Từ bỏ quyền lợi nhân thân là sau khi tác giả và người được chuyển nhượng đạt được thoả thuận về tác phẩm, người được chuyển nhượng được hưởng quyền tài sản của tác giả, tác giả sẽ không được chủ trương quyền lợi nhân thân có liên quan, tức là từ bỏ việc thực hiện đối với quyền lợi nhân thân có liên quan. Lý luận này bắt nguồn từ chế độ quyền nhân thân của tác giả hiện hành ở những nước theo hệ thống Luật Anh-Mỹ, mà ở những nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ do họ thực hiện quy định quyền nhân thân của tác giả không được tách rời với nhân thân của tác giả thì đều không được cho phép. Mà khái niệm "từ bỏ" (waive) trong hệ thống luật Anh-Mỹ và khái niệm "từ bỏ" (abandon) trong hệ thống luật lục địa có sự khác nhau về cơ bản. "Từ bỏ" trong hệ thống luật Anh-Mỹ chủ yếu là hành vi được sản sinh ra căn cứ theo thoả thuận về mặt Luật hợp đồng, nó chỉ giới hạn ở trong phạm vi quy định của hợp đồng và nhằm vào đương sự của hợp đồng, ngoài hợp đồng ra tác giả vẫn có quyền nhân thân của tác giả. Ví dụ một tác giả uỷ quyền cho một doanh nghiệp truyền thông đại chúng căn cứ vào việc sáng tạo tác phẩm phát thanh, truyền hình, đồng thời đã ký thoả thuận từ bỏ quyền sửa đổi.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về tính hợp lý của việc chuyển nhượng quyền nhân thân tác giả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều 28, 29, 64 "Luật quyền tác giả Đức"
Tức là ở những quốc gia này không tồn tại việc chuyển nhượng quyền tác giả, chỉ tồn tại chế độ uỷ quyền sử dụng tác phẩm. "Thuyết nhị nguyên" lấy Pháp làm đại biểu, bao gồm các nước như ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản.v.v., họ cho rằng quyền tác giả là "nhất quyền lưỡng thể", do quyền tài sản và quyền nhân thân của tác giả độc lập với nhau tạo nên, ngoài ra hai loại quyền lợi này được sự bảo hộ hoàn toàn khác nhau. Quyền tài sản của tác giả chỉ có thể được bảo hộ trong thời hạn nhất định, nhưng nó có thể tách rời với nhân thân của tác giả, có thể chuyển nhượng cho người khác trong lưu thông thương mại hoặc do tác giả từ bỏ; Còn quyền nhân thân của tác giả bao gồm quyền công bố, nó không thể tách rời với nhân cách của tác giả, vừa không thể chuyển nhượng vừa không thể từ bỏ, chỉ có sau khi tác giả chết mới có thể dịch chuyển cho người thừa kế theo pháp luật hoặc người được thừa kế theo di chúc. Tham khảo Điều L121-1 "Bộ luật quyền sở hữu trí tuệ của Pháp"
Ngoài ra mỗi khi việc thực thi quyền tài sản của tác giả xảy ra xung đột với quyền nhân thân của tác giả, thì quyền nhân thân của tác giả có hiệu lực ưu tiên, đã thể hiện sự bảo hộ ưu tiên đối với quyền nhân thân của tác giả.
Vấn đề đáng đề cập tới là "Công ước Berne"- Công ước bảo hộ quyền tác giả có tính quốc tế rộng rãi cũng chịu sự ảnh hưởng tương đối nhiều của triết học luật tự nhiên ở hệ thống luật lục địa. Trong khoản 2 Điều 6 "Công ước Berne" một mặt đã cho thấy quyền kinh tế của tác giả có thể chuyển nhượng được, mặt khác đã quy định rõ ràng sau khi quyền kinh tế được chuyển nhượng thì tác giả vẫn có quyền đứng tên và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, quyền lợi nói trên vẫn có hiệu lực sau khi tác giả chết, ít nhất cho đến khi thời hạn bảo hộ quyền kinh tế của tác giả chấm dứt.
1.3. Những nghi ngờ đối với lý luận truyền thống:
Xu hướng giá trị của quyền tác giả ở hệ thống Luật Anh - Mỹ và ở hệ thống luật lục địa mặc dù bắt nguồn từ các lý luận tư tưởng khác nhau, nhưng đều dựa vào nguyên lý chung của Bộ luật dân sự, cho rằng: Quyền tài sản của tác giả có thể tồn tại độc lập tách rời với tác giả, có thể xử lý, tiến hành chuyển nhượng và cho phép theo nguyện vọng tự do của tác giả. Còn quyền nhân thân của tác giả do không thể tách rời với chủ thể, vì vậy cũng không thể chuyển nhượng được. Sau khi phân tích quy định lập pháp của hai hệ thống pháp luật lớn và các nước khác nhau, tác giả bài viết giữ thái độ phủ định đối với lý luận về quyền nhân thân của tác giả không thể tách rời với chủ thể, lý do như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân của tác giả có thể thừa kế được. Bất luận là Luật quyền tác giả của Anh hay là Luật quyền tác giả của Pháp cũng đều thừa nhận quyền nhân thân của tác giả có thể chuyển giao cho người thừa kế theo Luật thừa kế. Điều này đã chứng minh đầy đủ rằng quyền nhân thân của tác giả có thể tách rời với chủ thể, sau khi tác giả chết thì do người thừa kế hoặc người thứ ba được chỉ định theo di chúc của họ thực thi.
Thứ hai, Luật quyền tác giả của Anh quy định: cấm giả mạo quyền đứng tên của tác giả kéo dài đến 20 năm sau khi tác giả chết, Công ước Berne cũng quy định, các quốc gia thành viên đối với việc bảo hộ quyền nhân thân của tác giả không được ít hơn thời hạn bảo hộ quyền kinh tế tương ứng, và Công ước đồng thời còn quy định thời hạn bảo hộ quyền kinh tế không được dưới 50 năm sau khi tác giả chết, rõ ràng là sự bảo hộ quyền nhân thân của tác giả cũng không được dưới 50 năm sau khi tác giả chết. Vậy thì tất cả những tác phẩm được công bố sau khi tác giả chết cho đến trước khi thời hạn có hiệu lực về quyền nhân thân của tác giả hết thì các quyền lợi nhân thân có liên quan là hoàn toàn tách rời với chủ thể, điều này cũng đã bác bỏ lý luận về quyền nhân thân không thể tách rời với chủ thể.
Thứ ba, những quốc gia theo "Thuyết nhất nguyên", tuy nhấn mạnh quyền tác giả là một chỉnh thể (bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân) không thể chuyển nhượng được, nhưng có thể được thực hiện thông qua sự uỷ quyền cho phép, trong đó sự cho phép về quyền tài sản là không có sự nghi ngờ gì, nhưng quyền nhân thân liệu có thể cho phép người khác sử dụng hay không thì chỉ có thể suy đoán là không thể. Cố vấn pháp luật của Bộ tư pháp áo trên tạp chí "Bản quyền" của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới đã chỉ ra rằng: do đại đa số các tác giả âm nhạc và tác giả kịch của áo đã uỷ thác toàn quyền về quyền sử dụng và quyền thu tiền nhuận bút tác phẩm thậm chí cả đến thủ tục tố tụng khi tác phẩm bị xâm phạm cho "Hiệp hội thu thuế bản quyền" giải quyết. Trên thực tế, khi tác phẩm bị người thứ ba sử dụng liệu có thể được đứng tên, đứng tên như thế nào, được sửa đổi hay không và sửa đổi ra sao, ghi tên hoặc sửa đổi tác phẩm không đúng sẽ bị kiện đến Toà án như thế nào, tất cả đều do Hiệp hội này (trong trường hợp không liên hệ với tác giả nữa) quyết định, điều này tương đương với việc tác giả khi ký kết hợp đồng uỷ thác với Hiệp hội này phải giao quyền tài sản và quyền nhân thân cho Hiệp hội này bằng phương thức cho phép độc quyền, thậm chí có thể coi là đã chuyển nhượng cho Hiệp hội này.
Thứ tư, Luật quyền tác giả của những nước theo hệ thống Luật Anh-Mỹ đều cho thấy rõ, quyền nhân thân của tác giả có thể từ bỏ được, điều này trên thực tế chính là một kiểu giải quyết của tác giả đối với quyền nhân thân của mình. Tưởng tượng, khi một nhà xuất bản đàm phán với tác giả về vấn đề xuất bản sách, nhà xuất bản yêu cầu tác giả huỷ bỏ quyền sửa đổi (một loại quyền nhân thân của tác giả) đối với quyển sách đó, đồng thời đề xuất nếu tác giả từ bỏ quyền sửa đổi thì tiền nhuận bút có thể tăng lên gấp đôi, nếu tác giả đồng ý thì cũng sẽ được tiền thù lao nhiều gấp đôi, vậy thì điều này còn có sự khác biệt gì về bản chất so với việc chuyển nhượng có bồi hoàn về quyền nhân thân của tác giả?
Từ đó có thể thấy rằng, luật pháp nước ngoài tuy cấm việc chuyển nhượng quyền nhân thân của tác giả, nhưng trên thực tế tồn tại tính có thể tách rời thậm chí tính phải tách rời giữa chủ thể và quyền nhân thân của tác giả. Năm 1985 khi Pháp sửa đổi Luật quyền tác giả, để thích ứng với nhu cầu của giới doanh nghiệp, trong văn bản sửa đổi đã quy định quyền lợi nhân thân của tác giả về chế phẩm đĩa hình và chế phẩm phần mềm máy tính có thể chuyển nhượng được. Lý luận về quyền tác giả của Pháp cũng cho thấy, nếu muốn bảo vệ thiết thực quyền nhân thân của tác giả thì không thể câu nệ vào lý luận không thể tách rời hoặc tuyệt đối không thể chuyển nhượng giữa quyền lợi này với chủ thể.
2. Mô hình lý luận và phân tích sự chuyển giao các quyền nhân thân có liên quan của tác giả hiện nay.
Do sự chuyển giao quyền tác giả không phải là sự chuyển dịch về quyền lợi nhân thân mà là sự chuyển dịch về quyền lợi tài sản, nhưng do hậu quả của việc chuyển nhượng làm cho tác giả khi thực hiện quyền lợi nhân thân đối với tác phẩm chịu sự hạn chế nhất định, ít nhất trong một thời gian, việc thực hiện quyền lợi nhân thân sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng của người được chuyển nhượng đối với tác phẩm, thậm chí giảm bớt thu nhập kinh tế, như vậy, người được chuyển nhượng không thể không được quan tâm. Vì vậy, tác giả không thể nhấn mạnh quyền chuyển nhượng chỉ là quyền tài sản trong quyền tác giả, mà phải tính đến một thực tế hoặc một vấn đề pháp luật là: tách rời hoàn toàn quyền lợi nhân thân và quyền lợi tài sản trong quyền tác giả, để trở thành các bộ phận độc lập không có sự liên hệ với nhau là không thể. Để giải quyết mâu thuẫn này, các học giả đã đưa ra nhiều lý luận:
Lý luận về việc từ bỏ quyền lợi nhân thân:
Từ bỏ quyền lợi nhân thân là sau khi tác giả và người được chuyển nhượng đạt được thoả thuận về tác phẩm, người được chuyển nhượng được hưởng quyền tài sản của tác giả, tác giả sẽ không được chủ trương quyền lợi nhân thân có liên quan, tức là từ bỏ việc thực hiện đối với quyền lợi nhân thân có liên quan. Lý luận này bắt nguồn từ chế độ quyền nhân thân của tác giả hiện hành ở những nước theo hệ thống Luật Anh-Mỹ, mà ở những nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ do họ thực hiện quy định quyền nhân thân của tác giả không được tách rời với nhân thân của tác giả thì đều không được cho phép. Mà khái niệm "từ bỏ" (waive) trong hệ thống luật Anh-Mỹ và khái niệm "từ bỏ" (abandon) trong hệ thống luật lục địa có sự khác nhau về cơ bản. "Từ bỏ" trong hệ thống luật Anh-Mỹ chủ yếu là hành vi được sản sinh ra căn cứ theo thoả thuận về mặt Luật hợp đồng, nó chỉ giới hạn ở trong phạm vi quy định của hợp đồng và nhằm vào đương sự của hợp đồng, ngoài hợp đồng ra tác giả vẫn có quyền nhân thân của tác giả. Ví dụ một tác giả uỷ quyền cho một doanh nghiệp truyền thông đại chúng căn cứ vào việc sáng tạo tác phẩm phát thanh, truyền hình, đồng thời đã ký thoả thuận từ bỏ quyền sửa đổi. Tuy tác giả không chủ trương quyền lợi nhân thân đối với hành vi sửa đổi nguyên tác của doanh nghiệp truyền thông đại chúng trong quá trình sáng tạo tác phẩm phát thanh, truyền hình nữa, nhưng vẫn có quyền phản đối doanh nghiệp truyền thông đại chúng này sửa đổi tác phẩm của họ trong thoả thuận từ bỏ chưa đề cập đến quá trình như là xuất bản sách..., và cũng có quyền phản đối những người khác sửa đổi tác phẩm của họ dưới bất kỳ hình thức nào trừ doanh nghiệp truyền thông đại chúng ra. Vì vậy việc từ bỏ quyền sửa đổi này, trên thực tế là tác giả thông qua thoả thuận chuyển nhượng quyền sửa đổi với mức độ nhất định cho doanh nghiệp truyền thông đại chúng này. Còn "từ bỏ" trong Luật lục địa thường là được sản sinh ra dựa vào hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản, nó có tính tuyệt đối hay còn gọi là tính đối thế, hậu quả pháp lý của việc từ bỏ này là người có quyền sở hữu hoàn toàn mất đi sự chi phối khách thể đối với quyền lợi, đồng thời cũng hoàn toàn mất đi khả năng loại trừ việc tiến hành xâm hại tuỳ ý của người thứ ba đối với khách thể. Ví dụ, việc từ bỏ đối với quyền sở hữu vật hữu hình sẽ dẫn đến vật này trở thành tài sản vô chủ, chủ sở hữu cũ không được ngăn cấm việc sử dụng của bất cứ người nào đối với nó, đồng thời có thể sinh ra hậu quả pháp lý chiếm dụng quyền sở hữu. Nếu việc từ bỏ quyền nhân thân của tác giả cũng được tiến hành về mặt ý nghĩa này thì sẽ dẫn đến việc bất kỳ người nào cũng đều có thể quyết định tác phẩm này có được công bố hay không, bất kỳ người nào cũng đều có thể sửa đổi tuỳ ý tác phẩm đồng thời lấy nguyên đầu đề và tên tác giả để công khai xuất bản, tình trạng này ở những nước theo hệ thống luật lục địa sẽ là không thể tưởng tượng và không thể chấp nhận được.
Tác giả bài viết cho rằng, nếu áp dụng khái niệm "chuyển nhượng" tương tự với khái niệm "từ bỏ" thì có khả năng tránh được việc từ bỏ quyền nhân thân của tác giả mang đến sự khó khăn cho Luật quyền tác giả của những nước theo hệ thống luật lục địa, từ đó làm cho hai hệ thống pháp luật lớn có khả năng điều chỉnh trong thực tế. Quyền tác giả là một loại quyền độc lập, người có quyền đồng thời với việc thực hiện quyền lợi của mình có quyền ngăn chặn người khác sử dụng quyền lợi này khi chưa được sự đồng ý của mình. Quyền nhân thân của tác giả với tư cách là một bộ phận của quyền tác giả cũng hoàn toàn có thể áp dụng mô hình này, đồng thời với việc ngăn cấm người khác xâm phạm quyền lợi này thông qua thoả thuận làm cho đối phương được chỉ định riêng được hưởng quyền nhân thân của tác giả tương ứng với mức độ nhất định, như quyền công bố, quyền đứng tên, quyền sửa đổi.v.v. Suy nghĩ này không những phù hợp với đặc trưng sử dụng của quyền tác giả, mà còn có thể tìm được căn cứ lập pháp ở trong hai hệ thống pháp luật lớn, từ đó giúp cho tác giả có thể dựa vào nguyên tắc tự do thoả thuận, thông qua hợp đồng để giải quyết quyền lợi nhân thân của mình.
2.2. Lý luận về sử dụng hết phần quyền lợi nhân thân:
Lý luận này cho rằng, tác giả chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả thì có nghĩa là sử dụng hết phần quyền lợi nhân thân của tác giả, họ thực thi quyền lợi nhân thân là thông qua việc thực hiện xong một lần khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả với người được chuyển nhượng. Tức là trong điều kiện cụ thể của hợp đồng, thực thi quyền lợi nhân thân một cách rõ ràng, đầy đủ, đưa ra yêu cầu đối với việc sử dụng tác phẩm. Nếu như người được chuyển nhượng không thực hiện theo hợp đồng ký kết, thì tác giả có thể lấy lý do vi phạm thoả thuận của hợp đồng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Lấy quyền công bố của tác giả làm ví dụ, về việc "liệu có thể công bố" tác phẩm của mình hay không thì tác giả chỉ có thể thực thi quyền lợi một lần, tức là tuyên bố "sử dụng hết". Nếu tác giả đã đồng ý cho nhà xuất bản nào đó xuất bản một tác phẩm của mình, vậy thì, bất cứ nhà xuất bản nào khác sau đó cho dù chưa được sự cho phép đã in lại tác phẩm của họ, cũng chỉ đã xâm phạm quyền sao chép trong quyền tài sản của tác giả, chứ không xâm phạm quyền công bố trong quyền nhân thân của tác giả.
Tác giả bài viết cho rằng, "sử dụng hết phần quyền lợi nhân thân" trong hợp đồng chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả, bản chất của nó chính là phần chuyển nhượng quyền nhân thân của tác giả, đối với tác giả mà nói, đã "sử dụng hết" phần quyền lợi này theo thoả thuận, còn bên được chuyển nhượng thì giành được phần quyền lợi này dựa vào điều kiện thoả thuận của hợp đồng. Về bề ngoài từ 'sử dụng hết" ẩn chứa việc "chuyển nhượng" về mặt thực chất. Từ ví dụ trên cho thấy, tác giả đồng thời với việc đồng ý cho nhà xuất bản xuất bản tác phẩm của mình, thì quyền công bố tác phẩm trên thực tế cũng đã được chuyển nhượng cho nhà xuất bản. Còn lý luận nhấn mạnh việc không thể chuyển nhượng, không thể từ bỏ quyền nhân thân của tác giả cần phải có một lối ra (hay còn nói là cần phải có một lý luận), đưa ra giải thích rõ ràng, mạch lạc đối với hiện tượng này, thì điều này chắc chắn rút ra được kết luận về "việc sử dụng hết phần quyền lợi nhân thân".
2.3. Lý luận về việc sử dụng hợp lý quyền lợi nhân thân:
Sử dụng hợp lý, lúc đầu là khái niệm hạn chế ở phạm trù quyền lợi tài sản, nó vốn thuộc về hành vi xâm phạm quyền lợi kinh tế riêng của người được hưởng quyền tác giả, nhưng do quy định đặc biệt của pháp luật, đã loại trừ việc nhận định đối với hành vi xâm phạm này. Những nước theo thông luật như Anh, Mỹ khi vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20 đã đưa chế độ quyền lợi nhân thân vào Luật quyền tác giả của nước mình, cho rằng phạm vi bảo hộ của quyền lợi nhân thân quá rộng, để hạn chế hiệu lực của quyền lợi nhân thân đã đưa việc sử dụng hợp lý từ quyền lợi tài sản kéo dài đến quyền lợi nhân thân. Ví dụ, chế độ quyền lợi nhân thân trong Luật quyền tác giả của Mỹ hầu như căn cứ y hệt theo việc sử dụng hợp lý của quyền lợi tài sản. Đầu tiên, chế độ quyền nhân thân của tác giả ở Mỹ căn cứ theo biện pháp sử dụng hợp lý quyền tài sản của tác giả, việc sử dụng hợp lý quyền tài sản của tác giả chủ yếu giải quyết xung đột giữa lợi ích kinh tế của tác giả với lợi ích chung của xã hội như tự do tin tức, giáo dục, khi cần thiết, cần phải hy sinh một phần lợi ích kinh tế cá nhân. Tuy nhiên, việc sử dụng hợp lý quyền nhân thân của tác giả không phải là dùng để hoà giải mối quan hệ giữa quyền lợi nhân thân của tác giả với lợi ích chung của xã hội, về mặt bản chất mà nói thì nhân cách của con người và sự tôn trọng bản thân chính là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong lợi ích chung của xã hội, sự tôn trọng đối với lợi ích nhân cách cũng chính là sự thúc đẩy lớn nhất đối với lợi ích chung của xã hội. Ngoài ra, khái niệm lý luận pháp luật về lợi ích chung hy sinh cho lợi ích nhân cách cá nhân trong luật tự nhiên về cơ bản là không thể chấp nhận được. Đương nhiên, tác giả bài viết không có ý hoàn toàn phủ nhận việc sử dụng hợp lý quyền nhân thân của tác giả, một chế độ sử dụng hợp lý, khoa học có thể làm cho công chúng trong xã hội được phân chia đầy đủ lợi ích truyền bá rộng rãi thông tin trong điều kiện kỹ thuật hiện đại. Việc sử dụng hợp lý quyền nhân thân của tác giả chỉ là một vấn đề về mặt kỹ thuật lập pháp. Ngoài ra, việc sử dụng hợp lý không được xung đột với việc sử dụng thông thường của tác phẩm, không được gây tổn hại bất hợp lý đến lợi ích của người có quyền tác giả vốn được hưởng. Mà quá tuân thủ lĩnh vực truyền thống trong việc sử dụng hợp lý, thì người có quyền tác giả sẽ không thể nhận được lợi ích đầy đủ từ trong quá trình kỹ thuật hiện đại mang đến việc sử dụng tác phẩm rộng rãi. Vì vậy giới lý luận chỉ nhắc đến việc sử dụng hợp lý đối với quyền nhân thân của tác giả, để đảm bảo cho công chúng trong xã hội được tiếp xúc và sử dụng tác phẩm một cách đầy đủ, nhưng lại không chú ý tới việc bảo hộ quyền lợi hợp pháp của cá nhân tác giả, đã bỏ trống lĩnh vực sử dụng thương mại bình thường của quyền nhân thân tác giả, điều này có thể nói là một việc đáng tiếc lớn.
Do vậy, tác giả bài viết cho rằng, đồng thời với việc xác lập và hoàn thiện chế độ sử dụng hợp lý quyền nhân thân của tác giả, cũng cần phải đưa ra quy định rõ ràng đối với việc chuyển giao mang tính thương mại về quyền nhân thân của tác giả. Đây có thể nói là hai mặt của một sự vật. Bởi vì việc sử dụng hợp lý chủ yếu hạn chế ở việc sử dụng với mục đích phi thương mại, và chịu sự ràng buộc của các nhân tố như tính chất, cách thức thay đổi tác phẩm của người khác, số lượng, chất lượng, phương thức truyền bá của tác phẩm được sử dụng. ở lĩnh vực chuyển giao mang tính thương mại, quyền nhân thân của tác giả nếu không có một chế độ giao dịch quy phạm hoá thì càng dễ gây hậu quả thiệt hại nghiêm trọng đối với quyền lợi nhân cách của tác giả.
3. ý tưởng về việc chuyển nhượng hợp lý quyền nhân thân của tác giả và hiện trạng lập pháp của Trung Quốc
3.1. Phân tích sự thiếu sót và hiện trạng lập pháp của Trung Quốc.
Luật quyền tác giả của Trung Quốc tiếp nhận "Thuyết nhị nguyên" của hệ thống luật lục địa, nhưng nội dung về chế độ giao dịch quyền tác giả lại có chút khác biệt so với các nước theo "Thuyết nhị nguyên" về quyền tài sản của tác giả, Điều 23 "Luật quyền tác giả nước CHND Trung Hoa" quy định: "sử dụng tác phẩm của người khác cần phải được sự cho phép hoặc ký kết hợp đồng với chủ sở hữu tác phẩm", chưa đưa ra quy định chung đối với việc chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả. Đối với quyền nhân thân của tác giả, Trung Quốc đã kế thừa tinh thần lập pháp quyền tác giả của những nước theo hệ thống luật lục địa, cho rằng quyền nhân thân của tác giả không thể chuyển nhượng, không thể tước bỏ và được bảo hộ vĩnh viễn. Vì vậy, Điều 20 "Luật quyền tác giả nước CHND Trung Hoa" quy định: "Thời hạn bảo hộ về quyền đứng tên, quyền sửa đổi và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm của tác giả không bị hạn chế". Đối với vấn đề thừa kế, Điều 20 "Điều lệ thi hành Luật quyền tác giả của nước CHND Trung Hoa" (sau đây gọi tắt là "Điều lệ thi hành") quy định: "Sau khi tác giả chết, quyền đứng tên, quyền sửa đổi và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm trong quyền tác giả do người thừa kế theo pháp luật hoặc người được thừa kế theo di chúc của tác giả bảo hộ. Trong trường hợp quyền tác giả không có người thừa kế theo pháp luật hoặc không có người thừa kế theo di chúc thì quyền đứng tên, quyền sửa đổi và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm của tác giả do cơ quan quản lý hành chính quyền tác giả bảo hộ". Do vậy có thể thấy rằng, Luật quyền tác giả của Trung Quốc không cho phép thừa kế quyền đứng tên, quyền sửa đổi và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, chỉ có thể do người thừa kế, người được thừa kế theo di chúc của tác giả hoặc cơ quan quản lý hành chính tác phẩm bảo hộ. Đối với quyền công bố, Điều 21 "Luật quyền tác giả nước CHND Trung Hoa" quy định: "tác phẩm của công dân, thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời; quyền tác giả, tác phẩm của pháp nhân hoặc đơn vị không có tư cách pháp nhân (trừ quyền đứng tên ra) thì thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm nghề nghiệp, tác phẩm điện ảnh và tác phẩm nhiếp ảnh mà pháp nhân hoặc đơn vị không có tư cách pháp nhân được hưởng là 50 năm. Điều 22 "Điều lệ thi hành" quy định: "tác phẩm chưa được công bố lúc tác giả còn sống, nếu như tác giả chưa công bố, trong vòng 50 năm sau khi tác giả chết thì quyền công bố tác phẩm đó có thể do người thừa kế theo pháp luật hoặc người được thừa kế theo di chúc thực thi; nếu không có người thừa kế theo pháp luật lại không có người được thừa kế theo di chúc thì do chủ sở hữu hợp pháp tác phẩm thực thi." Từ đó có thể thấy rằng, Luật quyền tác giả của Trung Quốc đối với việc bảo hộ quyền công bố có sự khác biệt so với các quyền nhân thân khác của tác giả, đã đưa ra sự hạn chế về thời gian. Điều này chủ yếu là xem xét từ đặc điểm của quyền công bố, nó vừa là điều kiện hàng đầu để tác giả được hưởng lợi ích, cũng vừa là tấm bình phong không thể vượt qua để xã hội được sử dụng quyền tác giả. Nếu quy định quyền công bố được bảo hộ vô thời hạn thì tác giả, người thừa kế theo pháp luật, người được thừa kế theo di chúc hay chủ sở hữu hợp pháp tác phẩm không công bố, phổ biến tác phẩm, vậy thì xã hội sẽ mãi mãi không có cách nào sử dụng được tác phẩm của tác giả, điều này nhất định sẽ tổn hại đến lợi ích chung của xã hội, vì vậy, đã đưa ra sự hạn chế về thời gian đối với quyền lợi này. Ngoài ra, Luật quyền tác giả của Trung Quốc cũng không thừa nhận quyền công bố có thể được thừa kế, nên đã áp dụng khái niệm "thực thi" này, quyền lợi thực thi không phải là do tác giả trao tặng thông qua thừa kế hoặc tặng theo di chúc, mà là do pháp luật trực tiếp trao cho.
Do vậy có thể thấy rằng, trong giao dịch quyền tác giả, lập pháp Trung Quốc đã áp dụng phương án giải quyết chung chung đối với việc chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả. Cùng với sự phát triển tổng thể của văn hoá kinh tế thế giới, sự giao lưu giữa thương mại và văn hoá ngày càng nhiều, nhiều nước trên thế giới đều đã có quy định lập pháp về việc chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả, trong giao dịch quyền tác giả quốc tế cũng còn tồn tại nhiều thực tế về việc chuyển nhượng quyền tác giả, và ở Trung Quốc cũng tồn tại thực tế về việc chuyển nhượng quyền tác giả, do vậy sự không rõ ràng về mặt lập pháp quyền tác giả hiện hành của Trung Quốc đã không có lợi cho sự giao lưu thông thường giữa thương mại và văn hoá. Vì vậy, giới lý luận của Trung Quốc hiện nay đều phổ biến cho rằng, Luật quyền tác giả của Trung Quốc cần phải cho phép việc chuyển nhượng quyền tài sản của tác giả, đồng thời phải đưa ra quy định cụ thể, kiến nghị này đã được đưa vào chương trình sửa đổi Luật quyền tác giả của Trung Quốc.
Còn đối với quyền nhân thân của tác giả, lập pháp hiện hành của Trung Quốc vẫn giữ nguyên tắc quyền nhân thân về mặt dân sự không thể tách rời với chủ thể, cho rằng quyền nhân thân của tác giả không thể chuyển nhượng, không thể từ bỏ thậm chí không thể thừa kế được. Quyền tác giả là một loại quyền lợi dân sự đặc biệt, từ thời đại in ấn bước vào thời đại điện tử, đứng trước sự tấn công và thách thức của kỹ thuật số, vẫn kiên quyết giữ nguyên tắc không thể tách rời, không thể chuyển nhượng đối với quyền nhân thân của tác giả liệu có hợp lý hay không? Về mặt lý luận vẫn còn phải nghiên cứu thảo luận thêm. Còn về mặt thực tế, dựa vào thuộc tính quyền lợi kép đặc biệt của quyền tác giả, chúng ta không nên so sánh nó với quyền nhân thân trong quyền lợi dân sự nói chung, nếu cứ dùng kiến thức Luật dân sự vốn có để giải thích thì sẽ rơi vào sự nghi vấn sâu hơn. Xét từ mặt triết học, điều này không có gì lạ cả, bởi vì nguyên lý thông thường được nhận thức trong Luật dân sự cho đến nay cũng là từ trong một loại quyền lợi dân sự đặc biệt nâng lên thành nguyên tắc phổ thông. Khi con người chỉ có sự nhận biết đối với việc mua bán hàng hoá, có thể cũng cho rằng chỉ có nguyên lý đặc thù điều chỉnh hoạt động mua bán này mới được gọi là nguyên lý của Luật dân sự, liền dùng nó để khoác vào quyền lợi của người làm thuê trong quan hệ thuê mướn, lúc đó cũng giống như đi vào ngõ chết vậy. Do vậy chúng ta phải nhìn thấy một số tính đặc thù nào đó của quyền tác giả (hay tính đặc thù còn chưa nhận biết được), từ góc độ nhận thức luận cho thấy, Trung Quốc cũng còn cần phải nghiên cứu sâu hơn. Khi chúng ta thật sự tìm thấy một vị trí thích hợp cho quyền tác giả trong nguyên tắc chung về nhận thức mới của Luật dân sự, chứ không phải là đưa vào một cách cứng nhắc, thì quá trình nhận thức của chúng ta mới xem như là đã kết thúc. Quyền tác giả thông thường bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân của tác giả, nhưng trên thực tế giới hạn của hai quyền lợi này lại không rõ ràng, thông qua việc thực thi quyền nhân thân của tác giả, hoàn toàn có thể thúc đẩy việc thực hiện về lợi ích kinh tế. Đúng như sự ví von mà học giả người Đức Uimer về chủ trương "Thuyết nhất nguyên" của quyền tác giả: Quyền tác giả giống như một cái cây, lợi ích kinh tế và lợi ích tinh thần giống như những cành cây khác nhau của một cây lớn, còn quyền lợi tài sản và quyền lợi nhân thân giống như các nhánh rễ cây khác nhau của một cây lớn, đôi khi, cành của lợi ích kinh tế chỉ lấy dinh dưỡng từ trong nhánh rễ của quyền lợi tài sản, còn nhiều khi, cành của lợi ích kinh tế lấy dinh dưỡng từ trong tất cả các nhánh rễ bao gồm cả quyền lợi nhân thân trong đó.
Từ những năm 90 của thế kỷ 20 cho đến nay, cùng với sự mở rộng nhanh chóng của kỹ thuật mạng quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, đã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu về tính hợp lý của việc chuyển nhượng quyền nhân thân tác giả.doc