Suy thoái kinh tế toàn cầu có tác động đáng kể đến xuất nhập khẩu của Việt Nam,
kênh truyền dẫn tác động của suy thoái chính là xuất khẩu với tổng giá trị xuất khẩu hàng
năm tương đương 60% GDP. Trong năm 2009, giá trị xuất khẩu của Việt Nam giảm 9,7%,
sự sụt giảm này tuy thấp so với hầu hết các quốc gia đang phát triển khác, song đã làm cho
năm 2009 trở thành năm đầu tiên có tăng trưởng xuất khẩu âm kể từ khi Việt Nam bắt đầu
cải cách kinh tế. Giá trị nhập khẩu cũng giảm 14,7% phản ánh mức cầu nội địa đối với các
hàng hoá nhập khẩu suy giảm.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những diễn biến mới của kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng tác động đến kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường tài chính thế giới vẫn ảm đạm : thị trường chứng khoán sụt
giảm, thị trường bất động sản không khởi sắc và thiếu tính thanh khoản, thị trường tiền tệ
ngân hàng vẫn còn trong giai đoạn chờ đợi phục hồi.
- Thứ hai : Phòng chống rủi ro đỗ vỡ thanh khoản toàn hệ thống tài chính, đặc
biệt là đổ vỡ khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn
Việc hỗ trợ của Chính phủ đối phó với khủng hoảng nợ cho vay thế chấp dưới tiêu
chuẩn đã được thực thi thông qua nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của
9
các tổ chức tài chính và ngân hàng như quốc hữu hoá ngân hàng, khuyến khích sáp nhập
ngân hàng, mua lại các khoản nợ của các ngân hàng có vấn đề hoặc bị phá sản,…
Biện pháp này đã và đang phát huy tác dụng về mặt ngăn ngừa tác động ảnh hưởng
đổ vỡ hệ thống tài chính. Thế nhưng chi phí cho gói giải pháp này vẫn đang tiếp tục tăng
lên và chưa có dấu hiệu kết thúc, điển hình là danh sách ngân hàng và các tổ chức tài chính
cần được hỗ trợ không ngừng tăng lên và mức độ bơm tiền của Chính phủ vào hệ thống tài
chính lại tuỳ thuộc vào khả năng của từng Chính phủ khi thi hành biện pháp này.
- Thứ ba : Khủng hoảng tín dụng lan sang khủng hoảng tài chính và khủng
hoảng kinh tế
Một thực tế cho thấy việc ứng phó khủng hoảng trong thời gian qua của Chính phủ
đã không lường hết tính liên thông thị trường của hệ thống tài chính. Khủng hoảng cho vay
cầm cố dưới chuẩn làm năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng và các quỹ đầu tư bất
động sản trở nên yếu kém. Các tổ chức tài chính và ngân hàng liên tiếp tuyên bố lỗ và trông
chờ ứng cứu của Chính phủ hoặc phải sáp. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan nhanh sang các
nước khác và ảnh hưởng của nó không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên cả thế giới với
nhiều mức tác động khác nhau tuỳ theo tình hình cụ thể của từng quốc gia.
- Thứ tư : Hiệu ứng của khủng hoảng kinh tế tài chính và vấn đề an sinh xã hội
Khủng hoảng kinh tế tài chính đã tác động không nhỏ đến vấn đề an sinh xã hội như
làm cho thất nghiệp gia tăng, thu nhập của dân cư giảm và đầu tư hạn chế. Vấn đề này đã
khiến cho Chính phủ các nước ngoài việc thực thi các biện pháp ứng phó khủng hoảng còn
phải chi thêm tiền cho các tác động ảnh hưởng của khủng hoảng, cụ thể :
- Ứng cứu ngân hàng và các tổ chức tài chính còn phải tăng thêm chi phí cho bảo
hiểm xã hội, hỗ trợ những người bị thất nghiệp.
- Hỗ trợ thanh khoản cho các khoản nợ dưới tiêu chuẩn ngoài việc tăng tính thanh
khoản và tăng năng lực tài chính cho ngân hàng, còn là việc giãn nợ cho người dân đang nợ
tiền ngân hàng để mua nhà nhưng không trả được nợ, góp phần hạn chế sự tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính lên nhóm đối tượng đang gặp khó khăn này.
- Tăng cường chi tiêu cho hoạt động tái dạy nghề cho những người bị thất nghiệp
nhằm giúp họ chuyển hướng nghề nghiệp mới trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thất nghiệp
gia tăng.
(2). Dự báo diễn biến, mức độ ảnh hưởng lan toả tiếp theo trong thời gian tới.
Hệ thống tài chính đã ổn định, nhưng những căng thẳng mà tình hình tài khoá, cải
cách và việc từ bỏ chính sách hỗ trợ gây ra vẫn còn ở phía trước. Những rủi ro hệ thống tiếp
tục giảm đi nhờ các nền tảng kinh tế đã được cải thiện và hỗ trợ chính sách công lớn vẫn
đang thực hiện. Cho dù có những cải thiện thì sự ổn định tài chính vẫn còn rất mong manh
tại nhiều nước đã phát triển và một số các nước thị trường mới nổi chịu tác động mạnh của
10
khủng hoảng. Ưu tiên hàng đầu là cải thiện sức khoẻ của các hệ thống ngân hàng này để
đảm bảo là kênh tín dụng hoạt động bình thường trở lại. Việc chuyển các rủi ro tài chính
sang các bảng cân đối của chính phủ và các mức nợ công cao hơn cũng bổ sung thêm vào
những rủi ro ổn định tài chính và làm phức tạp quá trình từ bỏ các hỗ trợ kinh tế.
Về tổng thể, việc rời bỏ các biện pháp hỗ trợ chưa từng có tiền lệ được thực hiện
trong thời gian khủng hoảng để sang một hệ thống tài chính an toàn hơn là cần thiết nhằm
hỗ trợ cho sự tăng trưởng bền vững. Đạt được sự cân bằng giữa tính an toàn và tính năng
động sẽ không phải là chuyện dễ dàng. Điều này đòi hỏi phải có sự chú ý đặc biệt từ phía
các nhà hoạch định chính sách. Các nhà hoạch định chính sách cũng nên tránh các rủi ro
gắn với việc triển khai quá nhanh quy định điều tiết mới mà không có các nghiên cứu thích
đáng xem liệu ảnh hưởng chung của chúng thế nào. Để cải cách chính sách thành công, các
quy định an toàn vĩ mô và vi mô sẽ phải bổ sung cho nhau và giúp giảm thiểu có hiệu quả
các rủi ro hệ thống. Chỉ khi đó hệ thống tài chính có thể thực hiện được tốt chức năng của
nó - trung gian các luồng vốn giữa bên tiết kiệm và bên đi vay theo các cách giúp cải thiện
sự tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định tài chính.
II. Đánh giá tổng quan tác động của kinh tế thế giới đến kinh tế Việt nam
1. Tác động của kinh tế thế giới và yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế của Việt
nam
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới không tránh khỏi sự ảnh hưởng từ
diễn biến kinh tế toàn cầu. Những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế thế giới trước đây (từ tháng 9/2008) đối với Việt Nam được đánh giá là ít hơn các nước
khác trong khu vực, nền kinh tế chỉ mới chững lại nhưng chưa rơi vào suy thoái. Sớm nhận
thức được ảnh hưởng của khủng hoảng, từ đầu Quý IV/2008, Chính phủ đã chuyển mục tiêu
từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, coi trọng ổn
định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể
trong năm 2009 như kiềm chế được lạm phát ở mức 6,52%, tăng trưởng GDP đạt 5,32%
trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng âm, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tuy nhiên hầu
hết các lĩnh vực liên quan đến thế giới đều bị tác động mạnh, trong đó, giá trị xuất khẩu
giảm 9,7% trong năm 2009, du lịch giảm 15,4%, thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm trên
70%. Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu vào kinh tế thế giới, cụ thể Việt nam đã gia nhập AFTA và WTO. Việc hội nhập
kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam thông qua hai thị trường chính là thị
trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường tài chính.
11
Cuối Quý II/2009, các tín hiệu
lạc quan về tình hình kinh tế thế
giới và các nước lớn đã xuất hiện
ngày càng nhiều hơn, kinh tế thế
giới dần hồi phục. Tại Việt nam,
tăng trưởng kinh tế hồi phục rõ nét
với tốc độ tăng trưởng GDP tăng
dần qua từng Quý : Quý I (3,1%),
quý II (4,5%), quý III (5,8%) và
quý IV (6,9%).
Biểu đồ 1 : Tăng trưởng GDP Việt nam và thế giới
Nguồn : VietCapital
Tiếp nối những thành quả đạt được trong năm 2009, sang năm 2010, các giải pháp và
chính sách của Chính phủ là hoàn toàn sáng suốt, kịp thời, tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh
tế, ổn định vĩ mô năm 2010. Nổi bật là thông điệp đầu năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ
đã xác định rõ trọng tâm 5 giải pháp nhiệm vụ cho năm 2010, làm kim chỉ nam cho các Bộ
ban ngành lên kế hoạch thực hiện. Trong đó nhóm nhiệm vụ thứ 2 "tập trung thúc đẩy đầu
tư, phát triển sản xuất kinh doanh và tái cấu trúc nền kinh tế", theo chúng tôi, là chìa khoá
cánh cửa tăng trưởng bền vũng, ổn định về lâu về dài.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á được tổ chức
ngày 06/06/2010 đã khẳng định : "Trong giai đoạn hậu khủng hoảng, mỗi quốc gia cần dựa
vào thị trường trong nước hơn nhưng vẫn hướng tới xuất khẩu để phát triển cân bằng hơn,
hiệu quả hơn và bền vững hơn. Để đẩy mạnh nhu cầu nội địa, Việt Nam phải đảm bảo duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vì chỉ khi tăng trưởng cao, đời sống người dân được cải
thiện thì thị trường trong nước mới được mở rộng. Mở rộng thị trường trong nước đi liền
với đẩy mạnh xuất khẩu qua đó từng bước cân bằng để có cơ cấu, mô hình phát triển bền
vững hơn".
Mục tiêu cuối cùng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và từng sản phẩm.
Nhìn vào đặc thù nền kinh tế nước ta, để đạt được mục tiêu đó phải chuyển đổi cơ bản từ
một nền kinh tế nông nghiệp nhỏ lẻ, lạc hậu sang một nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại;
một nền công nghiệp chủ yếu dựa trên khai thác tài nguyên khoáng sản và lắp ráp, gia công
sang các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến. Đặc biệt, phát triển mạnh các ngành dịch vụ,
nhất là các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tái cấu trúc nền kinh tế là yêu cầu thường
xuyên của bất cứ nền kinh tế nào, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động càng đòi
hỏi mỗi quốc gia có sự linh hoạt, năng động để thích ứng.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu và trong điều kiện kinh tế
thế giới chưa thật sự hồi phục sau khủng hoảng, việc tái cơ cấu nền kinh tế nước ta phải giải
12
quyết các vấn đề lớn sau : (1) tạo nền tảng vững chắc để chuyển dịch cơ cấu kinh tế bằng
cách tạo ra sự cải cách đột biến về thể chế, hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với lộ trình cam kết WTO; (2) phát triển cơ sở
hạ tầng, thúc đẩy đầu tư một cách thông suốt cả về chiều sâu và trên diện rộng; và (3) phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
2. Khái quát các kết quả kinh tế đạt được trong 6 tháng đầu năm 2010
Cùng với sự hồi phục của kinh tế thế giới, kinh tế Việt nam 6 tháng đầu năm 2010 đã
có những nét khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm 2010, Chính phủ đã điều chỉnh chính sách
điều hành nền kinh tế hướng về mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững.
Trong các phiên họp thường kỳ hàng tháng, Chính phủ đều tổng kết tình hình thực tế và ban
hành các quyết sách kịp thời. Tiêu biểu nhất là Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 về
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao, đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 6,5%
trong năm 2010. Bên cạnh đó là Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 07/5/2010, Chính phủ điều
chỉnh mục tiêu phấn đấu kiềm chế lạm phát ở mức 8% và yêu cầu Ngân hàng Nhà nước
phải có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10% và lãi
suất cho vay khoảng 12%. Tổng hợp kết quả đạt được cũng như những điểm còn hạn chế
trong 6 tháng đầu năm 2010 như sau :
Những nét tích cực : Nền kinh tế phục hồi tăng trưởng khá nhanh và khởi sắc.
Tăng trưởng GDP đạt mức khá cao và trên cả 3 ngành công nghiệp, dịch vụ và nông
lâm nghiệp, thuỷ sản.
Lượng vốn FDI giải ngân vẫn duy trì tốc độ khá, đạt khoảng 50% kế hoạch năm;
lượng vốn ODA giải ngân đạt 57% kế hoạch năm.
Lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, không tăng cao dưới áp lực tăng trưởng tín dụng
đột biến gần 38% năm 2009.
Căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng được giải quyết nhờ NHNN đã chủ
động bơm vốn với khối lượng lớn thông qua OMO, tái cấp vốn.
Thị trường ngoại hối thanh khoản tốt, nguồn cung hết sức dồi dào.
Những điểm hạn chế :
Chưa có sự bứt phá về thu hút vốn FDI, lượng vốn đăng ký còn rất hạn chế, chỉ đạt
1/3 kế hoạch năm.
Thâm hụt thương mại tiếp tục xấu đi do tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu mặc dù
được cải thiện nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của nhập khẩu.
Tăng trưởng tín dụng ở mức thấp, mới đạt 41% so với kế hoạch năm.
Mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay khá cao vẫn tồn tại khi lộ trình giảm lãi
suất "vào 10, ra 12" bắt đầu được triển khai.
13
Bảng 2 : Tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2010
Chỉ tiêu TH 2009 KH 2010 TH 6 tháng 2010
Tăng trưởng GDP 5,32% 6,5% 6,16%
Lạm phát 6,88% 8% 8,75%
Cán cân thương
mại
Thâm hụt 12,2 tỉ
USD
Thâm hụt 12-13 tỉ
USD
(Xuất khẩu tăng
6%,
Nhập khẩu tăng 5-
6%)
Thâm hụt 6,8 tỉ
USD
(Xuất khẩu tăng
15,7%
Nhập khẩu tăng
29,4%)
FDI đăng ký 21,48 tỉ USD 22-25 tỉ USD 8,43 tỉ USD
FDI giải ngân 10,73 tỉ USD 10-11 tỉ USD 5,4 tỉ USD
Kiều hối 6,8 tỉ USD 7 tỉ USD 3,6 tỉ USD
ODA giải ngân 1,99 tỉ USD 2,47 tỉ USD 1,41 tỉ USD
Tăng trưởng TD 37,7% 25% 10,52%
Lãi suất cơ bản
(%/năm)
Duy trì lãi suất 7%
(T2 đến T12), sau
đó điều chỉnh tăng
lên 8%
Dao động trong
khoảng 7-9%
Giữ nguyên mức
8%. Từ tháng
2/2010 áp dụng cơ
chế LS thoả thuận
đối với cho vay
TDH và từ tháng
4/2010 áp dụng cơ
chế LS thoả thuận
đối với cho vay
ngắn hạn
Tỷ giá USD/VND
Tỷ giá bình quân
liên ngân hàng dao
động từ 16.934-
17.961
VND giảm gía
khoảng 3% so với
USD
Tỷ giá bình quân
liên ngân hàng tăng
3,36% lên mức
18.544
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt nam 6 tháng đầu năm 2010 cho
thấy, mặc dù đã có bước phục hồi nhanh, vững chắc, nhưng kinh tế Việt nam vẫn còn nhiều
khó khăn phải đối mặt, nhất là trước các ảnh hưởng, tác động từ diễn biến kinh tế thế giới
sau khủng hoảng tới các lĩnh vực như xuất khẩu khó khăn, FDI suy giảm, luồng vốn đầu tư
gián tiếp hạn chế, đòi hỏi Chính phủ phải có sự theo dõi, phân tích và có giải pháp linh
14
hoạt, kịp thời. Những phân tích dưới đây cho thấy rõ nét hơn các tác động ảnh hưởng đến
từng lĩnh vực trong nền kinh tế.
III. Phân tích, đánh giá tác động đến các lĩnh vực trong nền kinh tế
1. Công nghiệp và bán lẻ
Nếu như tác động của sau khủng hoảng tài chính toàn cầu thể hiện rất rõ nét qua cán
cân thương mại và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, thì đối với hoạt động sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ tác động của khủng hoảng cũng có thể quan sát thấy
trên bình diện rộng, tuy không rõ nét bằng như đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Về hoạt động sản xuất công nghiệp
Trong những tháng đầu năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang có tác
động mạnh, ngành công nghiệp Việt Nam phát triển chậm, với tốc độ tăng trưởng giá trị sản
xuất công nghiệp (GTSXCN) quý I chỉ tăng 2,7%. Tuy nhiên, bước sang quý II, khi những
nền kinh tế lớn trên thế giới bắt đầu có dấu hiệu hồi phục, cùng với việc triển khai quyết liệt
các giải pháp của Chính phủ, công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển khả quan hơn,
với tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 4,6%. Tiếp tục xu hướng này, trong quý III, ngành đạt
tốc độ tăng trưởng GTSXCN là 6,4 % và quý IV tăng 9,5% đã góp phần đưa tốc độ tăng
trưởng công nghiệp cả năm 2009 đạt khoảng 7,6%.
Biểu đồ 2 : GTSXCN các tháng 2007 –
2009
Nguồn : Bộ Công thương
Biểu đồ 3 : Tăng trưởng GTSXCN
phân theo thành phần kinh tế
Nguồn : Bộ Công thương
Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế tuy có chuyển dịch nhưng khá chậm :
- Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng 19,4% (giảm 0,3% so với năm 2008).
- Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỉ trọng 35,7% (tăng 0,1% so với năm 2008).
- Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng 44,9% (tăng 0,2% so với năm 2008).
0
10.000
20.000
30.000
40.000
50.000
60.000
70.000
T1
T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
NĂM 2007
NĂM 2008
NĂM 2009
15
Bước sang 6 tháng đầu năm 2010, sản xuất công nghiệp vẫn có sự tăng trưởng khá
tốt với giá trị ước đạt 366,11 nghìn tỉ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009.
Về hoạt động thương mại trong nước
Trong bối cảnh xuất khẩu giảm sút, mặc dù điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn,
nhưng hoạt động thương mại trong nước vẫn tăng trưởng khá, diễn biến các tháng trong
năm vẫn theo quy luật hàng năm, luôn duy trì xu hướng tăng dần, tuy mức tăng cả năm
2009 chưa bằng mức tăng của năm 2008 (tăng trên 30%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và
dịch vụ xã hội tăng bình quân hàng tháng xấp xỉ 2%, càng về cuối năm tăng càng cao trên
5%/tháng, cả năm ước đạt khoảng 1.197,5 nghìn tỉ đồng, tăng 18,6% so với năm 2008 (nếu
loại trừ yếu tố giá, mức tăng là 11%).
Xét về cơ cấu tổng mức bán lẻ theo loại hình kinh tế năm 2009, kinh tế nhà nước đạt
116,2 nghìn tỉ đồng chiếm 9,7%, kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.049,9 tỉ nghìn đồng, chiếm
87,7% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,3 nghìn tỉ đồng chiếm 2,6%. So sánh qua
các năm cho thấy, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước ngày càng đóng góp nhiều hơn
vào tổng mức lưu chuyển hàng hoá dịch vụ toàn xã hội, chiếm tỉ trọng tăng dần so với các
thành phần kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài.
Biểu đồ 4 : Cơ cấu tổng mức lưu chuyển
hàng hoá phân theo loại hình kinh tế
Nguồn : Bộ Công thương
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu
dịch vụ xã hội tháng 6 tháng đầu năm 2010
ước đạt 747,4 nghìn tỉ đồng, tăng 26,7% so
với cùng kỳ năm 2009. Xét theo loại hình
kinh tế, kinh tế Nhà nước có mức tăng
trưởng cao nhất 44,9%, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài tăng 41,1%; kinh tế ngoài
Nhà nước tăng 24,4% so với cùng kỳ. Xét
theo ngành kinh tế, ngành Thương nghiệp
tăng 27,6%; ngành Du lịch dịch vụ tăng
24,8%; ngành Khách sạn, nhà hàng tăng
22,1% so với cùng kỳ.
Có thể rút ra kết luận rằng, trong điều kiện hậu khủng hoảng, khi các thị trường xuất
khẩu chính của Việt Nam phục hồi chậm chạp và còn nhiều bất ổn thì thị trường trong nước
với gần 90 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng để các doanh nghiệp trong nước tiếp
tục tận dụng, khai thác.
2. Xuất nhập khẩu
Suy thoái kinh tế toàn cầu có tác động đáng kể đến xuất nhập khẩu của Việt Nam,
kênh truyền dẫn tác động của suy thoái chính là xuất khẩu với tổng giá trị xuất khẩu hàng
Cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá phân
theo loại hình kinh tế
0%
20%
40%
60%
80%
100%
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài
Kinh tế ngoài Nhà
nước
Kinh tế Nhà nước
16
năm tương đương 60% GDP. Trong năm 2009, giá trị xuất khẩu của Việt Nam giảm 9,7%,
sự sụt giảm này tuy thấp so với hầu hết các quốc gia đang phát triển khác, song đã làm cho
năm 2009 trở thành năm đầu tiên có tăng trưởng xuất khẩu âm kể từ khi Việt Nam bắt đầu
cải cách kinh tế. Giá trị nhập khẩu cũng giảm 14,7% phản ánh mức cầu nội địa đối với các
hàng hoá nhập khẩu suy giảm.
Biểu 5 : Tăng trưởng XNK 2007-2009 Biểu 6 : Kim ngạch XNK 6 tháng đầu năm 2010
(Đơn vị : %) (Đơn vị : triệu USD)
Nguồn : Bloomberg Nguồn : TCTK, Bộ Công thương
Từ quý II/2009, khi nền kinh tế thế giới có sự phục hồi tăng trưởng trở lại cùng với
chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ, hoạt động xuất nhập khẩu đã có những diễn
biến tích cực. Tuy nhiên do nhu cầu nhập khẩu tăng cao trở lại trong khi kim ngạch xuất
khẩu cải thiện ở mức thấp hơn, điều này dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại gia
tăng, nhập siêu cả năm 2009 ở mức 12,2 tỉ USD, tương đương 22% giá trị kim ngạch xuất
khẩu và 13% GDP. 6 tháng đầu năm 2010, xu hướng phục hồi tại các nền kinh tế lớn đã được
khẳng định mặc dù có chậm hơn dự báo. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam cũng
có diễn biễn tốt mặc dù chưa thực sự bền vững. Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt
32 tỉ USD, tăng 16% so với cùng kỳ 2009, hoàn thành 53% kế hoạch cả năm. Sự phục hồi
diễn ra mạnh mẽ trong các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may (17,2%), điện tử
(31,4%), thuỷ sản (14,2%). Trong khi đó, nhập khẩu có mức tăng nhanh hơn : 6 tháng đầu
năm 2010 đạt 38,8 tỉ USD, tăng 29,4% so với cùng kỳ 2009, thâm hụt thương mại đứng ở
mức 6,8 tỉ USD (tương đương 20,8% giá trị xuất khẩu).
3. Thu hút đầu tư
Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới trong khủng hoảng đã làm cho
hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam không
17
phải là một ngoại lệ. Dòng vốn FDI sau khi đạt mức kỷ lục vào năm 2008 đã giảm xuống
mức thấp vào năm 2009.
Biểu 7 : Vốn FDI 2006 - 6 tháng đầu 2010 Biểu 8 : FDI các tháng đầu năm 2010
(Đơn vị : tỉ USD) (Đơn vị : tỉ USD)
Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài – Bộ KHĐT Nguồn : Tổng cục Thống kê
6 tháng đầu năm 2010, cùng với đà phục hồi tăng trưởng của nền kinh tế thế giới,
FDI giải ngân duy trì tốc độ khá, đạt khoảng 50% kế hoạch năm trong khi lượng vốn ODA
giải ngân đạt 57% kế hoạch năm. Giải ngân FDI mỗi tháng bình quân đạt 900 triệu USD,
tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm 2009. Mặc dù vậy, FDI đăng ký chưa thực sự có sự
bứt phá khi lượng vốn đăng ký chỉ đạt 1/3 kế hoạch của năm. Tuy nhiên, thu hút vốn FDI
cũng có những chiều hướng tích cực khi có sự cải thiện đang kể về cơ cấu vốn theo ngành
nghề. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ, chế tạo và công nghệ cao dần thay thế cho
lĩnh vực khách sạn, bất động sản để trở thành những lĩnh vực chủ lực. Trong 6 tháng 2010,
công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư
nước ngoài với 164 dự án, tổng số vốn đầu tư 2,87 tỉ USD, chiếm 34% tổng vốn FDI đăng
ký.
Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) đã được cải thiện đáng kể so với
năm ngoái, cho dù còn thua xa đỉnh cao của năm 2007. Theo Ngân hàng Nhà nước, luồng
vốn FII tiếp tục duy trì xu hướng thặng dư sau khi bị thâm hụt trong năm 2009. Tính chung
6 tháng đầu năm 2010, vốn FII ròng đạt mức thặng dư 1,8 tỉ USD (trong đó bao gồm 800
triệu các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng trên thị trường chứng khoán).
Trong dài hạn, cùng với niềm tin của nhà đầu tư về tăng trưởng kinh tế toàn cầu
được củng cố và tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam, dòng vốn FDI và FII vào
nước ta sẽ có nhiều triển vọng tích cực. Để phát huy những lợi thế từ nguồn vốn FDI, cần
chú trọng thu hút vốn gắn liền với kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế. Trong đó, có biện pháp
18
để hướng dòng vốn FDI vào những lĩnh vực quan trọng có giá trị gia tăng cao, đi kèm với
chuyển giao công nghệ hiện đại và các ngành sản xuất có tỉ trọng xuất khẩu lớn.
Về nguồn vốn ODA : Trên cơ sở nhận định lạc quan về việc Việt nam đã đối phó tốt
trước khủng hoảng kinh tế, khả năng phục hồi nhanh và sẽ sớm lấy lại đà tăng trưởng, các
nhà đầu tư đã cam kết một mức vốn kỷ lục 8 tỉ USD năm 2010. Đây là một tín hiệu đáng
mừng nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong việc sử dụng hiệu quả vốn vay, tính toán
các điều kiện đi kèm và tương quan đối với các nguồn vốn trong và ngoài nước khác. Ngoài
ra đối với vẫn đề vay nợ cần được xem xét cẩn trọng do Việt Nam hiện đang có tỉ lệ nợ trên
GDP ở mức 39%, áp lực trả nợ ngày càng lớn khi tiền đồng tiếp tục mất giá, đồng yên và
euro tăng cao trong khi Nhật Bản và khối EU vẫn là các quốc gia tài trợ quan trọng nhất.
4. Tài chính – ngân hàng
Diễn biến lãi suất
Với những diễn biến khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2008 đến đầu năm 2009,
đồng thời với khủng hoảng nợ công đầu năm 2010, ngay cả khi kinh tế đã ngừng suy giảm
nhưng vẫn còn chưa vững chắc, để tăng cường cho sự phục hồi của nền kinh tế, nhiều ngân
hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử và chấp nhận
lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước : FED
(Mỹ) : 0,25%; ECB (EU) : 1%; BOE (Anh) : 0,5%; Nhật Bản 0,1%.
Tuy nhiên, ở Việt Nam với lo ngại về sức ép lạm phát, NHNN đã thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt một cách cẩn trọng. Lãi suất cơ bản sau khi tăng 1% lên đến mức 8%
từ tháng 12 năm 2009 đã giữ nguyên trong 7 tháng đầu năm 2010. Sau khi NHNN dỡ bỏ
trần lãi suất cho vay theo mức bằng 150% LSCB, lãi suất cho vay của các NHTM tăng từ 2-
3%. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và
khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Lãi suất huy động vốn vẫn được các ngân
hàng duy trì ở mức cao, cá biệt nhiều ngân hàng đã niêm yết lãi suất tới mức 11,99% hoặc
kèm theo các hình thức khuyến mại.
Trong quá trình thực hiện cho vay theo cơ chế trần lãi suất, nhiều ngân hàng đã áp
dụng hình thức "lách" trần thông qua thu phí cho vay, tập trung từ cuối năm 2009 đến đầu
năm 2010. Đặc biệt là thời điểm từ cuối năm 2009 đến trước tết Nguyên đán năm 2010,
đứng trước những khó khăn về thanh khoản, các NHTM đều mong muốn được dỡ bỏ cơ chế
trần lãi suất để linh hoạt hơn trong việc điều hành lãi suất cho vay và huy động vốn, góp
phần loại bỏ các hình thức bóp méo về lãi suất cho vay cũng như chi phí huy động vốn.
Trước yêu cầu đó, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được NHNN hé mở từ tháng 1/2009 với
Thông tư quy định về cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời
sống. Đến tháng 2/2010, một lần nữa cơ chế trần lãi suất lại được dỡ bỏ dần khi NHNN Thông
tư số 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng VND theo lãi suất thoả thuận của các tổ
chức tín dụng đối với khách hàng đối với các khoản vay trung và dài hạn. Ngày 14/4/2010,
19
NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN quy định về cơ chế cho vay theo lãi suất
thoả thuận đối với cả ngắn và trung dài hạn; chính sách này của NHNN đã được các ngân
hàng trong hệ thống hưởng ứng mạnh mẽ và cho đây là một quyết sách đúng đắn góp phần
khơi thông nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 6/4/2010 về 6 giải pháp
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
khoảng 6,5% trong năm 2010, NHNN đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm hạ nhiệt lãi suất
thị trường là tăng cường hỗ trợ vốn cho các NHTM qua kênh thị trường mở. Ngày 11/6, sau
c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_dien_bien_moi_cua_kinh_te_the_gioi_tu_sau_khung_hoang_va_tac_dong_den_kinh_te_viet_nam_779.pdf