Nhận định về tình hình lạm phát ở Việt Nam trong tương lai

Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội

doc48 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhận định về tình hình lạm phát ở Việt Nam trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thực, thực phẩm giảm. Biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm, cung không đủ cầu, đẩy giá Toàn cảnh trận lũ tháng 10-2007 cả hàng hoá tăng lên. Tiêu hủy heo dịch tại Thanh Hóa. Cụ thể về dịch bệnh heo tai xanh thì tỉnh Thanh Hóa là tỉnh bị thiệt hại nặng nhất; theo số liệu thống kê, đến ngày 27-4-2008, dịch đã lan ra 473 phường, xã của 26 huyện, thị xã của tỉnh, với số lượng lợn nhiễm bệnh lên tới hơn 185 nghìn con, chiếm hơn 13% tổng đàn lợn của tỉnh (1,4 triệu con). Tính riêng trong đợt rét đậm, rét hại đầu năm 2008, có khoảng 200 nghìn ha lúa, 18 nghìn ha mạ, 35 nghìn ha rau màu bị hỏng hoàn toàn, 180 nghìn trâu, bò bị chết rét,... Tổng thiệt hại ước tính khoảng 1 nghìn tỷ đồng. 3.3. Những yếu kém trong quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng, nhất là việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, kém hiệu quả, để nhiều ngân hàng cổ phần tăng dư nợ tín dụng quá cao và sử dụng tỷ lệ lớn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, cho vay kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản, gây khó khăn cho việc quản lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành tỷ giá, nhất là tỷ giá đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ chưa thật linh hoạt, phù hợp. Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường (trong đó có thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản) và quản lý giá cả, quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập, yếu kém; chậm đề ra các chính sách thích hợp, có hiệu quả để quản lý và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các hoạt động này. Việc kiên trì thực hiện giá cả theo cơ chế thị trường là chủ trương đúng đắn và cần thiết, nhưng trong điều hành, có lúc, có việc chưa thật hợp lý. Các giải pháp chống đầu cơ, buôn lậu hiệu quả chưa cao. Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý điều hành. Đến những tháng cuối năm 2007, trong khí thế lạc quan chung về những thành tựu đạt được, vẫn nhìn nhận nhiều về thời cơ, thuận lợi, chưa phân tích dự báo được hết những khó khăn thách thức mới. IV. CÁC BIỆP PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT. 4.1. Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Để thực hiện mục tiêu lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại (NHTM) phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt tiền tệ của ngân hàng nhà nước (NHNN). - Thứ nhất, quyết định tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các NHTM phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho NHNN. - Thứ hai, ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNH bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400-500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ như vậy, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. - Thứ ba, từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo cuan NHNH tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. - Thứ tư, NHNH ban hành quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây, từ việc khống chế 3% tổng dư nợ tín dụng sang khống chế 15-20% vốn điều lệ. 4.2. Cắt giảm đầu tư công :  Chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư. Chính phủ chủ trương trong tình hình hiện nay, chúng ta phải giảm chi tiêu công, trong đó có chi dùng thường xuyên. Chi thường xuyên gồm: chi hành chính sự nghiệp, chi tiếp khách, chi mừng sự kiện này kia..Vì vậy các bộ ngành, địa phương phải chủ động rà soát danh mục dự án để cắt giảm hoặc tạm dừng đầu tư. Theo đó, những công trình chưa cấp thiết thì dừng lại chưa triển khai, những công trình đang triển khai dở dang, hiệu quả cao thì ưu tiên dồn vốn để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Trong thời gian qua, tổng dư nợ tín dụng cho đầu tư tăng trưởng quá lớn. Thông thường, tiền lệ tăng trưởng dư nợ nói trên chỉ nằm trong khoảng từ 26 - 30% nhưng năm 2007, đã tăng ở mức 53,88%! Trong quý 1/2008, Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp giảm tổng dư nợ tín dụng nhưng vẫn tăng 10,8%, trong khi bình thường như quý 2/2007 chỉ tăng 5,04%. Vì thế, Chính phủ yêu cầu khu vực đầu tư công có liên quan đến nguồn vốn Nhà nước, phải rà soát và xem lại, nhất là đối với đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90 – 91.   Công khai danh mục cắt giảm vốn: Ví dụ, Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Tổng công ty cà phê Việt Nam đều thống nhất đề xuất dừng 11 dự án trong danh mục đầu tư hai năm 2007-2008 của đơn vị này, trong đó có nhiều dự án về hồ chứa nước, công trình thủy lợi hay đường giao thông liên vùng ở tỉnh Đắc Lắc. Bảy dự án khác đã và đang đợi phê duyệt đầu tư của Tổng công ty cao su Việt Nam được chính nơi này đề nghị cắt hoặc tạm dừng cũng nhanh chóng được Bộ Kế hoạch - Đầu tư nhất trí đưa vào danh mục cắt giảm. Những số liệu ban đầu cho thấy, với 451 dự án của 15 bộ,ngành, 15 địa phương, 12 tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90, 91 (tính đến ngày 3-4) đã tạm tính được con số 2.692 tỉ đồng vốn nhà nước chưa phải bố trí ngay trong năm 2008 cho danh mục này. Thực tế, con số tạm tính trên mới chỉ từ 1/5 số đơn vị cần thống kê danh mục cắt giảm hoặc đình hoãn đầu tư từ 70 tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90, 91. Đó cũng chỉ là danh sách sơ bộ từ 15/64 tỉnh thành trong cả nước và các bộ, ngành. Cho đến khi tập hợp được đầy đủ, số vốn tạm ngừng chảy từ nguồn ngân sách, trái phiếu chính phủ và tín dụng nhà nước chắc chắn sẽ còn nhiều hơn. Trong danh mục các dự án có khả năng đình hoãn trong năm 2008, có cả các dự án từ trước được đánh giá là thuộc diện nhạy cảm. Chẳng hạn, Nhà Quốc hội (tổng mức vốn đầu tư dự kiến là 3.000 tỉ đồng), các công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long (cắt giảm 25.000 tỉ đồng) v.v. Theo lời Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc, tiêu chí cắt giảm các dự án đầu tư công đầu tiên dựa trên quy mô nguồn vốn và thủ tục đầu tư. Về chuyện tổng mức đầu tư, nguồn ngân sách nhà nước sẽ từ chối những dự án thực hiện trong thời gian dài nhưng khối lượng thực hiện không nhiều, các dự án có nguồn vốn không khả thi, dự án chưa rõ nguồn vốn cân đối các năm sau và không ứng vốn năm 2009 cho các dự án triển khai năm 2008 trừ các trường hợp thật cấp bách. Nguồn trái phiếu chính phủ cũng chỉ bố trí vốn cho các dự án đầu tư kiên cố hóa trường lớp và trung tâm y tế cấp huyện nếu chuẩn bị được đầy đủ thủ tục đầu tư theo đúng thời gian và quy chế. Nguồn vốn tín dụng nhà nước qua ngân hàng phát triển sẽ rà soát tính cấp bách của dự án, khả năng huy động các nguồn vốn (nhất là các dự án hợp vốn). Nếu chưa nhìn thấy các nguồn vốn tham gia hoặc những dự án xét thấy không có khả năng trả nợ sẽ không còn tồn tại trong danh mục cân nhắc nữa. Nguồn vốn đầu tư thuộc các doanh nghiệp nhà nước sẽ được đặc biệt chú trọng kiểm soát các trường hợp dự án sử dụng nguồn vốn không đúng quy trình về thủ tục đầu tư và các quy định về sử dụng ngân sách, nhất là các dự án đầu tư ngoài lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, chứng khoán, bất động sản. 4.3. Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh dể tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi VN đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. 4.4. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón..., giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kềm giữ giá cả. Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xóa bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dù giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng sáu, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá ximăng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân... Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ qui định lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quí 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo. Trong điều kiện đồng đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỉ giá hối đoái giữa đồng tiền VN và đồng đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỉ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2007 và tăng cao hơn trong quí 1 năm nay, đã đe dọa đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu VN đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. 4.5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội. 4.6. Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, ximăng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm...; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả. 4.7. Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội. Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 1-1-2008. Chính phủ cũng qui định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động VN làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại VN, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của VN có thuê mướn lao động. Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu qui định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hỏa/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới; điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000 đồng/người/năm lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới tàu đánh bắt hải sản, tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản; hỗ trợ ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản. Chính phủ đã quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay ưu đãi để học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng. V. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT. 5.1. Hệ quả của chính sách thắt chặt tiền tệ. Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế Việt Nam phải trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát.Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn...đã được tiến hành.  Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng lạm phát cao và đứng trước nguy cơ suy thoái toàn cầu, ngân hàng trung ương nhiều nước phải đứng giữa lựa chọn khó khăn là tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích kinh tế, NHNN đã lựa chọn quan điểm thắt chặt tiền tệ. Nhìn vào động thái của các nước trên thế giới về chính sách lãi suất và rộng hơn là chính sách tiền tệ, chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam đang đi theo hướng đi của những nước đang có tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định như Hàn Quốc, Trung Quốc và Úc là ưu tiên chống lạm phát chứ không đi theo con đường cắt giảm lãi suất của Mỹ hay vài nước ASEAN khác như Thái Lan, Phillipines và Indonesia là chấp nhận lạm phát để chống suy thoái. Nguyên nhân NHNN quyết liệt chống lạm phát cũng không khó hiểu. Từ năm ngoái, áp lực từ phía dư luận về vấn đề lạm phát đã không nhỏ, và nhiều ý kiến đã đề nghị hy sinh tăng trưởng chống lạm phát. Mặt khác, trong các tháng đầu năm, tỷ lệ lạm phát đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,38% trong tháng 1; đồng thời hậu quả của các đợt rét đậm ở miền Bắc và dịch cúm gia cầm bùng phát đang tạo áp lực tăng giá không nhỏ trong các tháng tiếp theo. Như vậy, chống lạm phát bằng mọi giá gần như là mục tiêu mà Chính phủ đang ưu tiên nhất. Và đã mang lại những hê quả đáng kể. 5.1.1. Thắt chặt tiền tệ sẽ tiếp thêm năng lượng cho “cuộc đua tăng lãi suất”. Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy, quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá.  Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm.  5.1.2. Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm. Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Âu và các người khổng lồ mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo hướng giảm đi, chúng ta dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định thắt chặt tiền tệ, như đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã bị điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng trưởng Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây cũng là vấn đề xã hội không nhỏ.  5.1.3. Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp. Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm 2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là NHNN đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng của thị trường này trong năm nay. Với một thị trường được xây dựng trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị trường Việt Nam hấp dẫn nữa.  5.1.4. Thắt chặt tiền tệ “Bi kịch và nghịch lý”. Chúng ta đang thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát. Điều đó đồng nghĩa với việc lãi suất (LS) sẽ tăng lên. Đến lượt nó, LS sẽ là người lựa chọn những dự án hay phương án kinh doanh nào chịu nổi nó thì tồn tại, nếu không phải chấp nhận phá sản. Thế nhưng chính những người thắt chặt chính sách tiền tệ lại đồng thời cũng mong muốn có được LS thấp để hỗ trợ các doanh nghiệp. Đó là sự thiếu nhất quán thứ nhất. Sự thiếu nhất quán thứ hai mới thật sự đáng lo ngại, đó là thắt chặt tiền tệ khiến thanh khoản của các ngân hàng (NH) gặp khó khăn, nhưng họ không được phép tăng LS huy động vốn, cũng không được thực hiện tái cấp vốn tại NH Nhà nước. Nghịch lý này càng làm trầm trọng thêm, bởi cái gọi là đồng thuận LS mà Hiệp hội NH đưa ra vì các NH nhỏ không thể huy động được vốn nhàn rỗi của dân cư, phải chuyển sang mua lại vốn của các NH lớn trên thị trường liên NH với LS lên đến 18-24%/năm. Các NH lớn lại có cơ hội kiếm lợi từ việc huy động vốn rẻ trên thị trường tiền gửi và cho vay cao trên thị trường liên NH. Có thể coi đây là một bi kịch của chính sách tiền tệ. Nói đúng hơn là sự thất bại, bởi vì với chính sách như vậy thì hiệu ứng chống lạm phát từ việc phải loại bỏ những dự án có hiệu quả thấp không còn nữa, thay vào đó là sự thiếu hụt thanh khoản trầm trọng của các NH, đặc biệt là các NH nhỏ. Nghịch lý thứ ba là chúng ta đang trong quá trình thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế. Điều đó có nghĩa là cần phải tiếp tục cải cách thể chế kinh tế theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thế nhưng vào chính lúc nền kinh tế mạnh nhất, vốn nước ngoài vào nhiều nhất thì khó khăn ập tới không phải từ bên ngoài mà chính là khu vực hoạch định chính sách, đặc biệt là chính sách đầu tư công và chính sách tiền tệ. Hóa ra thách thức lớn nhất của hội nhập kinh tế lại không phải ở năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp (DN), vì một năm qua các DN vẫn phát triển mà là năng lực quản lý kinh tế vĩ mô, hoạch định chính sách tiền tệ và tài khóa còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hội nhập. Điều mà nhiều DN đang lo ngại là không phải vì họ không đủ bản lĩnh, kinh nghiệm và năng lực quản trị để cạnh tranh quốc tế, mà chính là chính sách nhà nước đẩy họ vào chỗ bất lợi trong cuộc cạnh tranh đó. Những dấu hiệu của đầu năm 2008 cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng chuyển sang các dự án bất động sản, đầu tư gián tiếp nước ngoài có xu hướng chuyển sang tận dụng chênh lệch LS của trái phiếu Chính phủ. Nếu tình hình này kéo dài, không chỉ các DN vừa và nhỏ của VN bị thua thiệt, mà ngay cả các tập đoàn lớn và các dự án bất động sản tầm cỡ cuối cùng rơi vào tay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhận định về tình hình lạm phát ở việt nam trong tương lai.doc
Tài liệu liên quan