tổng số những khả năng có thể xảy ra trước một tình huống của công ty để lựa chọn đúng được vấn đề quan tâm. Với việc sử dụng phương pháp hình phễu như vậy sẽ giúp cho nhà nghiên cứu tránh được khả năng chọn nhầm hay bỏ sót vấn đề, đảm bảo một độ an toàn tin cậy cho sự lựa chọn của mình. Song hành với phương pháp hình phễu đó là việc phân tích tình huống và điều tra sơ bộ. Đây là những phương pháp cụ thể thuộc loại hình nghiên cứu thăm dò dùng để phát hiện vấn đề. Thực hiện phân tích tình huống có nghĩa là các nhà nghiên cứu tiến hành quan sát, theo dõi và tìm hiểu một cách liên tục những tình hình hoạt động kinh doanh chung của toàn công ty và những biến đổi thị trường để phát hiện ra những tình huống có vấn đề, từ đó đưa ra các giả thuyết cho các giai đoạn nghiên cứu tiếp theo. Việc phân tích tình huống nhằm mục đích cung cấp cho người nghiên cứu những thông tin tổng quát, cơ sở về lĩnh vực nghiên cứu và những vấn đề cần phải xem xét. Phân tích tình huống và điều tra sơ bộ là một quá trình nghiên cứu lướt nhanh trên các dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp thông qua những cuộc giao tiếp, gặp gỡ với những người có liên quan, hiểu biết về đối tượng, đề tài được nghiên cứu. Đối với công ty, trước tình hình doanh số giảm sút trong một thời gian đã tiến hành điều tra sơ bộ để xác định các nguyên nhân sụt giảm. Sau khi đã sàng lọc ra các nguyên nhân ảnh hưởng tới việc sụt giảm doanh số, công ty đã xác định vấn đề cần nghiên cứu ở đây là người tiêu dùng. Đó là do hiện nay trên thị trường có quá nhiều sản phẩm thạch đang bán trên thị trường, điều này làm cho người tiêu dùng có những thay đổi trong hành vi của mình khi lựa chọn các sản phẩm. Xác định mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu là cái đích nghiên cứu hay là cái chủ ý cụ thể của sự nghiên cứu mà người làm nghiên cứu hướng tới, nhằm vào. Mục tiêu nghiên cứu cần phải được làm rõ ngay sau khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu. Thực ra, việc trình bày mục tiêu nghiên cứu chính là sự diễn giải các nội dung chi tiết có liên quan đến vấn đề hay đề tài nghiên cứu đã được lựa chọn. Do đó, khi xác định vấn đề nghiên cứu của công ty là người tiêu dùng thì công ty cũng đã xác định ra một số mục tiêu có thể có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của công ty đó là do sản phẩm của công ty không đáp ứng được những yêu cầu về chất lượng, bao bì mẫu mã cho khách hàng, do hệ thống kênh phân phối hoạt động chưa được tốt, giá cả sản phẩm của công ty không phù hợp với khách hàng mục tiêu, sự nhận biết của khách hàng đối với sản phẩm của công ty là chưa đầy đủ… Từ việc xác định được các mục tiêu trên, công ty xây dựng nên một mô hình cây mục tiêu với những mục tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp tiếp cận này cho phép công ty xây dựng được các mục tiêu nghiên cứu một cách có hệ thống, nhờ thế mà đối tượng nghiên cứu được nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện. Ngoài ra công ty cũng sử dụng cách thức xây dựng mục tiêu nghiên cứu dựa trên những thông tin có được. Với cách thức này, công ty dựa vào những thông tin chưa có hoặc chưa đầy đủ để làm cái đích để hướng vào. Theo cách thức này thì với những mục tiêu nào đã biết được nguyên nhân, bản chất của tình hình và cách thức giải quyết thì sẽ loại bỏ chúng ra. Chính vì vậy, sau khi đã xem xét và sàng lọc các vấn đề nghiên cứu đang đứng trước công ty thì công ty đã lựa chọn mục tiêu nghiên cứu về sự nhận biết của người tiêu dùng, một khía cạnh mà hiện này công ty dường như không có một ít thông tin gì về nó. Sau khi đã xác định được mục tiêu nghiên cứu, một giả thiết được hình thành đối với người làm nghiên cứu của công ty đó là người tiêu dùng nhận biết chưa đầy đủ về các sản phẩm thạch rau câu mà công ty hiện đang cung cấp. Giả thiết này sẽ làm cơ sở cho công ty trong suốt quá trình nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi, cùng với đó là những hạn chế về mặt thời gian, chi phí và trình độ của người thực hiện nghiên cứu, do đó chương trình nghiên cứu này chỉ được giới hạn trong phạm vi tương đối nhỏ, đó là các khu vực thị trường trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phạm vi này tuy chỉ trong thành phố nhưng đây lại là một khu vực thị trường trung tâm của công ty với những siêu thị, đại lý và trung tâm bán hàng lớn của công ty đặt tại đây. Mặt khác, khu vực này cũng là một khu vực thị trường rất đa dạng và phong phú với rất nhiều dạng khách hàng khác nhau, có những nhu cầu và mong muốn khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu tại khu vực thị trường này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty có thể hiểu biết kỹ hơn về những nhóm khách hàng mà mình đang tập trung những nỗ lực nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ. Ngoài ra, phạm vi của cuộc nghiên cứu còn được giới hạn trong việc chỉ nghiên cứu thái độ và sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu mang thương hiệu Poke chứ không đi vào nghiên cứu thái độ của những người bán hàng, các đại lý, các nhà phân phối của công ty trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì ở đây, qua cuộc nghiên cứu này, công ty có thể đánh giá được mức độ nhận biết của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình, để từ đó công ty có thể đưa ra được những giải pháp nhằm xây dựng được hình ảnh của mình trong tâm trí của người tiêu dùng một cách tốt hơn. Thiết kế dự án nghiên cứu chính thức Các phương pháp thu thập thông tin Sau khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu thì công việc tiếp theo của người làm nghiên cứu là phải xác định được những dạng và nguồn dữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu. Trong cuộc nghiên cứu này, những dữ liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu gồm hai dạng, đó là những dữ liệu thứ cấp và những dữ liệu sơ cấp. Việc thu thập dữ liệu thứ cấp đơn giảm hơn rất nhiều so với việc thu thập dữ liệu sơ cấp. Nó có thể được thu thập từ những sổ sách của lực lượng bán hàng, của các phòng ban khác trong công ty. Ngoài ra, dữ liệu thứ cấp còn có thể thu thập từ bên ngoài từ những ấn phẩm, những báo cáo thống kê hay từ những cơ sở dữ liệu trên các đĩa CD-ROM…Những dữ liệu thứ cấp thu thập một mặt tạo cho người làm nghiên cứu có những thuận lợi như dễ tìm kiếm, chi phí cho việc thu thập dữ liệu thứ cấp ít hơn rất nhiều so với việc thu thập dữ liệu sơ cấp, những thông tin mà dữ liệu thứ cấp mang lại có thể dùng ngay vào một mục tiêu cụ thể nào đó mà không cần phải tốn nhiều thời gian, và dữ liệu thứ cấp cũng phần nào làm tăng hiệu quả của những thông tin, dữ liệu sơ cấp mà người làm nghiên cứu thu thập được, nhưng mặt khác, việc thu thập dữ liệu thứ cấp cũng tạo ra những khó khăn cho người làm nghiên cứu vì có thể những đơn vị đo lường của dữ liệu là không phù hợp với cuộc nghiên cứu, hay những khái niệm phân chia, phân loại của dữ liệu là không phù hợp với người làm nghiên cứu, hoặc đó cũng có thể là những tài liệu được thu thập gián tiếp thông qua những tài liệu khác( hay đó là tài liệu được tìm thấy trong lần nghiên cứu thứ hai). Dữ liệu sơ cấp có thể được thu thập bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng các phương pháp thông dụng nhất mà lâu nay vẫn được sử dụng đó là quan sát, thực nghiêm và điều tra, phỏng vấn. Tuy nhiên, trong cuộc nghiên cứu này, người tiến hành nghiên cứu chỉ sử dụng hai phương pháp để thu thập dữ liệu sơ cấp, đó là sử dụng phương pháp quan sát và phương pháp điều tra, phỏng vấn. Phương pháp quan sát Quan sát là phương pháp liên quan đến sự giám sát về những hoạt động cần được quan tâm và lựa chọn. Sức mạnh của phương pháp này chính là ở chỗ các hoạt động được xem xét, nghiên cứu trong lúc chúng đang xảy ra, do đó người nghiên cứu có thể có được những thông tin chính xác về các hiện tượng đang nghiên cứu. Với bản chất đó, phương pháp quan sát cho phép khắc phục được tình trạng thiếu chính xác của những thông tin do những người được phỏng vấn tập hợp lại một cách không chuẩn tắc, đặc biệt là trong trường hợp phải mô tả lại những hoạt động không phải là của hiện tại. Trong nghiên cứu quan sát thì có thể chia ra làm quan sát trong môi trường bình thường, môi trường có điều kiện, quan sát mở và ngụy trang, quan sát bằng máy và bằng người, quan sát có tổ chức và không có tổ chức. Tuy nhiên, không phải hoạt động nào cũng có thể áp dụng được phương pháp quan sát để theo dõi mà thông thường nó chỉ phù hợp với những hành động xảy ra trong một thời gian ngắn có thể chấp nhận được, hoặc là một cuộc nghiên cứu một số khâu nhất định của những hoạt động diễn ra trong một thời gian dài, hoặc là các hành vi phải xuất hiện trong bối cảnh người nghiên cứu có thể sẵn sàng quan sát, hoặc nó phải được tiến hành với những hoạt động lặp đi lặp lại quá nhiều mang tính hệ thống đến nỗi mà người được hỏi không thể nhắc lại được. Để đảm bảo thành công, khi tiến hành sử dụng phương pháp quan sát cần thực hiện theo các trình tự: Đưa ra quyết định chung về đối tượng và vị trí quan sát. Lựa chọn những dạng quan sát cụ thể cho cuộc nghiên cứu đang tiến hành. Lựa chọn danh mục những đặc điểm cụ thể cần được quan sát. Đào tạo người tiến hành quan sát để họ có nghiệp vụ và thái độ quan sát nghiêm túc, cẩn thận. Một điều rất đáng chú ý trong khi tiến hành nghiên cứu quan sát đó là sự nhạy bén của các giác quan của người quan sát và sự chính xác, đầy đủ trong việc ghi nhận nó. Điều này cũng quyết định rất lớn đến hiệu quả của việc thu thập dữ liệu. Phương pháp quan sát ngày càng được áp dụng phổ biến vì trong khi tiến hành quan sát, các đối tượng của cuộc nghiên cứu sẽ không nhận thấy họ đang bị quan sát cho nên họ phản ứng theo cách tự nhiên, tạo cho người nghiên cứu một cái nhìn thực tế chứ không phải là những hành vi được báo cáo lại. Mặt khác, các đối tượng bị quan sát sẽ không được hỏi về một hành động nhất định nào mà thay vào đó là họ sẽ bị quan sát trong khi thực hiện hành động. Trong một vài trường hợp thì quan sát là cách duy nhất thu được thông tin một cách chính xác hoắc có thể thu được những thông tin có độ chính xác cao với chi phí rẻ hơn. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những mặt hạn chế của nó. Đó là khi tiến hành quan sát thì chỉ có một số lượng nhỏ các đối tượng điển hình được nghiên cứu, vì vậy tính đại diện bị hạn chế. Ngoài ra, khi tiến hành quan sát thì các hoạt động có thể diễn ra không thường xuyên, làm mất thời gian quan sát, hoặc có những động cơ, quan điểm và các điều kiện bên trong không thể quan sát được, dẫn đến việc phương pháp này không thể giải thích được nguyên nhân của những gì đã quan sát được. Và khi tiến hành nghiên cứu quan sát, các thông tin ghi chép lại có thể bị nhầm lẫn, sai sót do xu hướng mệt mỏi theo thời gian, sự cẩu thả trong việc ghi chép lại các sự kiện. Phương pháp điều tra Trong các cuộc nghiên cứu marketing, nghiên cứu phỏng vấn được coi là phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp được sử dụng nhiều nhất và đôi khi nó bị lạm dụng nhất. Nó được sử dụng nhiều nhất vì đầy là phương pháp thu thập thông tin về những hoạt động và quan điểm của con người cực kỳ linh hoạt trên nhiều phương diện khác nhau.. Nó bị lạm dụng nhất vì nhiều cuộc nghiên cứu được thực hiện bằng những câu hỏi định kiến nghèo nàn, thậm chí là vô nghĩa, người phỏng vấn không được đào tạo tốt hoặc mẫu phỏng vấn hầu như ít có khả năng đại diện cho toàn bộ tổng thể. Nghiên cứu phỏng vấn có thể được chia làm nhiều loại: phỏng vấn qua điện thoại, qua thư tín, trực tiếp, phỏng vấn cá nhân hoặc nhóm… Mặt khác, để thu thập dữ liệu có hiệu quả bằng nghiên cứu phỏng vấn, việc lựa chọn các dạng phỏng vấn cụ thể cùng cần phải dựa vào nhiều căn cứ khác nhau như loại hình nghiên cứu và nhiệm vụ mục tiêu nghiên cứu, đặc tính của mỗi một dạng phỏng vấn và một số yêu cầu khác như những tiêu chuẩn hoá câu hỏi, câu hỏi có được in sẵn không…Và từ những căn cứ đó thì người ta cũng đặt ra một loạt các tiêu chuẩn cho việc lựa chọn các dạng phỏng vấn thích hợp như: khả năng tự do trả lời của người được hỏi, khả năng kiểm soát được việc lựa chọn dữ liệu, độ sâu sắc của cuộc phỏng vấn, khả năng đảm bảo chi phí thấp hay kinh tế, mức độ đeo bám của những người cung cấp thông tin, khả năng hồi tưởng lại những thông tin khó nhớ… Nhưng trong cuộc nghiên cứu này, người làm nghiên cứu lựa chọn phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếp vì phương pháp này cho phép người phỏng vấn có thể thu được lượng thông tin một cách tối đa bởi vì người phỏng vấn có thế đặt ra những câu hỏi không theo những khuôn mẫu có trước. Nó có thể được sử dụng một cách có hiệu quả để nắm bắt được những phản ứng của người được phỏng vấn về những bức tranh, sản phẩm hoặc những mẫu vật. Đồng thời nó cũng cho phép người phỏng vấn hợp lý hoá những câu trả lời bằng cách quan sát hoặc thăm dò liên tiếp đối tượng được phỏng vấn. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định như đó là một dạng phỏng vấn có chi phí cao vì để có thể tiến hành phỏng vấn thì công ty cần phải có những đầu tư về đào tạo trình độ, kỹ năng cho những người tiến hành phỏng vấn, những chi phí cho việc đi lại của những người tham gia phỏng vấn. Mặt khác, kết quả của phỏng vấn cá nhân trực tiếp chịu ảnh hưởng rất lớn từ người đi phỏng vấn. Trong khi cố gắng gây ấn tượng với người phỏng vấn, người được phỏng vấn có thể sẽ đưa ra những câu trả lời hoàn toàn không chân thật. Hơn nữa, những quan tâm cá nhân và quan điểm của người phỏng vấn có thể đưa họ đến việc giải thích câu trả lời khác đi. Nhìn chung, một cuộc nghiên cứu riêng lẻ chính thức không bị giới hạn trong một phương pháp nghiên cứu duy nhất nào đó. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là chỉ nên dùng một dạng hay kết hợp nhiều dạng nghiên cứu phỏng vấn với nhau. Người ta thường kết hợp giữa phỏng vấn qua điện thoại với phỏng vấn qua thư tín hoặc cũng có thể kết hợp giữa phỏng vấn qua điện thoại với phỏng vấn trực tiếp nhưng do điều kiện về mặt thời gian cũng như những điều kiện về mặt chi phí cho cuộc nghiên cứu bị hạn chế cho nên người tiến hành cuộc nghiên cứu này chỉ kết hợp giữa phỏng vấn cá nhân trực tiếp với phương pháp nghiên cứu quan sát. 2. Thiết kế bảng hỏi và mẫu điều tra Bảng câu hỏi hay còn gọi là phiếu điều tra được xem như là một công cụ phổ biến nhất khi thu thập các dữ liệu sơ cấp. Nó thường bao gồm một tập hợp các câu hỏi mà qua đó người được hỏi sẽ trả lời còn người nghiên cứu sẽ có được những thông tin cần thiết. Bảng câu hỏi rất quan trọng, đó là điều hiển nhiên nhưng để thiết kế được một bảng câu hỏi hoàn chỉnh thì lại là một công việc hết sức khó khăn vì bảng câu hỏi phải thực hiện được tất cả các chức năng và giảm bớt những khó khăn phức tạp và những sai lầm mà người nghiên cứu có thể gặp phải trong quá trình thiết kế. Để làm được điều này thì người thiết kế bảng câu hỏi phải tiến hành các bước dưới đây: Bước thứ nhất là người thiết kế bảng hỏi phải xác định những thông tin cần tìm kiếm và cách thức sử dụng chúng. Một điều kiện tiên quyết để lập bảng câu hỏi có hiệu quả là phải xác định chính xác cái gì cần phải đo lường. Mặc dù điều này là rất rõ ràng song nhiều khi nó thường bị bỏ qua và do đó gây phương hại cho bảng câu hỏi. Chính vì thế, để thiết lập bảng câu hỏi, người thiết kế phải xuất phát từ mục tiêu của cuộc nghiên cứu. Tiếp theo, người thiết kế phải liệt kê đầy đủ những gì cần đo lường để hoàn thành mục tiêu đó. Bản liệt kê này chính là một danh mục các loại thông tin cần tìm kiếm phù hợp với mục tiêu đã được khẳng định. Ngoài ra, người làm nghiên cứu cũng sẽ phải suy nghĩ xem nên dùng những kỹ thuật nào để tiến hành phân tích, mang lại ý nghĩa cho dữ liệu đó. Bước hai đó là việc tiến hành soạn thảo và đánh giá các câu hỏi. Thực chất đây là việc phát triển, liệt kê và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các câu hỏi xét ra có thể cần thiết để có thông tin. Để xây dựng được những câu hỏi như vậy cần phải quan tâm đến hai vấn đề, đó là nên dùng những dạng câu hỏi nào và nên đặt những các câu hỏi đó như thế nào. Sau khi các câu hỏi được liệt kê ra, nhiệm vụ của người nghiên cứu là thực hiện đánh giá chúng. Trong quá trình này có thể có những sự thay đổi cần thiết về nội dung câu hỏi và cách hỏi cũng có thể được định lại để chắc chắn rằng các câu hỏi là hợp lệ và hỏi được đúng vấn đề cần quan tâm. Hơn nữa, nhà nghiên cứu cố gắng giảm đến mức tối thiểu sự thiên về một khuynh hướng, hoặc khả năng biết sẵn các câu trả lời của câu hỏi do cách hỏi hoặc cách sắp xếp câu hỏi tạo ra. Cần phải lưu ý rằng việc soạn thảo và đánh giá các câu hỏi là những công việc đan xem tiếp nối với nhau và được lặp đi lặp lại một cách liên tục và nhiều lần. Nói cách khác, các câu hỏi phải trải qua một chuỗi các phác thảo và có rất nhiều các bản thảo về chúng trước khi được chấp nhận ở dạng cuối cùng. Chỉ có cách hành động như vậy mới có hy vọng thiết lập được các câu hỏi như mong muốn. Trong cuộc nghiên cứu này, bảng câu hỏi được thiết kế nhằm thu thập được những thông tin có thể đánh giá được những hiểu biết của người tiêu dùng về sản phẩm thạch rau câu Poke, và bảng câu hỏi được chia làm ba phần: Phần mở đầu: là tiêu đề của cuộc nghiên cứu, lời tự giới thiệu của người nghiên cứu và ý nghĩa, mục đích của cuộc nghiên cứu. Phần nội dung: là phần được thiết kế để trình bày các câu hỏi. Phần này được chia làm hai phần bao gồm những câu hỏi liên quan đến đề tài nghiên cứu và những câu hỏi có tính chất cá nhân đối với người được hỏi. Lời cảm ơn: là câu cuối cùng khi kết thúc bảng câu hỏi. ( bảng câu hỏi của cuộc nghiên cứu được trình bày ở phần phụ lục) Việc chọn mẫu cho cuộc nghiên cứu cũng là một vấn đề rất khó khăn. Đó là một quá trình bao gồm những giai đoạn là: Xác định tổng thể mục tiêu: tổng thể mục tiêu ở đây được xác định là toàn bộ những người tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà nội. Lựa chọn khung lấy mẫu: khung lấy mẫu được người tiến hành nghiên cứu xác định là danh sách những khách hàng tại các cửa hàng bán lẻ, tại các siêu thị trên địa bàn thành phố. Lựa chọn phương pháp lấy mẫu: cuộc nghiên cứu này được tiến hành với phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiêu, tức là người tiến hành nghiên cứu có thể lựa chọn bất kỳ một khách hàng nào khi tham gia mua sắm tại các cửa hàng bán lẻ, các siêu thị. Xác định kích thước mẫu: do những hạn chế về mặt thời gian và kinh phí cho cuộc nghiên cứu cho nên mẫu của cuộc nghiên cứu được lựa chọn là 50. 3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu Quá trình phân tích và xử lý dữ liệu được bắt đầu ngay sau khi các dữ liệu đã được thu thập đầy đủ và được tiến hành trên phần mềm phân tích dữ liệu thống kê SPSS. Quá trình này bao gồm nhiều bước khác nhau: Thứ nhất đó là việc đánh giá giá trị của những dữ liệu thu được. Trong bước này, người ta tiến hành xem xét một cách sâu sắc và chi tiết các phương pháp thu thập và các biện pháp kiểm tra đã được sử dụng trong quá trình thu thập dữ liệu.Ngoài ra, người làm nghiên cứu còn tiến hành thực hiện việc xem xét kỹ lưỡng các bảng hỏi đã hoàn thành trong cuộc điều tra phỏng vấn để phát hiện những sai sót và những nguyên nhân dẫn đến những sai sót đó. Thứ hai, người làm nghiên cứu tiến hành biên tập( hiệu chỉnh) các dữ liệu đã thu thập được. Trong bước này, trước hết những người làm nghiên cứu tiến hành biên tập lại những hồ sơ, nhằm hoàn thiện các bản ghi chép ban đầu bằng cách kiểm tra khả năng đọc được của những bản ghi chép này, phát hiện ra những trang bị bỏ trống…Tiếp theo, nhiệm vụ của người biên tập là xác định những câu trả lời không nhất quán hoặc mâu thuẫn để hoàn thiện hoặc loại bỏ chúng. Thứ ba đó là việc phải mã hoá các dữ liệu đã thu thập được. Đây là việc những người làm nghiên cứu tiến hành xác định và phân loại các câu trả lời đã được biên tập bằng các con số hoặc các ký hiệu để chuẩn bị cho việc phân tích dữ liệu. Việc mã hoá dữ liệu phải được dựa trên những nguyên tắc nhất định: các con số, ký hiệu được mã hoá phải được đầy đủ, toàn diện, có nghĩa là nó phải được thiết lập cho mọi đối tượng, sự vật hoặc câu trả lời trong các bảng ghi chép hay các bảng câu hỏi. Ngoài ra, các loại hạng mã hoá phải hoàn toàn riêng biệt và độc lập với nhau, các loại mã không được trùng lặp và chồng chéo lên nhau để đảm bảo rằng một đối tượng hay một câu trả lời chỉ được xác định trong một hạng mã hoá, hay đảm bảo tính loại trừ giữa các loại mã hóa. Mặt khác, trong quá trình mã hoá cũng cần phải tiến hành các công việc khác như lập bảng danh bạ mã hoá, huấn luyện những người tham gia nghiên cứu hiểu, biết về các cách thức mã hoá của nhân viên mã hóa, trong một số trường hợp thì người ta sẽ phải tiến hành mã hoá lại đối với những dữ liệu thô sơ đã có sẵn trong máy tính, đó là do khi nghiên cứu đánh giá thái độ của người được phỏng vấn về cả hai phương diện tích cực và tiêu cực nhưng việc mã hoá lại đòi hỏi phải chuyển đổi về phương diện tích cực. Bước cuối cùng của giai đoạn này đó là việc nhập các dữ liệu vào trong phần mềm để đưa ra những kết quả mà cuộc nghiên cứu đang cần quan tâm. Quá trình thu th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0148.doc
Tài liệu liên quan