Ngôn ngữ học - Khảo sát lỗi sử dụng động từ Tiếng Việt

MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề tài. 1

2. Lịch sử vấn đề . 2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu . 4

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 5

5. Phương pháp nghiên cứu. 5

6. Ý nghĩa của luận văn. 6

7. Cấu trúc luận văn . 6

NỘI DUNG. 7

Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài. 7

1.1. Động từ và động từ trong tiếng Việt . 7

1.1.1. Khái niệm động từ. 7

1.1.2. Phân loại động từ. 8

1.1.3. Vai trò của động từ trong giao tiếp. 10

1.1.4. Một vài đặc trưng khác của động từ tiếng Việt . 11

1.2. Một số vấn đề về “lỗi” ngôn ngữ . 12

1.2.1. Khái niệm “lỗi” ngôn ngữ . 12

1.2.2. Quan điểm về phân tích lỗi . 14

1.2.3. Lỗi dùng từ trong tiếng Việt. 16

1.2.4. Lỗi sử dụng động từ trong tiếng Việt . 17

1.3. Một số vấn đề dạy- học từ ngữ trong nhà trường THCS hiện nay . 18

1.3.1. Phân phối trong phân môn tiếng Việt . 18

1.3.2. Nội dung dạy học từ ngữ. 19

1.3.3. Phương pháp quan sát - phân tích ngôn ngữ. 20

1.3.4. Vấn đề dạy- học động từ tiếng Việt. 22

1.3.5. Những định hướng mới trong dạy học từ ngữ . 23

Tiểu kết chương 1. 25

pdf31 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 849 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngôn ngữ học - Khảo sát lỗi sử dụng động từ Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp toàn diện cho những vấn đề các tác giả đã đặt ra. Trong cuốn “Từ điển lỗi dùng từ” do Hà Quang Năng chủ biên[28], tác giả đã xác định năm dạng lỗi cơ bản như: dùng từ sai vỏ âm thanh, dùng từ sai ý nghĩa, dùng lặp từ, dùng thừa từ và thiếu từ, dùng từ sai phong cách và sai từ loại. Từ đó, các tác giả đưa ra biện pháp khắc phục các loại lỗi đó. Đây là tài liệu hữu ích cho học sinh trong việc mở rộng vốn từ và cho giáo viên trong việc rèn luyện từ ngữ cho học sinh. “Rèn luyện kỹ năng dùng từ và kỹ năng về chính tả” cũng được đề cập đến trong cuốn “Tiếng Việt thực hành” của Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp [37]. Các tác giả đã khái quát thành ba loại lỗi dùng từ chính: lỗi thông thường về dùng từ trong văn bản, lỗi chính tả, lỗi về quy tắc viết hoa và quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài. Gắn liền với các loại lỗi đó là các bài tập khắc phục. “Tiếng Việt thực hành” của tác giả Lê A [1] cũng đưa ra các yêu cầu với việc sử dụng từ ngữ trong văn bản. Trên cơ sở đó, các tác giả chỉ ra các lỗi thường gặp với việc sử dụng từ ngữ và bài tập ứng dụng chữa lỗi. Nhưng 4 như đã nêu ở trên, do tính bao quát của tài liệu mà nội dung về lỗi sử dụng từ ngữ còn khá đơn giản và sơ lược. Sau này, vấn đề phân tích và chữa lỗi ngôn ngữ được nghiên cứu sâu hơn trên nhiều vấn đề và bình diện khác nhau trong các luận văn và luận án nhưng lại hầu như tập trung chủ yếu trong ứng dụng dạy- học tiếng Việt như một ngoại ngữ mà ít quan tâm đến vấn đề dạy- học bản ngữ. Kế thừa những nghiên cứu trên, luận văn tiếp tục triển khai nghiên cứu lỗi về mặt từ ngữ trên một loại từ cụ thể hơn là động từ. Trên cơ sở những khảo sát cụ thể luận văn hướng tới đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn đề. Động từ cùng với danh từ là những từ loại quan trọng của ngôn ngữ. Tuy nhiên, những nghiên cứu về lỗi sử dụng động từ trong dạy và học tiếng Việt còn sơ lược và thường đặt trong những nghiên cứu về lỗi sử dụng từ ngữ nói chung. Những nghiên cứu độc lập về lỗi sử dụng động từ tiếng Việt cũng như những nghiên cứu về lỗi của các nhóm từ ngữ cụ thể trong nhà trường phổ thông còn rất hiếm. Vì vậy, nghiên cứu lỗi sử dụng động từ tiếng Việt của học sinh phổ thông là một hướng tiếp cận mang tính cụ thể hơn nối tiếp những nghiên cứu trước đây về lỗi ngôn ngữ trong dạy học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Trên đây là những nét sơ lược nhất về lịch sử nghiên cứu lỗi ngôn ngữ trong dạy học tiếng Việt nói chung và lịch sử nghiên cứu lỗi sử dụng động từ nói riêng. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trình bày ở trên là cơ sở lý luận để chúng tôi thực hiện đề tài của mình. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là lỗi sử dụng động từ tiếng Việt của học sinh trung học cơ sở (THCS). 3.2. Phạm vi nghiên cứu 5 Luận văn tập trung nghiên cứu lỗi sử dụng động từ tiếng Việt trên cứ liệu môn Ngữ văn của học sinh trường THCS Thach Hòa (các cứ liệu cụ thể xin trình bày chi tiết ở chương 3). 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu lỗi sử dụng động từ trong các bài viết của học sinh tại trường THCS Thạch Hòa, luận văn mong muốn làm rõ hơn nữa thực trạng sử dụng từ ngữ của học sinh THCS qua những loại lỗi cơ bản thường gặp trong sử dụng động từ tiếng Việt; từ đó, đề xuất những phương pháp sửa lỗi để giúp nâng cao hiệu quả dạy và học từ ngữ trong nhà trường. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cúu - Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý thuyết liên quan đến lỗi và việc giải quyết các vấn đề lỗi của học sinh. - Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích các loại lỗi liên quan đến việc sử dụng động từ của học sinh - Bước đầu chỉ ra những nguyên nhân, đề xuất giải pháp sửa chữa và cách khắc phục. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê số lượng các lỗi xuất hiện trong các bài viết của học sinh sau đó tiến hành phân loại thành các nhóm lỗi trên những phương diện cụ thể. - Phương pháp phỏng vấn thực địa: phỏng vấn ngẫu nhiên một số đối tượng khảo sát và giáo viên ngữ văn trong trường, thông qua đó lý giải một số hiện tượng liên quan. - Phương pháp miêu tả và phương pháp phân tích lỗi của ngôn ngữ học ứng dụng: trên cơ sở miêu tả các loại lỗi, tiến hành phân tích cụ thể theo từng nhóm lỗi để tìm ra những nguyên nhân mắc lỗi, từ đó đề ra giải pháp sửa lỗi. 6 6. Ý nghĩa của luận văn - Việc khảo sát, nghiên cứu và phân tích lỗi sử dụng động tiếng Việt của học sinh trường THCS Thạch Hòa góp phần làm rõ hơn thực trạng lỗi sử dụng động từ nói riêng và sử dụng từ ngữ nói chung của học sinh THCS hiện nay. - Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo giúp ích cho việc dạy và học nhóm từ loại này, từ đó hướng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng động từ nói riêng và từ ngữ nói chung cho học sinh THCS. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn của chúng tôi bao gồm ba chương: - Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài - Chương 2: Khảo sát một số lỗi sử dụng động từ tiếng Việt - Chương 3: Bàn luận và đề xuất 7 NỘI DUNG Chƣơng 1: Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài 1.1. Động từ và động từ trong tiếng Việt 1.1.1. Khái niệm động từ Động từ là một từ loại tương đối phức tạp trong hệ thống ngôn ngữ. Chính vì thế, trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt, vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về động từ. Khái niệm động từ cũng được các nhà nghiên cứu định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Nhưng về cơ bản khái niệm này được xác định trên ba phương diện : ý nghĩa ngữ pháp, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp. Trong sách giáo khoa “Ngữ văn 6” [5], động từ được định nghĩa là những từ chỉ hoạt động trạng thái của sự vật, thường kết hợp với những từ đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, hãy, chớ, đừng để tạo thành cụm động từ. Chức vụ điển hình của động từ là vị ngữ [5;146] Trong giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Diệp Quang Ban, động từ được định nghĩa cụ thể hơn là “những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình”. Ý nghĩa đó thể hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thực thể, được khái quát hóa trong mối liên hệ với vận động của thực thể trong thời gian và không gian. Động từ thường có các phụ từ đi kèm để biểu thị ý nghĩa quan hệ có tính tình thái giữa quá trình với cách thức và với các đặc trưng vận động của quá trình trong không gian và trong thời gian. Động từ có khả năng đảm nhận nhiều chức vụ ngữ pháp trong câu trong đó chức năng quan trọng nhất là làm vị ngữ giúp nó đối lập với danh từ [3;103-104] Đinh Văn Đức trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Viêt: từ loại I &II” [14;126-134] khi định nghĩa về động từ tiếng Việt, tác giả nhấn mạnh ý nghĩa vận động (ở bậc khái quát nhất) trong quan hệ với thực thể và thời gian của động từ. Tác giả cũng đề cập đến khả năng kết hợp của động từ với sự thể hiện cụ thể của nó là cấu trúc đoản ngữ với ý nghĩa là một cấu trúc tình thái. 8 Trong giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” (dành cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm) [39] động từ được định nghĩa tương tự như trong sách giáo khoa (SGK) lớp 6 nhưng được triển khai một cách sâu hơn và hệ thống hơn trên cả ba phương diện: ý nghĩa ngữ pháp, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp. Để phù hợp và thuận tiện cho sự triển khai của đề tài, luận văn của chúng tôi xin lấy định nghĩa trong giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” [39] làm cơ sở trong quá trình thực hiện đề tài của mình: động từ, về ý nghĩa ngữ pháp, là những từ có ý nghĩa ngữ pháp khái quát là chỉ hoạt động, trạng thái. Về khả năng kết hợp, chúng có khả năng kết hợp với các phó từ, đặc biệt là phó từ chỉ mệnh lệnh. Về chức vụ ngữ pháp, nó có thể đảm nhận nhiều chức vụ ngữ pháp khác nhau trong đó chức năng điển hình của nó là làm vị ngữ. [39;35] 1.1.2. Phân loại động từ Việc phân loại động từ trong tiếng Việt từ trước đến nay luôn gây nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu, chưa có một quan điểm thống nhất về việc phân loại động từ. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày một số quan điểm tiêu biểu về phân loại động từ tiếng Việt. Trước hết, về cách phân loại đơn giản nhất được trình bày trong chương trình phổ thông mà cụ thể là trong sách Ngữ văn 6 [5;146], động từ tiếng Việt được chia ra làm 2 loại: - Động từ tình thái (thường đòi hỏi các động từ khác đi kèm) - Động từ chỉ hoạt động, trạng thái (không đòi hỏi động từ khác đi kèm) + Động từ chỉ hoạt động ( trả lời cho câu hỏi làm gì?) + Động từ chỉ trạng thái ( trả lời cho câu hỏi làm sao? Thế nào?) Trong giáo trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Diệp Quang Ban- Hoàng Trung Thông [3;104-114] thì động từ lại được phân chia dựa theo tiêu chí về tính độc lập hay không độc lập của động từ, bao gồm: 9 - Động từ không độc lập: + Động từ tình thái với các ý nghĩa khái quát chỉ sự cần thiết; chỉ khả năng; chỉ ý chí; chỉ mong muốn; tiếp thụ; bình giá. + Động từ quan hệ với các ý nghĩa khái quát chỉ sự đồng nhất; tồn tại; sở hữu; biến hóa; diễn trình thời gian; diễn trình không gian; so sánh, đối chiếu. - Động từ độc lập: + Phân loại theo phụ từ đi kèm có động từ chỉ hành động và động từ chỉ trạng thái + Phân loại theo thực từ đi kèm có động từ chỉ hành động không đòi hỏi thực từ đi kèm và động từ chỉ hành động đòi hỏi thực từ đi kèm. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Đinh Văn Đức [14] tác giả không đưa ra tiêu chí cũng như phân loại cụ thể mà tập trung làm rõ một số vấn đề tồn tại khi nhận diện và phân loại của một vài tiểu loại động từ cơ bản trong tiếng Việt: động từ nội động và động từ ngoại động; động từ tình thái - ngữ pháp; động từ chuyển động; động từ tổng hợp. Trong giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt do Bùi Minh Toán chủ biên [39;36-42], các tác giả đưa ra hai tiêu chí phân loại động từ: dựa vào khả năng dùng độc lập trong câu và theo sự chi phối của các thành tố đi sau. Vì hai tiêu chí này đều có đặc điểm chung là đều căn cứ vào quan hệ giữa động từ với các thành tố phụ đi sau, nên các tác giả đã căn cứ vào cả hai tiêu chí này để phân chia động từ thành các loại như sau: - Các động từ thường không dùng độc lập làm thành phần câu mà phải dùng với một từ hoặc cụm từ đi sau, gồm có: + Động từ tình thái; + Động từ chỉ sự biến hóa; + Động từ chỉ diễn tiến của hoạt động; + Động từ quan hệ; 10 - Các động từ độc lập: có khả năng dùng một mình trong một chức năng cú pháp của câu: + Nội động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái tự thân, không tác động đến một đối tượng nào khác và không thể có thành tố phụ chỉ đối tượng chịu sự tác động. Nội động từ bao gồm các nhóm nhỏ sau: động từ chỉ tư thế; chỉ sự di chuyển; chỉ quá trình; chỉ trạng thái tâm lí, sinh lý; chỉ trạng thái tồn tại. + Ngoại động từ là những từ có chuyển đến tác động đến một đối tượng nào đó và thường đòi hỏi có thành tố chỉ đối tượng chịu sự tác động. Ngoại động từ được chia thành các nhóm nhỏ sau: động từ tác động; động từ chỉ sự di chuyển đối tượng trong không gian; các động từ chỉ sự phát nhận; động từ chỉ sự kết nối các đối tượng; động từ chỉ hoạt động sai khiến, cầu khiến; động từ chỉ hoạt động đánh giá giữa các đối tượng và các động từ chỉ hoạt động cảm giác, tri giác, nhận thức, nói năng. Tuy nhiên, do sự phức tạp của động từ nên sự phân loại động từ chỉ mang tính chất tương đối và tiêu biểu, vẫn còn những sự trùng lặp nhất định của một vài động từ ở trong một vài tiểu nhóm khác nhau. Để phù hợp với đối tượng khảo sát là học sinh THCS, chúng tôi bám sát cách phân loại trong “Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt” [39] đã nêu ở trên trong quá trình khảo sát và phân tích lỗi sử dụng động từ của học sinh . 1.1.3. Vai trò của động từ trong giao tiếp Trong ngôn ngữ cũng như trong giao tiếp, động từ có vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò của động từ được Nguyễn Kim Thản khẳng định trong cuốn Động từ tiếng Việt [35;7]: “động từ là một loại từ phức tạp nhất, chiếm địa vị quan trọng hàng đầu trong hệ thống các loại từ của ngôn ngữ”. Nó được thể hiện trên các phương diện sau: Thứ nhất, về số lượng, nó chiếm một số lượng lớn trong hệ thống từ loại của một ngôn ngữ, chỉ đứng sau danh từ. 11 Thứ hai, về tần suất xuất hiện trong câu chiếm tỉ lệ lớn, theo thống kê của Nguyễn Kim Thản [35;7] thì số câu có vị ngữ là động từ chiếm 88%, là tính từ chiếm 4% và danh từ là 8%. Ngoài ra động từ còn xuất hiện với nhiều chức năng khác trong câu. Thứ ba, về quan hệ với các thành tố khác trong câu, động từ đóng vai trò là trung tâm của các mối quan hệ giữa chủ thể với các yếu tố khác như đối tượng, hoàn cảnh, thời gian Như vậy, có thể thấy vai trò quan trọng của động từ trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Chính vì thế, việc học tập và rèn luyện động từ trong chương trình phổ thông là một việc thực sự cần thiết. 1.1.4. Một vài đặc trưng khác của động từ tiếng Việt Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính với những đặc trưng tiêu biểu mang tính loại hình khu biệt với các loại hình ngôn ngữ khác trên thế giới. Những đặc trưng này chi phối các thành tố khác nhau trong hệ thống ngôn ngữ của tiếng Việt trong đó có động từ. Một trong các biểu hiện mang tính loại hinh của động từ là các phạm trù ngữ pháp liên quan: thời; dạng. 1.1.4.1. Phạm trù thời Phạm trù thời là khái niệm dùng để chỉ sự định vị các sự kiện trên dòng thời gian trong đó có một sự kiện (thường là tại thời điểm nói) được lấy làm chuẩn. Phạm trù thời thường được thể hiện bằng các phương thức khác nhau trong các loại hình khác nhau. Ở các ngôn ngữ biến hình, thời thường được thể hiện thông qua sự biến đổi dạng thức của động từ. Còn trong tiếng Việt, động từ không biến đổi dạng thức để thể hiện ý nghĩa thời mà thể hiện thông qua các phụ từ đi kèm với động từ. Chính vì thế mà động từ tiếng Việt được coi là không có phạm trù thời theo đúng nghĩa của nó. Các phụ từ có khả năng thể hiện ý nghĩa thời trong tiếng Việt là: đã, đang, sẽ, từng, còn, chưa, vừa, mới. Tuy nhiên, vì yếu tố biểu thị ý nghĩa thời này tồn tại với tư cách là một từ chứ không phải chỉ là một biến tố, nên bên 12 cạnh khả năng biểu thị ý nghĩa thời thì chúng còn có thể biểu thị ý nghĩa từ loại riêng của nó mà ở đây thiên về ý nghĩa tình thái. Trong một số trường hợp, tùy thuộc vào mục đích và ngữ cảnh phát ngôn mà ý nghĩa thời có thể mất đi thay vào đó là ý nghĩa tính thái. 1.1.4.2. Phạm trù dạng Phạm trù dạng là sự biểu thị mối quan hệ giữa chủ thể và hành động thông qua các dạng thức khác nhau của động từ mà thông qua đó ta xác định được chủ ngữ ngữ pháp là tác nhân gây ra hành động hay là đối tượng chịu sự tác động của chính hành động đó. Trong một ngôn ngữ thường phân biệt hai dạng của động từ: dạng chủ động (chủ ngữ là tác nhân) và dạng bị động (chủ ngữ là đối tượng). Tiếng Việt là ngôn ngữ không biến hình nên không tồn tại các dạng thức khác nhau của động từ mà theo Đinh Văn Đức [14;168] “tiếng Việt không có phạm trù dạng” mà chỉ có “ý nghĩa tiếp thụ”. Ý nghĩa tiếp thụ của động từ được thể hiện bằng phương tiện hư từ thông qua các từ: bị, được, phải. Vì là một hư từ, nên những từ biểu thị ý nghĩa tiếp thụ cũng có khả năng biểu thị ý nghĩa tình thái, và trong nhiều trường hợp ý nghĩa tình thái có khả năng lấn át ý nghĩa tiếp thụ. Trên đây, luận văn chúng tôi vừa trình bày một số nội dung lý thuyết liên quan đến động từ tiếng Việt. Đây chính là cơ sở để chúng tôi triển khai những nghiên cứu tiếp theo về đối tượng của mình. 1.2. Một số vấn đề về “lỗi” ngôn ngữ 1.2.1. Khái niệm “lỗi” ngôn ngữ Nghiên cứu lỗi ngôn ngữ xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX, nhưng phải đến khi lý thuyết thụ đắc ngôn ngữ của Chomsky ra đời thì việc nghiên cứu lỗi ngôn ngữ mới có một bước phát triển mới. Khái niệm lỗi ngôn ngữ cũng được các nhà ngôn ngữ học đưa ra trong nghiên cứu về dạy ngoại ngữ. S.P. Corder định nghĩa lỗi“là kết quả của sự thể hiện không thành 13 côngLỗi không phải là một vấn đề phải vượt qua hay là những cái gì sai trái, hay là điều đáng xấu hổ phải xóa bỏ. Thực ra, lỗi là một phần của việc học và qua lỗi có thể phát hiện ra những chiến lược mà người học đã sử dụng để học một ngoại ngữ. Lỗi cung cấp cho chúng ta những sự hiểu biết, những cái nhìn giá trị, những kinh nghiệm quý báu về quá rình học một ngoại ngữ” [dẫn theo 22; 7] Trong Từ điển ngôn ngữ học ứng dụng của Nhà xuất bản Longman năm 1985 định nghĩa về lỗi như sau: “Lỗi của người học (trong khi nói hoặc viết một ngôn ngữ thứ hai hay ngoại ngữ) là hiện tượng sử dụng một đơn vị ngôn ngữ (chẳng hạn một từ, một đơn vị ngữ pháp, một hoạt động nói năng) bằng cách mà người bản ngữ hoặc người giỏi thứ tiếng đó cho là sai hoặc là chưa đầy đủ” [dẫn theo 22;8] Còn theo Hendrickson lỗi “là một phát ngôn, một hình thức biểu đạt hoặc là một kết cấu mà một giáo viên ngôn ngữ đặc biệt thấy rằng không thể chấp nhận được bởi vì cách sử dụng không hợp lí của chúng hoặc là sự vắng mặt của chúng trong các diễn ngôn đời thường” [dẫn theo 22;8]. Trong luận văn của mình, chúng tôi bám sát vào định nghĩa của Hendrickson làm cơ sở để nhận diện và phân tích lỗi. Một điểm khác mà các nhà ngôn ngữ học ứng dụng cũng lưu ý chúng ta khi nói về khái niệm lỗi ngôn ngữ là chỉ ra sự khác nhau của hai khái niệm "lỗi" (error) và "lầm" (mistake). Theo các nhà ngôn ngữ học này thì “lỗi” xuất hiện do tri thức về ngôn ngữ đích (ngôn ngữ được học) còn hạn chế và mang tính thường xuyên tạo thành hệ thống trong khi “lầm” xuất hiện do những yếu tố tâm sinh lý như mệt mỏi, lơ đãng, nói nhịu... và có tính ngẫu nhiên, không thường xuyên và không tạo thành hệ thống [dẫn theo 27;13]. Trong luận văn của mình, do sự chi phối của phạm vi khảo sát cũng như phương thức khảo sát mà chúng tôi thực hiện nên chúng tôi không thể đưa ra một sự phân định cụ thể cho những cứ liệu mà chúng tôi đưa ra là lỗi hay lầm. Chính vì vậy, trong quá trình mô tả lại kết quả khảo sát chúng tôi sẽ 14 sử dụng thuật ngữ lỗi ngôn ngữ cho toàn bộ những hiện tượng ngôn ngữ mà chúng tôi dẫn ra. 1.2.2. Quan điểm về phân tích lỗi Như đã nói ở trên, nghiên cứu về lỗi ngôn ngữ xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX và trải qua nhiều giai đoạn phán triển với những khuynh hướng khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin khái quát ba lý thuyết cơ bản trong lịch sử nghiên cứu lỗi ngôn ngữ. 1.2.2.1. Thuyết hành vi Thuyết hành vi hình thành và phát triển với những cái tên tiêu biểu như Watson, Skinner. Lý thuyết hành vi gắn liền với hai khái niệm thói quen và lỗi. Khái niệm thói quen theo các nhà nghiên cứu ở trường phái này xuất hiện trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ của con người cả khi học tiếng mẹ đẻ và khi học ngôn ngữ thữ hai. Thói quen hình thành khi có một kích thích dẫn đến một phản ứng thông qua bắt chước và phản xạ. Lỗi trong thuyết hành vi là hệ quả của những chuyển di tiêu cực trong quá trình giao thoa giữa thói quen ngôn ngữ cũ và thói quen ngôn ngữ mới. Thuyết hành vi cho rằng, lỗi là một hiện tượng không chấp nhận được. Tuy nhiên, nó đã bị loại bỏ triệt để bằng những quan điểm khác nhau do N. Chomsky đưa ra. Ông cho rằng con người chắc chắn phải có một loại khả năng bẩm sinh nhất định có thể hướng dẫn các khả năng tạo câu và giúp cho một đứa trẻ có khả năng thụ đắc ngữ pháp của một ngôn ngữ cho đến khi chúng 5 hoặc 6 tuổi. Và ông gọi khả năng này là “ngữ pháp phổ quát” và cho rằng đây chính là khả năng của con người mà ngôn ngữ học nhằm mục đích theo đuổi [dẫn theo 22;10] 1.2.2.2. Khuynh hướng phân tích đối chiếu Khuynh hướng phân tích đối chiếu ra đời vào những năm 40 và kéo dài đến những năm 60 của thế kỷ XX với những cái tên như C. Fries, R.Lado Khuynh hướng này có một số những đặc trưng sau: 15 Thứ nhất, khuynh hướng này dựa trên quan điểm của lý thuyết hành vi coi việc thụ đắc ngôn ngữ là hình thành một thói quen. Thư hai, khuynh hướng này cũng giống như lý thuyết hành vi cho rằng lỗi xuất hiện do chuyển di tiêu cực của quá trình giao thoa hai ngôn ngữ mà không có những nguyên nhân khác. Thứ ba, khuynh hướng này cũng cho rằng lỗi là sự thể hiện không thành công và cần phải loại trừ. Thứ tư, khuynh hướng này so sánh hai hệ thống ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ hai) để tìm ra những điểm khác nhau nhằm tiên đoán và ngăn chặn lỗi. 1.2.2.3. Khuynh hướng phân tích lỗi Khuynh hướng phân tích lỗi ra đời vào cuối những năm 60 với những cái tên tiêu biểu S.P. Corder, Selinker, William Nemser, E.Tarone Khuynh hướng phân tích lỗi đi vào nghiên cứu và phân tích các lỗi do người học ngôn ngữ gây ra hay là quá trình xác định sự tác động, bản chất và nguyên nhân cũng như kết quả của việc học ngôn ngữ không hiệu quả. Khuynh hướng phân tích lỗi cho rằng lỗi là cái gì đó “không thể thiếu được” vì mắc lỗi có thể được coi là một cách thức mà người học dùng thụ đắc ngôn ngữ đặc biệt là trong quá trình học ngôn ngữ thứ hai. Khuynh hướng phân tích lỗi được S. P. Corder khái quát thành ba giai đoạn: nhận diện lỗi; miêu tả lỗi; giải thích lỗi. Nhận diện lỗi là việc người dạy đặt giả định rằng tất cả các câu của người học đều có thể sai sau đó xác minh giả định đó là đúng hay sai. Ở giai đoạn này, chúng ta có ba loại lỗi: lỗi trước hệ thống; lỗi sau hệ thống; lỗi hệ thống. Trong giai đoạn miêu tả lỗi giáo viên cần chỉ cho người học thấy được những lỗi mà họ đã mắc phải thông qua so sánh hai câu sai và đúng đã tạo dựng được ở giai đoan một. 16 Giải thích lỗi có thể thực hiện theo hai cách: theo lý thuyết hành vi coi đó là những chuyển di tiêu cực của tiếng mẹ đẻ hoặc coi nó là một bộ phận tất yếu của quá trình tri nhận ngôn ngữ. Theo khuynh hướng phân tích lỗi, có hai cách phân loại: - Phân loại lỗi dựa vào nguồn gốc có lỗi giao thoa và lỗi tự ngữ đích. - Phân loại lỗi dựa vào các đơn vị ngữ pháp: cách thức tiến hành là đi miêu tả ngữ pháp của các lỗi. Đây là cách phân loại mà các công trình thực nghiệm về phân tích lỗi thường tiến hành. Luận văn của chúng tôi cũng triển khai theo hướng phân loại lỗi này. Nguyên nhân mắc lỗi theo khuynh hướng phân tích lỗi xuất phát từ chiến lược của người học bao gồm chiến lược học và chiến lược giao tiếp. Chiến lược học bao gồm chuyển di và vượt tuyến. Chuyển di là chiến lược mà người học vận dụng những tri thức của tiếng mẹ đẻ vào để học ngôn ngữ đích. Vượt tuyến là việc người học sử dụng những tri thức đã có hoặc tri thức suy đoán trong quá trình tri nhận ngôn ngữ để phát triển năng lực ngôn ngữ của mình dẫn đến vượt ra khỏi phạm vi của ngôn ngữ Trên đây là một vài khái quát về các khuynh hướng nghiên cứu lỗi ngôn ngữ. Trong đó, chúng tôi nghiêng về những giả thuyết của khuynh hướng phân tích lỗi và coi đây là cơ sở lý thuyết trong quá trình thực hiện đề tài luận văn. 1.2.3. Lỗi dùng từ trong tiếng Việt Vận dụng một cách linh hoạt định nghĩa về lỗi nêu ở phần trên, theo mục đích của luận văn là khảo sát lỗi sử dụng động từ của học sinh THCS chúng tôi sử dụng khái niệm có tính chất làm việc như sau: lỗi sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt có thể hiểu là việc sử dụng một đơn vị từ ngữ nào đó mà giáo viên dạy tiếng Việt cho là sai hoặc chưa hợp lý trên một phương diện nào đó. Trong giáo trình Tiếng Việt thực hành [1;188-198], các tác giả đã đưa ra một số yêu cầu đối với việc sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt như sau: 17 - Dùng từ đúng âm thanh và hình thức cấu tạo - Dùng từ phải đúng về nghĩa - Dùng từ phải đúng về quan hệ kết hợp - Dùng từ phải đúng với phong cách ngôn ngữ của văn bản - Dùng từ phải đảm bảo tính hệ thống của văn bản - Dùng từ phải tránh hiện tượng lặp, thừa từ không cần thiết và bệnh sáo rỗng công thức. Trên cơ sở đó, các tác giả cũng đã khái quát thành 4 loại lỗi dùng từ chủ yếu: - Lỗi về âm thanh và hình thức cấu tạo của từ - Lỗi về nghĩa của từ - Lỗi về kết hợp từ - Lỗi về phong cách Luận văn của chúng tôi, trong quá trình khảo sát và mô tả lỗi sử dụng động từ của học sinh cũng bám sát vào cách phân loại này để tiến hành mô tả thực trạng lỗi sử dụng động từ của học sinh. 1.2.4. Lỗi sử dụng động từ trong tiếng Việt Như đã trình bày ở trên, khi tiến hành khảo sát lỗi sử dụng động từ trong tiếng Việt của học sinh trường THCS Thạch Hòa, chúng tôi cũng phân loại dựa trên bốn nhóm lỗi chính: về ngữ âm (chính tả); về ý nghĩa; về kết hợp và về phong cách. Trên cơ sở đó đi sâu vào xác định những nhóm lỗi phổ biến mà học sinh mắc phải và làm nổi bật từng nhóm lỗi cụ thể với những đặc trưng điển hình của nó. - Lỗi về ngữ âm (chính tả) : ở đây chúng tôi xác định chủ yếu là những lỗi thuần về mặt ngữ âm của động từ. - Lỗi về ngữ nghĩa thể hiện trên các phương diện sau: + Sử dụng động từ sai về nghĩa + Sử dụng động từ có nghĩa biểu thái, biểu cảm không phù hợp với văn cảnh. 18 + Sử dụng động từ sai về mặt ngữ âm dẫn đến sai về ý nghĩa - Lỗi về kết hợp: + Kết hợp không đúng bản chất ngữ pháp của động từ + Kết hợp không đúng quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004704_1_4332_2002792.pdf
Tài liệu liên quan