Những giải pháp chủ yếu để áp dụng chính sách thuế quan thích hợp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

 

Lời nói đầu 1

Chương I: Lý luận chung về thuế quan 2

I. Khái niệm- Vai trò của thuế quan 2

1. Khái niệm 2

2. Phân loại và vai trò của thuế quan 2

3. Phân biệt giữa thuế, lệ phí và phí 6

II. Tác động của thuế quan 7

1. Thuế quan trong một nước nhỏ 8

2. Thuế quan trong một nước lớn 11

3. Đánh giá mức bảo hộ của thuế quan 12

III. Chi phí và lợi ích của thuế quan 12

1. Thặng dư của người tiêu dùng và người sản xuất 12

2. Đolường chi phí và lợi ích 15

 Chương II: Thực trạng chính sách thuế quan

 hiện hành Của Việt nam 18

I. Nội dung chủ yếu của chính sách thuế quan

hiện hành 18

II. Đánh giá chính sách thuế quan hiện hành 18

1. Ưu điểm và những hạn chế còn tồn tại 18

2. Hội nhập vào AFTA của ngành thuế Việt nam 20

 Chương III: Những giải pháp để áp dụng thuế quan thích

 hợp thúc đẩy hội nhập KTQT của Việt nam 21

I. Quan điểm cơ bản khi đưa ra chính sách

thuế quan mới 21

1. Thuế XK, NK phải bảo đảm thúc đẩy sãn xuất phát

 triễn, bảo hộ chính đáng sản xuất nội địa, nâng cao

khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước 22

2. Tạo nguồn thu dồi dào cho ngân sách. 25

3. Cải cách thuế XNK cần hướng tới hiệu quả thuế. 27

4. Thúc đẩy nền kinh tế nươc ta từng bước hoà nhập

Với nền kinh tế khu vực và thị trường thế giới 29

5. Đảm bảo thực hiện các nguyên tắc của thuế 30

II. Phương hướng và giải pháp chủ yếu 31

1. Về thuế nhập khẩu 31

2. Đối với thuế xuất hàng hoá 33

 Kết luận 35

 

doc48 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giải pháp chủ yếu để áp dụng chính sách thuế quan thích hợp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẽ là 5 đô la. Có thể xác định thặng dư của người tiêu dùng từ đường cầu của thị trường (biểu đồ 1-3). Ví dụ, hãy cho rằng giá cao nhất mà ở mức đó người tiêu dùng sẽ mua 10 đơn vị hàng hoá là 10 đôla. Lúc đó đơn vị hàng hoá thứ 10 phải có giá trị 10 đôla đối với người tiêu dùng. Nếu như nó đánh giá ít hơn, họ sẽ không mua đơn vị này; nếu như nó đáng giá nhiều hơn, họ sẽ sẵn sàng mua ngay cả khi giá cao hơn. Bây giờ cho rằng để làm cho người tiêu dùng mua 11 đơn vị hàng hoá giá sẽ phải giảm xuống 9 đôla. Lúc này đơn vị thứ 11 chỉ đáng giá 9 đôla đối với người tiêu dùng. Biểu đồ 1- 3a: xác định thặng dư của người tiêu dùng từ cầu. Thặng dư của người tiêu dùng từ mỗi đơn vị được bán ra là chênh lệch thực tế và giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả. Giá P 11 10 9 9 Q số lượng Q Biểu đồ 1- 3b: Thặng dư của người tiêu dùng biểu diễn băng hình học. Thặng dư của người tiêu dùng tương ứng với diện tích khu vực dưới đường cầu và bên trên mức giá. Giá P a P1 b P2 Q1 Q2 Số lượng Q Hãy cho rằng giá là 9 đô la. Lúc này người tiêu dùng chỉ sẵn sàng mua đến hàng hoá thứ 11 và sẽ không có thặng dư từ việc mua đơn vị hàng hoá này. Họ sẵn sàng trả 10 đô la cho đơn vị hàng hoá thứ 10 và nhận được 1 đô la thặng dư tiêu dùng từ đơn vị đó. Họ sẽ sẵn sàng trả 11 đô la cho đơn vị thứ 9; Nếu như vậy, họ sẽ có 3 đô la thặng dư tiêu dùng từ đơn vị này.v.v... Khái quát hoá từ ví dụ này, nếu như P là giá của một hàng hoá và Q là số lượng được yêu cầu ở mức giá này, thì thặng dư của người tiêu dùng sẽ được tính theo cách trừ đi P nhân với Q từ diện tích miền bên dưới đường cầu tính đến điểm Q (Biểu đồ 1- 3b). Nếu như giá là P1, số lượng cầu là Q1 và thặng dư của người tiêu dùng được đo bằng diện tích có vùng tên là a. Nếu như giá là P2 số lượng cầu tăng lên Q2và thặng dư của người tiêu dùng sẽ tăng lên bằng diện tích a cộng với diện tích bổ sung b. Thặng dư của người sản xuất cũng là một khái niệm tương tự. Một nhà sản xuất sẵn sàng bán hàng với giá là 2 đô la như lại bán được giá là 5 đô la sẽ có thặng dư sản xuất là 3 đô la. Cách thức dùng để biểu diễn thặng dư của người tiêu dùng từ đường cầu có thể được sử dụng để xác định thặng dư của người sản xuất từ đường cung. Nếu P là giá và Q là số lượng được cung cấp từ mức giá này, thì thặng dư của người sản xuất là P nhân với Q trừ đi diện tích khu vực nằm dưới đường cung tính tới Q (biểu đồ 1- 3c). Nếu như giá là P1 , số lượng được cung cấp sẽ là Q1 và thặng dư của người sản xuất sẽ được đo bằng diện tích c. Nếu như giá tăng lên P2 số lượng cung cấp Q2 và thặng dư của người sản xuất sẽ tăng lên bằng c cộng với diện tích bổ sung d. Giá P S P2 P1 Q1 Q2 Số lượng Q Biểu đồ 1- 3c: Thặng dư của người sản xuất biểu diễn bằng hình học. Thặng dư của người sản xuất bằng diện tích miền bên trên đường cung và bên dưới mức giá. Đo lường chi phí và lợi ích. Biểu đồ 1- 3d: Minh hoạ chi phí và lợi ích của một loại thuế quan đối với nước nhập khẩu. Thuế quan nâng giá trong nước từ Pw lên PT nhưng làm giảm giá xuất khẩu của nước ngoài từ Pw xuống PK. Sản xuất trong nước tăng từ S1 lên S2, trong khi tiêu thụ trong nước giảm từ D1 xuống D2. Chi phí và lợi ích đối với các nhóm khác nhau có thể thể hiện bằng tổng diện tích của 5 vùng, được gọi là a, b, c, d, e. Trước hết hãy xét cái lợi ích đối với nhà sản xuất trong nước. Họ nhân giá cao hơn và vì vậy có thặng dư sản xuất lớn hơn. Nhớ lại 1- 3c, cái lợi của họ có thể đo được bởi a, đó là mức tăng trong chênh lệch giữa P ´ Q và diện tích miền bên dưới đường cung. Những người tiêu dùng trong nước cũng phải đối diện với một mức giá cao hơn và vì vậy sẽ bị thiệt. Liên hệ với 1- 3b thua thiệt của người tiêu dùng trong nước bằng tổng a + b + c + d, đó là mức giảm trong chênh lệch giữa diện tích bên dưới đường cầu và P x Q. ở đây còn có nhân vật thứ ba: Đó là Chính phủ, Chính phủ được lợi từ việc thu thuế NK. Doanh thu thuế bằng tỷ lệ thuế quan t nhân với số lượng nhập khẩu QT = D2 - S2 . Do t = PT - PK thu nhập của Chính phủ tương ứng với c + e. Biểu đồ 1- 3d. Chi phí và lợi ích của một loại thuế quan. Chi phí và lợi ích của một loại thuế quan đối với những nhóm người khác nhau có thể hiện bằng các tổng của năm diện tích a, b, c, d, và e. P S PT a b c d Pw e D PK S1 S2 D2 D1 Q Sự mất mát của khách hàng = S(a + b + c + d) Cái được của người sản xuất = (a) Nguồn lợi về thu nhập của Chính phủ (c + e) Do những cái lợi và mất mát này được phân bổ vào những người khác nhau, nên việc đánh giá chi phí lợi ích tổng thể của một loại thuế quan phụ thuộc vào việc đánh giá như thế nào giá trị lợi ích tính bằng đồng đô la đối với mỗi nhóm. Ví dụ, nếu mỗi lợi ích của người sản xuất chủ yếu dồn vào những người chủ sở hữu giàu có, trong khi người tiêu dùng lại là những người nghèo thì người ta sẽ nhìn nhận về thuế quan theo một cách khác so với khi hàng hoá là một thứ xa sỉ được mua sắm bởi những người giàu và được sản xuất ra bởi những công nhân có mức lương thấp. Vai trò của Chính phủ tạo nên sự mơ hồ nhiều hơn: Liệu Chính phủ có sử dụng thu nhập của mình để cung cấp tài chính cho các ngành dịch vụ công cộng quan trọng hay lại lãng phí nó vào những chi tiêu quá mức của mình ? Bất chấp những vấn đề này, các phân tích về chính sách ngoại thương thường cố gắng tính toán các tác động ròng của một loại thuế đối với phúc lợi của một quốc gia bằng cách giả định rằng ở mức biên thì giá trị lợi ích hay tổn thất đối với mỗi nhóm cũng là giá trị của xã hội. Lúc này, hãy xem xét tác động ròng của một loại thuế quan đối với phúc lợi. Chi phí ròng của một loại thuế quan là: Tổn thất của người mua- nguồn lợi của người sản xuất- thu nhập của Chính phủ hay thay thế các khái niệm này bằng các diện tích trong biểu đồ 1- 3d. (a + b + c + d)- a- (c + e) = b + d - e. ở đây sẽ có hai “tam giác” mà diện tích của chúng để đo lường tổn thất và một hình “chữ nhật” mà diện tích của nó dùng để đo lường khoản lời đền bù. Một cách có ích để giải thích các khoản lợi và các tổn thất là như sau: Các tam giác thể hiện sự mất mát cho tổn thất hiệu năng hiện do thuế quan làm sai lạc những khuyến khích, trong khi hình chữ nhật tiêu biểu cho nguồn lợi ngoại thương xuất hiện do thuế quan làm giảm hàng XK của nước ngoài. Nếu như nước đó không có khả năng tác động đến giá của thế giới (trường hợp nước nhỏ), miền e, tiêu biểu cho các khoản lợi ngoại thương, sẽ mất đi và rõ ràng là thuế quan sẽ làm giảm phúc lợi. Nó làm lệch lạc những khuyến khích đối với cả những người sản xuất lẫn người tiêu dùng bằng cách thức đẩy họ hành động như thế hàng NK đắt hơn thực tế. Chi phí về một đơn vị hàng tiêu dùng có thêm đối với nền kinh tế là gia của một đơn vị hàng NK có thêm, nhưng do thuế quan trong nước nâng giá cao hơn so với mức giá thế giới, những người tiêu dùng sẽ cắt giảm tiêu dùng của họ đến một mức giá mà tại đó đơn vị biên sẽ tạo ra phúc lợi cho họ bằng với giá nội địa bao gồm cả thuế. Giá trị của một đơn vị sản xuất có thêm đối với nền kinh tế là giá trị hàng NK mà nền kinh tế đó tiết kiệm được, nhưng các nhà trong nước sẽ mở rộng đến mức mà tại đó chí phí biên ngang bằng với giá bao gồm cả thuế. Do vậy, trong nước nền kinh tế sẽ sản xuất ra các đơn vị hàng hoá mà nó có thể mua với giá rẻ hơn ở nước ngoài. Biểu đồ 1- 3e. Các tác động phúc lợi thật của một loại thuế quan. Giá P S PT b d Pw PK e D Nhập khẩu Sản lượng Q Tổn thất hiệu nang = S(b + d) Các khoản lãi ngoại thương = S(e) Các tác động phúc lợi ròng của một loại thuế quan sẽ được tóm tắt ở biểu đồ 1- 3e. Các tác động tiêu cực được thể hiện bằng hai tam giác b và d. Tam giác thứ nhất (b) là tổn thất do sự lệch lạc trong sản xuất, do việc thuế quan làm cho các nhà sản xuất trong nước sản xuất quá nhiều loại hàng hoá này. Hình tam giác thứ hai (d) là tổn thất do sự lệch lạc trong tiêu dùng kết quả của việc thuế quan làm cho người tiêu dùng mua quá ít hàng. Đổi lại với những tổn thất này là các khoản lợi ngoại thương được thể hiện bằng hình chữ nhật (e), kết quả của việc thuế quan làm giảm giá XK của nước ngoài. Chương II Thực trạng chính sách thuế quan hiện hành của Việt nam I. Nội dung chủ yếu của chính sách thuế quan hiện hành Cơ cấu thuế quan XK, NK chính thức của Việt nam bao gồm khoảng 3200 loại thuế. Mức thuế thấp nhất là 0% và cao nhất là 150%, giữa hai mức này có khoảng 100 mức ở giữa. Trong đó thuế XK ở Việt nam cao nhất là 45% (áp dụng đối với hàng phế liệu kim loại màu), 35% (phế liệu kim loại đen), 0% đối với các mặt hàng nông sản (gạo, ngô, cà phê, đào lộn hột, ớt, tiêu, điều), 1% áp dụng đối với: cá, mực, mủ cao su tự nhiên... , 3% với tôm, cua tươi; 4% đối với dầu thô; 5% đối với đá quý. Tổng là có 11 mức thuế suất tính trên giá FOB. Đối với thuế nhập khẩu có khoảng 28 thuế suất danh nghĩa khác nhau tính theo giá CIF. Mức thuế cao nhất áp dụng cho ô tô, đồ uống và các hàng sa sỉ khác, cụ thể: 150% áp dụng với: bia, rượu mạnh, ô tô < 5 chỗ; 100% đối với ô tô từ 5 đến 24 chỗ; xe máy, máy thu hình từ 40 đến 50%. Còn thuế quan đánh vào các nguyên liệu thô, các thiết bị cơ bản và các sản phẩm trung gian nói chung thấp hơn nhiều, ví dụ như 0% đối với: thiết bị dụng cụ y tế; 5% đối với dầu ăn; 8% đối với sơn chống rỉ... Trên một nửa thuế quan thuộc các hạng mục sau và điều đó có nghĩa là thuế quan trung bình tương đối thấp. II. Đánh giá chính sách thuế quan hiện hành. Ưu điểm và những hạn chế. Luật thuế xuất nhập khẩu của Nhà nước ta ban hành năm 1987, đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Trong quá trình thực hiện luật thuế xuất nhập khẩu đã phát huy được tác dụng tích cực trong việc bảo hộ sản xuất trong nước hướng dẫn người tiêu dùng và đạt kết quả khá cao trong việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước. So với tổng thu thuế thì thuế xuất nhập khẩu chiếm tỷ lệ 10,4% năm 1991; 11,8% năm 1992; 19% năm 1993 và 26,4% năm 1994. Điều đó chứng tỏ, thuế quan hiện hành về cơ bản đã phù hợp với yêu cầu đổi mới và thực trạng nền kinh tế nước ta trong những năm vừa qua cho nên đã phát huy được tác dụng tích cực của nó. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội luôn thay đổi, đồng thời trước yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt xu thế thương mại hoá toàn cầu và khu vực, nhất là trong bối cảnh Việt nam đã gia nhập ASEAN thì thuế quan hiện hành đã bộc lộ rõ một số tồn tại sau: - Thuế xuất nhập khẩu còn bao gồm cả thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt nên thuế suất cao. Tuy có thuận tiên là thu tập trung, nhưng không phù hợp với thông lệ quốc tế, dễ bị hạn chế hàng nước ngoài NK vào Việt nam. -Thuế NK có quá nhiều thuế suất (28 thuế suất từ 0% đến 15%) tuy bảo hộ đến từng nhóm doanh nghiệp trong nước, nhưng lại làm cho biểu thuế quá phức tạp, khó thực hiện đúng, hạn chế tính tập trung, hạn chế doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị mới. -Thuế nhập khẩu nhìn chung còn quá cao (có nhiều loại hàng có mức thuế suất 50-150%) đã là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng buôn lậu, nhập lậu qua biên giới và cửa khẩu. - Ngoài thuế xuất nhập khẩu còn có phụ thu đối với những mặt hàng có tỉ suất lợi nhuận cao, tuy có tạo nguồn quỹ bình ổn giá nhưng lại gây phức tạp, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh một số mặt hàng nhập khẩu chịu thuế suất cao, thì diện không thu thuế, miễn giảm thuế, diện mặt hàng có thuết suất 0%-2% còn rất nhiều, dẫn đến bất hợp lý, sơ hở, không bao quát hết nguồn thu cho ngân sách, không khuyến khích sản xuất trong nước. - Biểu thuế NK quy định theo khung thuế suất, tạo điều kiện cho việc quy định thuế suất cụ thể, linh hoạt, nhưng lại dẫn đến thiếu ổn định, làm cho doanh nghiệp thiếu yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. - Diện thu thế XK còn rộng, 60 nhóm mặt hàng với 10 thuế suất từ 1% đến 45% chưa góp phần khuyến khích đẩy mạnh XK. - Việc kết hợp mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách với việc giải quyết nhiều chính sách kinh tế- xã hội khác nhau đã làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu trở nên phức tạp do có nhiều thuế suất, nhiều ngoại tệ, nhiều trường hợp miễn giảm không đảm bảo được tính tập trung, công bằng của thuế, gây khó khăn cho công tác quản lý thu thuế và tạo khe hở tránh thuế, trốn thuế cho người nộp thuế. Chính sách thuế quan hiện hành cho thấy thuế quan bình quân gia quyền thấp (khoảng 19% năm 1995 và khoảng 16% năm 1996) cho thấy hàng rào buôn bán của Việt nam không cao lắm so với hàng rào buôn bán ở các nước đang phát triển khác ở Châu á. Tuy nhiên chính sách thuế xuất nhập khẩu luôn luôn bị bổ sung sửa đổi theo thực tế tình hình nên thiếu ổn định, chắp vá, gây khó khăn cho việc theo dõi thực hiện và gây tâm lý thiếu an tâm trong sản xuất kinh doanh nói chung, cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hội nhập vào AFTA của ngành thuế Việt nam. Kể từ 1/1/1996, Việt nam tham giá AFTA và được phép kéo dài thời hạn hoàn thành việc giảm thuế quan còn 0- 5% trong 3 năm, tức là vào năm 2006. Bước đầu tiên của Việt nam sẽ là giảm mức thuế đối với 15 loại mặt hàng trong danh mục giảm thuế nhanh của SEPT. Tiếp đó, sẽ phải sắp xếp lại hệ thống đối với 2800 mặt hàng trong phạm vi AFTA. Danh mục những sản phẩm thuộc diện TEL sẽ giảm dàn trong 5 năm, từ đầu tháng 1 năm 1999 đến cuối tháng 1 năm 2003. Nông sản chưa chế biến thuộc TEL cũng sẽ dần dần được đưa vào danh mục trong giai đoạn từ đầu tháng 1 năm 2000 đến cuối tháng 1 năm 2006. Ngoài ra, Việt nam cũng đã chấp nhận điều kiện tối huệ quốc (MFN) cho ASEAN với mức thuế thấp nhất có thể. Mặc dù đang áp dụng mức thuế hiện hành cao hơn nhiều so với nước ASEAN khác. Nhưng Việt nam dự định sẽ giảm thuế đối với hầu hết các mặt hàng NK từ ASEAN xuống mức dưới 60%. Tuy nhiên, mức thuế đối với các sản phẩm như thuốc lá và rượu, bia dường như vẫn sẽ giữ ở mức 120- 150%. Việt nam cũng sẽ áp dụng cách đối xử quốc gia đối với hàng NK của các nước ASEAN dưới dạng thuế doanh thu và thuế đối với hàng xa sỉ, định tỷ giá hối đoái và các biện pháp khác, sẽ làm rõ các quy chế mậu dịch hiện còn phức tạp của mình và sẽ cung cấp thông tin xác đáng để tạo một môi trường thương mại công khai hơn. Tại cuộc họp lần thứ VIII của Hội đồng AFTA, ngày 10/12/1995 tại Băng Cốc, Bộ trưởng tài chính Việt nam đã đệ trình các danh mục hàng hoá chính thức để thực hiện CEPT. Các danh mục đó là danh mục loại trừ hoàn toàn, loại trừ tạm thời các mặt hàng nông sản nhạy cảm chưa chế biến và danh mục cắt giảm thuế quan. Các danh mục này xây dựng phù hợp với quy định của Hiệp định CEPT và phù hợp với đặc điểm kinh tế- xã hội Việt nam, tuân thủ các nguyên tắc đã được uỷ ban thường vụ quốc hội đề ra. Danh mục loại trừ hoàn toàn bao gồm các mặt hàng liên quan đến an ninh quốc gia, động vật, thực vật, ảnh hưởng đến sức khoẻ, cuộc sống của con người, đến giá trị văn hoá, lịch sử, khảo cổ như các loại vũ khí khí tài, quân sự các mặt hàng đã qua sử dụng, các loại dược phẩm và hoá chất độc hại, thuốc lá, xì gà, các loại đồ cổ, xe ô tô dưới 5 chỗ ngồi, các mặt hàng chiến lược như xăng, dầu (trừ dầu thô Việt nam đang XK...). Danh mục loại trừ tạm thời gồm 1168 nhóm mặt hàng, chiếm khoảng 36% tổng số các mặt hàng trong biểu thuế, mà chủ yếu là các mặt hàng hiện có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có thuế suất thấp hơn 20% nhưng đang được áp dụng phi thuế hoặc nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Danh mục cắt giảm thuế Việt nam gồm 1628 nhóm mặt hàng, chiếm 50,51% tổng số các mặt hàng trong biểu thuế NK và chủ yếu là các mặt hàng hiện đang có thuế suất trong khoảng 0%- 20% mà Việt nam chủ yếu là XK. Mặc dầu danh mục cắt giảm thuế của Việt nam chiếm tỷ lệ thấp so với các nước thành viên khác khi họ bắt đầu thực hiện chương trình CEPT, nhưng đây là biện pháp an toàn nhất để Việt nam có thời gian nghiên cứu, rút kinh nghiệm. Để thực hiện đúng cam kết của Chính phủ Việt nam với ASEAN ngày 1/1/1996, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN ở Ôsaka, Việt nam đã đệ trình danh mục hàng hoá tham gia chương trình CEPT 1996. Danh mục này gồm 857 nhóm mặt hàng, chủ yếu là hàng hoá đang có mức thuế xuất nhập khẩu từ 0%- 5% tức là các mặt hàng đã đạt mức thuế cuối cùng của chương trình CEPT, nên trên thực tế là không giảm thuế NK. Chương III Những giải pháp để áp dụng thuế quan thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam I. Quan đểm cơ bản khi đưa ra chính sách thuế quan mới. Trước hết cần nhận thức rằng việc đưa ra chính sách thuế mới (cải cách thuế) là công việc rất phức tạp và khó khăn. Đặc biệt là thuế XNK động chạm đến chẳng những lợi ích quốc gia, doanh nghiệp và dân cư trong nước mà còn động chạm đến quyền lợi của bạn hàng nước ngoài. Việt nam đã tham gia ASEAN, đã ký kết nhiều hiệp định song phương với nhiều quốc gia, khu vực. Những yếu tố đó cần được xem xét khi cải cách hệ thống thuế của Việt nam hiện nay. Do vậy cải cách hệ thống thuế XNK cần được thực hiện với quan điểm sau: 1. Thuế XK, NK phải bảo đảm thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo hộ chính đáng sản xuất nội địa, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước Để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi khi ban hành một sắc thuế quan cần quy định rõ đối tượng nộp thuế, đối tượng tính thuế, biểu thuế, hệ thống thuế suất phân biệt, các chế độ giảm- miễn thuế. Các quy định này xét bề ngoài là sự cưỡng chế, nhưng thực chất là nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế- xã hội nhất định. Việc phân biệt thuế suất đối với từng sản phẩm XK, NK, nhưng quy định ưu đãi đối với một số mặt hàng, ngành hàng... tự nó góp phần điều chỉnh việc bỏ vốn đầu tư vào sản xuất hàng XK hay thay thế hàng NK mà không cần dùng bất cứ công cụ hành chính hay bất kỳ áp lực kinh tế nào của Nhà nước. Chúng ta đều thừa nhận tính hợp lý của lý thuyết lợi thế tương đối trong buôn bán quốc tế. Nó giải thích vì sao các nước lại buôn bán với nhau và lợi ích mà các nước buôn bán bắt nguồn từ đâu . ở một thời điểm đặc biệt, sẽ dễ chứng minh được là mậu dịch tự do sẽ tối đa hoá lợi nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có. Chẳng hạn, nếu một loại ô tô cỡ nhỏ trị giá 10 nghìn USD ở Nhật, trong khi cùng loại đó ở Việt nam lại trị giá 15 nghìn USD. Rõ ràng là Việt nam sẽ có lợi hơn nếu mua ô tô con từ Nhật hơn là tự sản xuất lấy trong nước. Tuy nhiên, đây chỉ là một quan điểm “tĩnh” mà thôi. Không nên cực đoan cho rằng lợi thế tương đối là cố định; Các nước có thể kiếm được (hoặc mất đi) một lợi thế tương đối trong việc sản xuất ra một loại hàng hoá hay dịch vụ riêng lẻ. Một chính sách khôn khéo của Nhà nước có thể ảnh hưởng tới quá trình đó. Trở lại tình huống trên, nếu Việt nam cứ NK ô tô con từ Nhật thì Việt nam không bao giờ học được cách sản xuất ô tô. Như thế tại sao các nhà kinh tế, ít ra là những người cổ vũ cho tự do buôn bán lại cho rằng mậu dịch tự do lại rất tốt, mậu dịch tự do là tuyệt hảo ? Trong thực tiễn, không phải Chính phủ nào cũng theo lời khuyến nghị của các nhà kinh tế nói trên. Chúng ta xem xét tình huống giả sử sản xuất trong nước thay thế NK ô tô con qua thời gian. USD Y 15000 C C1 10000P P1 Biểu đồ 3- 1a: Trường hợp nhập khẩu Trong biểu đồ, trục X chỉ thời gian bằng số năm trục Y là chi phí cho mỗi xe ô tô tính bằng đô la Mỹ (USD). P là giá cả thế giới qua thời gian, giả thiết là ở mức 10 nghìn USD. Nếu các doanh nghiệp Việt nam muốn nhập khẩu ô tô họ có thể nhập ở mức giá 10 ngàn USD từ Nhật hoặc Mỹ. Đường cc1 biểu thị cho chi phí sản xuất mỗi ô tô tại Việt nam. Tình huống trong biểu đồ 3-1a chi phí sản xuất ô tô tại Việt nam bắt đầu ở mức 15 ngàn USD và vẫn còn cao hơn mức giá nhập khẩu 10 ngàn USD, thậm chí cả 10 năm sau đó. Trong tình huống này, Việt nam cần nhập ô tô thay vì cố sản xuất ra chúng. Bởi vì 10 năm sau, nếu có sản xuất ô tô con thì chi phí vẫn còn cao hơn mức giá ngoại quốc. Trong thời gian đó, một lượng tài nguyên (trên đồ thị là diện tích cc1pp1 ) lẽ ra được dùng vào các ngành sản xuất khác trong nền kinh tế sẽ cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Một tình huống khác được mô tả trong biểu đồ 3-1b. Nước ta học được cách chế tạo ô tô loại nhỏ và chi phí của chúng ta giảm mạnh. Vào năm thứ hai Việt nam đã có thể sản xuất ô tô con với chi phí 8 ngàn USD/chiếc, nghĩa là thấp hơn 200 USD/chiếc so với giá nhập khẩu. Trong trường hợp này cần khuyến khích sản xuất trong nước, mặc dù chi phí bước đầu đang còn cao hơn giá NK. Nhìn theo quan điểm động, lợi ích của việc sản xuất trong nước rất lớn hơn rất nhiều so với sự chênh lệch giữa chi phí sản xuất trong nước với giá NK, trong một vài năm đầu đi vào sản xuất. Do đó lợi ích thu được của việc sản xuất trong nước có thể hoàn toàn bù đắp lại việc Việt nam phải gánh chịu chi phí cao lúc ban đầu. Biểu đồ 3-1b: Trường hợp sản xuất trong nước. Y 15000 C 10000 P R P1 C1 2 4 6 8 10 X năm Thực tiễn có thể không giống những gì đã xảy ra như đã mô tả trong tình huống trên.Trái lại, việc sản xuất ô tô con trong nước có thể cân nhắc thận trọng hơn. Bởi vì trong 5 năm đầu chi phí sản xuất vẫn cao hơn giá NK. Các doanh nghiệp chỉ bắt đầu có chút ít lãi sau 5 năm. Vấn đề là có đang để mất tài nguyên ở quy mô CPR (trong biểu đồ 3-1c) trong 5 năm đầu để sau đó thu lợi nhuận hay không? Câu trả lời còn phụ thuộc vào xã hội và doanh nghiệp đánh giá như thế nào đối với lợi ích trước mắt và lâu dài. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc sản xuất sản phẩm gì phần lớn phụ thuộc vào nhà lập kế hoạch Trung ương đề ra. Còn trong nền kinh tế thị trường những quyết định cơ bản về sản xuất, đầu tư, mua và bán... đều do các xí nghiệp định đoạt. Biểu đồ 3-1c: Trường hợp lựa chọn có tác động của thuế quan Y 15000 C T1 T R1 P P1 R C1 5 10 X năm Vậy các xí nghiệp sẽ phản ứng ra sao với các tình huống khác nhau trên? Nếu như không có sự can thiệp của Nhà nước như: Không đánh thuế XK, NK, không bù lỗ hay trợ cấp thì trong trường hợp 1, không một doanh nghiệp nào lại đầu tư vào sản xuất ô tô con trong nước. Bởi vì, họ không đủ sức giảm chi phí để cạnh tranh với hàng NK. Còn trong tình huống thứ 2, dù không có sự bảo hộ của thuế quan bù lỗ hay trợ cấp, doanh nghiệp vẫn sẽ đầu tư vào sản xuất ô tô con. Bởi lẽ, các khoản lỗ sẽ không kéo dài quá lâu và không quá lớn. Lợi nhuận sau đó lớn hơn nhiều so với khoản lỗ lúc ban đầu. Như vậy, cả trong hai trường hợp hình như không cần sự can thiệp đặc biệt của Nhà nước. Chỉ vì, muốn thu lợi nhuận tối đa cho bản thân, các doanh nghiệp sẽ làm điều mà một nhà vạch kế hoạch Trung ương tài giỏi cũng muốn làm. Bây giờ ta xét lại trường hợp thứ 3. Nếu nền kinh tế có định hướng về tương lai sẽ nên đầu tư vào sản xuất ô tô con trong nước, vì lợi nhuận quá lớn sau một số năm hoạt động. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp sản xuất ô tô có thể không có được các nguồn tài chính để chịu đựng 5 năm thua lỗ nhằm đạt được, giả sử 10 năm sau có lãi. Trong trường hợp này để hỗ trợ cho nhà sản xuất ô tô con trong nước Nhà nước có thể đánh thuế 50% đối với ô tô con NK trong vòng 5 năm với đường biểu diễn giá cả mới TT1 khoản lỗ của doanh nghiệp giảm đi (chỉ còn CTR1) chứ không phải toàn bộ CPR như trước đây và lợi nhuận doanh nghiệp sẽ gia tăng (R1RT1 và RC1P1). Cần lưu ý rằng các chi phí đối với xã hội CPR vẫn nguyên như cũ, song chi phí tư nhân đối với doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất ô tô con trong nước đã trở thành nhỏ hơn CTR1 nhờ vào thuế quan của Nhà nước. Như vậy, một mức thuế đánh vào hàng hoá XNK có tác động rất lớn với việc sản xuất một loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước thay thế cho việc NK trước đó và tạo điều kiện cho việc XK một khi nó cạnh tranh được cả trên thị trường nước ngoài. 2. Tạo nguồn thu dồi dào cho ngân sách. Cho dù người ta bàn cãi nhiều về thuế song bất cứ ai cũng phải công nhận thuế bao giờ cũng là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Trong những nước mà hệ thống thuế chưa phát triển thuế XNK gần như được xem là một nguồn thu quan trọng trong ngân sách của Chính phủ. Ví dụ: ấn Độ 28,5%, Philíppin 24%,Thái Lan 23%, MaLaiXia 17%, Đài Loan 14%. Trong khi đó các nước giàu có: Mỹ 1,4%, Anh 0,07%, Canađa 1,7%, Pháp 0,03%. ở Việt nam do mở rộng hoạt động ngoại thương nên nguồn thu từ thuế XNK cũng tăng lên qua các năm và đóng góp phần đáng kể vào ngân sách. Để giữ đúng vai trò là nguồn thu dồi dào trong ngân sách của Chính phủ thì phải chú ý đến hai vấn đề có tính nguyên lý sau: Một là, về phương diện người chịu thuế thuế suất cần phải hạ làm sao để người chịu thuế bớt cảm thấy ghánh nặng của thuế. Hai là, đối với Nhà nước thuế suất phải đem đến một năng suất thu tối đa mà không cản trở, thậm chí còn kích thích sự phát triển kinh tế- xã hội. Thuế không giết thuế mà trái lại thuế phải nuôi thuế. Thoạt nhìn tưởng hai nguyên tắc này mâu thuẫn nhau. Để phân định cẩn thận, hãy xem xét đến những lập luận của phái trọng cung- xuất hiện những năm 80 của thế kỷ XX- mà ArthurLaffer là người lãnh đạo lập luận rằng tác động của thuế được biểu thị theo “đường cong Laffer” sau: Thuế suất 100% C 50% A B 0 S thu thuế Đường cong Laffer cho thấy: Khi thuế suất bằng 0% ngân sách Nhà nước không thu được đồng nào. Khi thuế suất là 100% không ai dại gì kinh doanh, nên thu nhập về thuế cũng bằng 0. Thế thì điều gì sẽ xảy ra trong khoảng thuế suất từ 0- 100%. Theo Laffer, khi thuế suất tăng lên bắt đầu từ 0% thì tổng thu thuế tăng th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0033.doc