Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội

 

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI 1

1. Tính cấp thiết của đề tài. 1

2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài. 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 5

4. Phương pháp nghiên cứu. 5

5. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được. 6

6. Bố cục đề tài. 6

NỘI DUNG ĐỀ TÀI 7

CHƯƠNG I 7

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP. 7

1. Khái niệm và phân loại vốn. 7

2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp. 10

2.1. Đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. 10

2.2. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 13

2.3. Đối với việc tăng tài sản của doanh nghiệp. 14

3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. 16

3.1. Quy mô của doanh nghiệp. 16

3.2. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. 18

3.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 19

3.4. Uy tín của doanh nghiệp. 19

3.5. Tình hình thị trường. 20

3.6. Cơ chế chính sách của nhà nước. 21

4. Các tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp. 22

5. Các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận. 23

5.1. Kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp. 23

5.1.1. Lợi nhuận để lại của công ty. 23

5.1.2. Vốn dự phòng. 25

5.1.3. Khấu hao. 26

5.1.4. Tăng vốn. 28

5.2. Kênh huy động vốn từ bên ngoài. 30

5.2.1. Phát hành cổ phiếu. 30

5.2.2. Góp vốn hiện vật. 32

5.2.3. Vay tín dụng ngân hàng. 33

5.2.4. Vay tín dụng thương mại. 34

5.2.5. Phát hành trái phiếu. 37

5.2.6. Thuê mua. 38

CHƯƠNG II 40

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG 40

VỐN CỦA DOANH NGHIỆP. 40

1.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 40

1.1.Lĩnh vực xây lắp. 40

1.1.1. Thực trạng hoạt động. 40

1.1.2. Đánh giá. 43

1.2. Lĩnh vực thương mại. 44

1.2.1. Thực trạng hoạt động. 44

1.2.2. Đánh giá. 46

2. Thực trạng huy động vốn của doanh nghiệp trong những năm qua. 47

2.1. Trích từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp. 47

2.1.1. Thành tựu đạt được. 48

2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn. 49

2.2. Vay tín dụng thương mại. 50

2.2.1. Thành tựu đạt được. 50

2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn. 51

2.3. Vay tín dụng ngân hàng. 52

2.3.1. Thành tựu đạt được. 52

2.3.2. Những thuận lợi và khó khăn. 53

3. Đánh giá thực trạng huy động vốn từ các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp đã tiếp cận. 54

3.1. Những thành tựu đạt được và những hạn chế. 54

3.2. Nguyên nhân của các hạn chế. 55

3.3. Những thuận lợi khó khăn. 56

4. Kinh nghiệm huy động vốn của các doanh nghiệp khác. 58

CHƯƠNG III 62

NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ MỞ RỘNG CÁC KÊNH HUY 62

ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP. 62

1. Định hướng, mục tiêu và dự báo nhu cầu vốn trong tương lai của doanh nghiệp. 62

1.1. Định hướng hoạt động của doanh nghiệp. 62

1.2. Mục tiêu của doanh nghiệp trong tương lai. 62

1.3. Dự báo nhu cầu vốn của doanh nghiệp. 64

2. Giải pháp để khai thác hiệu quả các kênh huy động vốn hiện tại. 65

3. Giải pháp để tiếp cận các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp chưa khai thác. 66

3.1. Mở rộng hội đồng cổ đông. 66

3.2. Phát hành trái phiếu. 67

3.3. Liên doanh hợp tác. 67

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 69

 

 

doc74 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo phương pháp này, doanh nghiệp sẽ trích khấu hao nhiều vào các năm đầu sử dụng tài sản, sau đó chi phí khấu hao giảm dần cho những năm kế tiếp. Với đặc tính đó thì việc huy động vốn từ nguồn khấu hao có những ưu điểm sau. Thứ nhất việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp sớm thu hồi được tài sản cố định. Vì khi doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nhanh thì giá trị tài sản cố định trong những năm đầu của quá trình sản xuất nhờ vậy mà trong thời gian ngắn thì doanh nghiệp có thể thu hồi được lượng vốn đã bỏ ra để mua sắm tài sản cố định, mặt khác khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được những thiệt hại do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra. Nhất là đối với máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất khi mà hiện nay khoa học công nghệ thay đổi diễn ra từng ngày thì máy móc thiết bị rất nhanh bị lạc hậu, lỗi thời và mất giá trị do vậy mà việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp không những thu hồi được tài sản cố định sớm mà còn tránh được những rủi ro từ việc thay đổi công nghệ gây ra. Một ưu điểm nữa của phương thức huy động vốn từ nguồn khấu hao này là tiết kiệm đầu tư thay thế tài sản hao mòn và đầu tư mới khác. Vì khi tài sản để lâu thì không thể tránh được những hao mòn do cả vô hình và hao mòn hữu hình gây ra vì vậy mà khi ta huy động vốn từ nguồn khấu hao tức là khấu hao nhanh sẽ giúp rút ngắn thời gian thu hồi vốn, giảm được những hao mòn vô ích do thời gian gây ra nhờ vậy mà tiết kiệm được khoản tiền đầu tư bù đắp những hao mòn. Bên cạnh những ưu điểm đó thì phương thức huy động vốn này cũng có những nhược điểm nhất định. Đó là việc tính khấu hao quá nhanh sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì khi tính khấu hao quá nhanh tức là phần giá trị của tài sản cố định khi chuyển hoá vào giá thành sản phẩm sẽ tăng lên do vậy mà làm tăng giá thành sản phẩm từ đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh về giá cho sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó mà sẽ ảnh hưởng tới thì trường và doanh thu của doanh nghiệp. 5.1.4. Tăng vốn. Tăng vốn là việc tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng cách huy động vốn từ các cổ đông cũ và mới. Việc tăng vốn này của doanh nghiệp không thể diễn ra thường xuyên được vì ta không thể lúc nào cũng kêu gọi các cổ đông đóng góp thêm vốn như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các cổ đông trong công ty. Mặt khác khi huy động thêm vốn mới từ các cổ đông mới cũng sẽ gặp phải khó khăn khi mà thêm cổ đông điều đó đồng nghĩa với việc làm giảm cổ tức của các cổ đông cũ. Tuy nhiên việc huy động vốn từ việc huy đông vốn góp của các cổ đông có những ưu điểm sau. Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ việc huy động vốn của các cổ đông cũ và mới của công ty là việc huy động vốn từ nguồn này của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn huy động thêm này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn huy động sự góp vốn của các cổ đông này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì phần vốn từ tăng vốn này là vốn của doanh nghiệp do vậy mà nó làm tăng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên nó có những nhược điểm sau. Không phải lúc nào cũng có thể huy động được vì việc huy động vốn từ các cổ đông mới không phải là dễ dàng nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố thứ nhất là cần phải có sự đồng ý của các cổ đông hiên thời của công ty. Rõ ràng khi mà kêu gọi thêm cổ đông mới gia nhập vào công ty thì sẽ có sự tranh chấp về quyền lợi giữa các cổ đông cũ và mới khi mà phải xác định phương thức chia cổ tức cho các cổ đông cũ và mới sao cho hợp lý, bên cạnh đó còn có sự xung đột về quyền lãnh đạo trong công ty giữa các cổ đông vì vậy mà việc kêu gọi thêm các cổ đông mới vào công ty cần có sự nhất trí của các cổ đông cũ. Thêm vào đó là việc muốn kêu gọi cổ đông mới gia nhập vào công ty thì ngoài sự đồng ý của hội đồng cổ đông ra còn có điều kiện nữa là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải tốt. Khi mà công ty có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt thì mới có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, họ mới có thể tham gia vào công ty. Ngược lại khi mà công ty hoạt động không tốt thì không dễ để kêu gọi đầu tư. Một nhược điểm khác của phương thức này là việc tăng vốn bằng việc kêu gọi cổ đông mới vào sẽ làm giảm lãi cổ tức chia cho các cổ đông. Thêm vào đó là việc kêu gọi các cổ đông cũ đóng góp thêm vốn không phải lúc nào cũng làm được ngay cả khi công ty đang hoạt đông tốt và có nhu cầu mở rộng. 5.2. Kênh huy động vốn từ bên ngoài. Ngoài kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì kênh huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp là rất quan trọng vì khi mà nguồn vốn từ nội bộ đã bị hạn chế, bó hẹp không thể phát triển thêm được nữa thì kênh huy động vốn từ bên ngoài này là lối thoát tốt cho mỗi doanh nghiệp khi mà muốn huy động thêm vốn đầu tư vào các dự án đầu tư của mình theo đó thì kênh huy động vốn bên ngoài này bao gồm các kênh chủ yếu sau đây. 5.2.1. Phát hành cổ phiếu. Là việc doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính. Việc phát hành cổ phiếu này có thể là doanh nghiệp mới phát hành lần đầu lên thị trường chứng khoán hoặc là phát hành thêm cổ phiếu. Khi mà nhu cầu vốn của doanh nghiệp không được đáp ứng bởi nguồn vốn nội bộ, doanh nghiệp có thể thu hút nguồn vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Điều này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Có ba loại cổ phiếu: cổ phiếu có tên, cổ phiếu ưu tiên và cổ phiếu phổ thông. Phát hành cổ phiếu sẽ làm giảm sở hữu của các cổ đông hiện tại của công ty cổ phần, do vậy việc phát hành cổ phiếu phải được sự đồng ý của các cổ đông. Việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn có những ưu điểm như là. Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ huy động được lượng vốn lớn. Vì khi mà doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ thu hút được các nhà đầu tư quan tâm mua cổ phiếu của công ty do vậy mà lượng vốn thu được từ việc phát hành cổ phiếu là tương đối lớn. Một ưu điểm nữa của việc phát hành cổ phiếu lá nó sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra bên ngoài cũng gần như việc doanh nghiệp kêu gọi thêm các cổ đông mới góp vốn vào công ty chỉ có điều kháclà những người nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công ty. Nhờ có lượng vốn lớn này mà doanh nghiệp sở hữu thêm được một lượng vốn lớn do vậy mà vốn chủ sở hữu của công ty được tăng lên. Việc phát hành cổ phiếu này vừa làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty vừa giúp cho doanh nghiệp có được vốn để đầu tư vào các dự án kinh doanh hay mua sắm tài sản cố định mới Vừa làm giảm tranh chấp về quyền lãnh đạo khi mà những nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công ty. Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm sau. Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán dù là phát hành mới hay là phát hành thêm thì nó đều gây tốn kém và mất thời gian. Vì khi muốn phát hành cổ phiếu thì công ty phải tiến hành những khâu chuẩn bị nhất định, tiến hành xin giấy phép với nhà chức trách và cũng phải tiến hành khảo sát thị trường, xem phản ứng của các nhà đầu tư với cổ phiếu của công ty. Do vậy mà nó sẽ gây tốn kém cho công ty. Thêm vào đó nó cũng phải tiến hành lâu dài vì ta không thể tiến hành nhanh chóng được. Một nhược điểm nữa là nó sẽ làm giảm giá trị thị trường của cổ phiếu của công ty với những công ty đã tham gia thị trường chứng khoán thì khi mà phát hành thêm cổ phiếu cũng có nghĩa là làm tăng lượng cung cổ phiếu của công ty nó sẽ rất dễ dẫn đến làm cho các cổ phiếu cũ và những cổ phiếu mới lên sàn bị giảm giá từ đó mà dẫn đến làm cho uy tín của doanh nghiệp bị suy giảm nếu như tình trạng đó kéo dài. Việc phát hành cổ phiếu dù là mới hay là phát hành thêm cũng làm giảm sở hữu của các cổ đông cũ của công ty. Vì khi phát hành cổ phiếu ở đây cũng chính là phần sở hữu của các cổ đông trong công ty giảm xuống và nhường quyền sở hữu đó cho các cổ đông khác. Việc phát hành cổ phiếu thì thường có quy định về mặt pháp lý. Vì nhà nước cần có những chế tài quản lý để tránh những tình trạng các công ty phát hành quá nhiều cổ phiếu trong khi lượng vốn chủ sở hữu không đủ nó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp phải rủi ro khi đầu tư. Vì vậy việc phát hành cổ phiếu này không phải lúc nào công ty cũng có thể tiến hành được. 5.2.2. Góp vốn hiện vật. Là việc tăng vốn cho doanh nghiệp bằng việc tăng lượng vốn bằng hiện vật nhờ sự đóng góp của các cổ đông hoặc đối tác. Đó là việc góp vốn bằng hiện vật như là nhà xưởng, máy móc thiết bị Nó cho phép doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu sử dụng vốn tức là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp nhưng nó không mang lại phương tiện tiền tệ cho doanh nghiệp. Việc góp vốn hiện vật này có ưu điểm là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải bỏ vốn ra mua. Vì khi mà việc góp vốn bằng hiện vật này là nhà góp vốn đem những tài sản của mình góp vào công ty, và công ty sẽ đánh giá xem phần tài sản đó đáng giá bao nhiêu để từ đó ghi nhận cho người góp vốn. Việc góp vốn bằng hiện vật không những làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp mà nó còn làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng có những nhược điểm là việc góp vốn bằng hiện vật này không làm tăng được vốn lưu động cho doanh nghiệp. 5.2.3. Vay tín dụng ngân hàng. Vay tín dụng ngân hàng chính là việc doanh nghiệp tiến hành đi vay vốn của các tổ chức tài chính tín dụng, mà lượng vốn vay chủ yếu ở đây là vốn lưu động dưới dạng tiền tệ. Vay ngân hàng chính là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vốn vay ngân hàng có thể là vay ngắn hạn dưới một năm thông qua thị trường tiền tệ và vay dài hạn trên một năm thông qua thị trường vốn. Việc sử dụng vốn vay ngân hàng có nhiều ưu điểm. Do các tổ chức tín dụng ngân hàng tài chính là những tổ chức chuyên cho vay tiền tệ nên họ luôn có sẵn những lượng vốn lớn trong công ty do vậy mà họ có thể sẵn sàng cho vay những khoản tiền lớn khi mà doanh nghiệp có nhu cầu chỉ cần doanh nghiệp đáp ứng được với những điều kiện mà các ngân hàng đưa ra. Do vậy đây là ưu điểm lớn nhất của hình thức này. Ưu điểm thứ hai là dễ dàng tiếp cận vì hiện nay hệ thống tài chính tín dụng khá là phát triển khi mà có rất nhiều các ngân hàng cổ phần hoạt động trên thị trường thêm vào đó là cơ chế chính sách khá là thông thoáng do vậy mà tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận kênh huy động vốn này. Với việc thủ tục vay vốn ngân hàng hiện nay đã dễ dàng hơn trước và việc thế chấp cũng dễ dàng hơn. Một ưu điểm nữa là việc vay tín dụng ngân hàng được coi như là một đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên nó có nhiều nhược điểm sau đây. Việc vay tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp phải chịu trả lãi ngân hàng. Vì các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng cũng là những công ty kinh doanh nhưng có điều khác là họ không phải kinh doanh hàng hoá dịch vụ đơn thuần mà là họ kinh doanh tiền tệ do vậy mà lãi suất cho vay chính là giá của sản phẩm mà họ cung cấp. Từ việc phải trả lãi ngân hàng này mà sẽ làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp lên từ đó sẽ làm cho giá thành sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cũng sẽ tăng lên. Vì vậy doanh nghiệp càng đi vay nhiều từ các tổ chức tín dụng ngân hàng thì sẽ không những làm tăng các khoản nợ của mình mà còn sẽ chịu thêm phần chi phí trả lãi ngân hàng từ đó làm giảm lợi nhuận của công ty. Một nhược điểm nữa là việc vay tín dụng ngân hàng này cũng phải chịu những rằng buộc nhất định của các điều kiện cho vay. Vì dù hiên nay cơ chế chính sách cho vay của các ngân hàng đã thông thoáng hơn nhưng các ngân hàng vẫn cần phải có sự đảm bảo do vậy mà khi cho vay các ngân hàng cũng phải đưa ra những điều kiện nhất định trong các khoản vay như là công ty phải trả lãi như thế nào, cơ cấu lại công ty Một nhược điểm nữa của hình thức này là công ty khi đi vay cũng sẽ phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng. Vì ngân hàng cần có sự bảo đảm cho khoản vốn vay của mình có thể được thanh toán do vậy mà ngân hàng phải kiểm soát lượng vốn cho vay của mình đảm bảo cho số vốn được dùng hiệu quả. 5.2.4. Vay tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên thông qua việc mua bán máy móc, trang thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp. Tác động tích cực của nguồn vốn này là. Nó sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa. Vì hình thức vay tín dụng thương mại là vay của các đối tác, các nhà cung cấp hay là những nhà phân phối do vậy mà lượng vốn vay này chủ yếu là vay vốn lưu đông như là nguyên nhiên vật liệu hay hàng hoá Ở đây có thể là mua nguyên vật liệu của nhà cung ứng nhưng chưa thanh toán ngay mà hẹn thanh toán sau đây là việc mượn vốn để kinh doanh do vậy mà nó sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa vì như vậy hàng hoá sẽ không bị tồn kho mà thay vào đó thì hàng hóa luôn được tiêu thụ. Vì vậy nó kích thích tiêu dùng hàng hoá không chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả các nhà cung ứng. Bên cạnh đó nó còn đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và lưu thông. Chính là xuất phát từ ưu điểm ở trên mà nó kéo theo ưu điểm này vì khi mà việc tiêu thụ hàng hóa được đẩy nhanh tức là quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra nhanh hơn, rõ ràng khi mà hàng hoá không tiêu thụ được bị tồn kho quá nhiều (loại trừ yếu tố dự trữ) thì quá trình tái sản xuất sẽ không thể được diễn ra nhanh được vì vốn bị ứ đọng do vậy mà quá trình lưu thông vốn cũng được đẩy nhanh khi mà quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục. Môt ưu điểm nữa là nó làm gia tăng vòng chu chuyển vốn. Rõ ràng khi mà hàng hoá được tiêu thụ một cách nhanh chóng, tiêu thụ hàng hóa được thúc đẩy thì quá trình tái sản xuất được diễn ra nhanh hơn do vậy mà việc thu hồi vốn cũng diễn ra nhanh hơn, khi mà quá trình tái sản xuất được rút ngắn đồng nghĩa với việc vòng chu chuyển vốn cũng được rút ngắn do vậy mà sẽ nâng cao được hiệu quả đồng vốn. Thêm môt ưu điểm nữa là nó sẽ nâng cao được hiệu quả đồng vốn. Vì khi mà hàng hóa được thúc đẩy tiêu thụ làm cho quá trình tái sản xuất được rút ngắn, vốn được lưu thông liên tục vòng chu chuyển vốn được rút ngắn, mà một tiêu chí để nói lên tính hiệu quả của đồng vốn chính là vòng chu chuyển vốn. Vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì hiệu quả đồng vốn càng cao và ngược lại. Tuy có nhiều ưu điểm nêu trên nhưng kênh huy động vốn này vẫn có những nhược điểm đó là. Thứ nhất việc vay tín dụng thương mại này bị hạn chế bởi quy mô vốn của doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà quy mô vốn doanh nghiệp càng lớn thì khả năng vay vốn của doanh nghiệp càng cao vì khi ta muốn đi vay thì phải có những điều kiện đảm bảo cho khoản vay đó. Do vậy mà quy mô vốn cũng chính là điều kiện đảm bảo cho việc đi vay. Đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì khoản vay này cũng không thể nhiều được. Thứ hai là kỳ hạn vay thường là kỳ hạn ngắn. Do đây là khoản vay thương mại hay nói cách khác chính là việc doanh nghiệp tiến hành mua chịu hàng hóa, nguyên vật liệu của nhà cung ứng để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của mình do vậy mà nó khác với các khoản vay tín dụng ngân hàng có kỳ hạn dài do vậy mà ta không thể chịu tiền hàng của các đối tác quá lâu được vì các đối tác cũng phải tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Nó cũng chịu sự rằng buộc bởi thời gian của vòng chu chuyển vốn. Vì vòng chu chuyển vốn nói lên vòng quay của sản phẩm, nói lên quá trình tái sản xuất của sản phẩm do vậy mà việc vay tín dụng thương mại không thể kéo dài được vì đây chủ yếu là những khoản vay nguyên vật liệu để phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất. Một nhược điểm nữa là chịu sự rằng buộc của đối tác cho vay. Nói chung thì đây cũng là một điểm chung của các khoản vay vì ta không thể vay mà không chịu sự rằng buộc của người cho vay. 5.2.5. Phát hành trái phiếu. Là việc vay vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu để vay nợ trên thị trường tài chính. Vay thông qua trái phiếu là một hình thức vay dài hạn. Thông thường lãi suất đối với trái phiếu là cố định và lãi suất được ghi trên trái phiếu, ngoài ra còn có trái phiếu với lãi suất thay đổi. Trái phiếu có lãi suất cố định là loại hình trái phiếu doanh nghiệp phổ biến nhất. Để huy động vốn trên thị trường trái phiếu các doanh nghiệp cần phải xem xét mức độ hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp. Mức độ hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp phụ thuộc vào lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu, uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp. Việc phát hành trái phiếu có những ưu điểm sau. Phát hành trái phiếu có thể huy động được lượng vốn lớn khi mà việc phát hành thành công. Vì khi mà doanh nghiệp xác định phát hành trái phiếu doanh nghiệp để vay nợ trên thị trường vốn thì số lượng vốn theo dự kiến thu được sẽ phải lớn. Một ưu điểm nữa của việc phát hành trái phiếu là thời gian vay vôn dài, nó sẽ là một thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng vốn vì không phải lo trả nợ trong quá trình sử dụng vốn và hoạt động. Sở dĩ như vậy là doanh nghiệp cần có thời gian để có thể kinh doanh đảm bảo sinh lợi. Một ưu điểm khác là lãi suất của trái phiếu thường là lãi suất cố định, kéo dài trong suốt kỳ vay do vậy mà tạo lợi thế cho doanh nghiệp khi đi vay. Song nó cũng có những nhược điểm như. Sự hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp phụ thuộc vào lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu uy tín và danh tiếng của công ty, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì việc phát hành trái phiếu có thành công hay không thì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như uy tín và danh tiếng của công ty. Do vậy mà rất khó cho những doanh nghiệp mới tham gia thị trường có thể thâm nhập vào kênh huy động vốn này. Hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả cao do vậy mà không dễ gì thực hiện thành công. Và lãi suất của trái phiếu thường phải cao vì hai lý do thứ nhất là lãi suất phải cao thì mới có thể thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm vào trái phiếu do công ty phát hành và đầu tư vào đó. Thêm nữa là lãi suất phải cao để đảm bảo có thể loại trừ các yếu tố như lạm phát, và lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp cũng thường phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng vì nếu không thì người ta thà gửi tiền vào ngân hàng vừa an toàn lại tiện lợi. Thêm vào đó kỳ hạn của trái phiếu cũng là yếu tố quan trọng nếu kỳ hạn của trái phiếu quá dài sẽ không thu hút được các nhà đầu tư quan tâm nhưng kỳ hạn quá ngắn thì lại không đủ thời gian cho doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thu hồi vốn do vậy mà xác định kỳ hạn bao lâu là hợp lý cũng không phải là vấn đề đơn giản. 5.2.6. Thuê mua. Hiện nay, để đảm bảo mở rộng nhu cầu sản xuất hoặc hiện đại hoá sản xuất, các doanh nghiệp còn có thể lựa chọn hình thức thuê mua. Đây là công cụ tài chính rất hiệu quả được sử dụng ở các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Việt Nam hình thức thuê mua chưa phổ biến. Thực chất, thuê mua là hợp đồng thuê tài sản cố định có kèm theo các điều kiện đặc biệt liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cố định tại một thời điểm nhất định. Khi hết hạn hợp đồng doanh nghiệp có thể trả lại tài sản cố định cho bên thuê hoặc mua lại tài sản cố định đó. Trong hợp đồng thuê mua thường có ba tác nhân tham gia: Bên đi thuê, ngân hàng và các công ty cho thuê. Hình thức thuê mua mặc dù không làm tăng nguồn vốn, cũng không làm tăng giá trị tài sản cố định, tuy nhiên nó cho phép doanh nghiệp thoả mãn một số nhu cầu về thay đổi năng lực sản xuất. Hình thức thuê mua này có một số ưu điểm sau. Thoả mãn được nhu cầu của công ty trong việc thay đổi năng lực sản xuất. Vì với hình thức thuê mua này thì doanh nghiệp có thể có được quyền sử dụng tài sản cố định như máy móc thiết bị, để nâng cao năng lực sản xuất, thay đổi công nghệ sản xuất từ đó mà có được năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm. Với việc không phải bỏ ra một lượng vốn lớn cùng lúc để mua sắm tài sản cố định mới thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp không phải bị động trong việc huy động vốn. Doanh nghiệp không phải bỏ lượng vốn lớn mà vẫn có được dây chuyền sản xuất mới từ đó mà nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy sản xuất phát triển. Song nó cũng có những nhược điểm là. Cho dù vậy thì mặc dù có được quyền sử dụng tài sản cố định mới này nhưng không làm tăng tổng giá trị tài sản cố định cho doanh nghiệp vì số tài sản cố định này là doanh nghiệp đi thuê. Đồng thời nó cũng không làm tăng vốn lưu động ròng cũng như nguồn vốn cho doanh nghiệp vì bản thân đây không phải là tài sản của doanh nghiệp nên không thể làm tăng nguồn vốn được. Đồng thời với việc đây là tài sản đi thuê nên hàng năm công ty phải trả lãi cho bên cho thuê do vậy mà khiến cho chi phí sản xuất tăng lên làm cho giá thành sản phẩm tăng lên khiến cho khả năng cạnh tranh bị ảnh hưởng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP. 1.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội là một công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp các công trình điện và cung cấp các thiết bị ngành điện do vậy mà công ty có hai lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là xây lắp và thương mại. Với mỗi lĩnh vực đều có những đặc thù khác nhau do vậy mà việc phân tích đánh giá cũng khác nhau. Trong mỗi lĩnh vực có những ưu thế riêng. 1.1.Lĩnh vực xây lắp. 1.1.1. Thực trạng hoạt động. Do đặc thù của công ty là hoạt động trong lĩnh vực xây lắp các công trình điện nhưng công ty đã có những bước đi vững chắc trong quá trình hoạt động và đã có được những thành tựu nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thị trường hoạt động của công ty. Mặc dù công ty mới được thành lập từ năm 2000 và đi vào hoạt động chưa lâu nên thị trường kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn nhỏ bé. Bước đầu thị trường hoạt động chủ yếu của công ty là ở thành phố Hà Nội với những công trình điện cho các nhà cao tầng, hay hệ thống điện giao thông, hệ thống điện sinh hoạt nhưng qua từng năm hoạt động thì thị trường hoạt động của công ty đã được mở rộng lên rất nhiều tính đến cuối năm 2006 thì công ty đã mở rộng thị trường ra các tỉnh thành phía bắc, công ty đã thực hiện xây lắp những công trình điện ở các tỉnh như Hải Dương, Thái Nguyên, Bắc Giang Do vậy mà thị trường đã được mở rộng không ngừng, tới đây công ty đang hy vọng sẽ có thể mở rộng thị trường ra các tỉnh thành phía tây bắc và bắc trung bộ. Với sự mở rông thị trường như vậy hy vọng trong tương lai sẽ có được những thành công đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội. Sở dĩ thị trường được mở rộng như vậy là do sự cố gắng nỗ lực không ngừng của toàn thể ban lãnh đạo công ty cũng như đội ngũ công nhân viên trong công ty. Với việc luôn cố gắng hoàn thành tốt nhất những công trình nhận được tạo niềm tin với khách hàng nhờ đó mà tạo được uy tín trên thị trường không chỉ về tiến độ công trình mà còn cả về chất lượng công trình luôn được đảm bảo. Nhờ có thị trường được mở rộng qua các năm lên doanh thu từ hoạt động xây lắp của công ty cũng luôn không ngừng tăng lên nếu như doanh thu của năm đầu tiên đi vào hoạt động chỉ đạt mức một tỷ đồng thì đến năm 2003 doanh thu từ hoạt động xây lắp đã đạt đến bốn tỷ đồng và tính đến cuối năm 2006 thì doanh thu đã đạt đến con số 6,5 tỷ đồng. Sở dĩ doanh thu không ngừng tăng lên là do số lượng công trình mà công ty thực hiện đã không ngừng tăng lên nếu như năm đầu tiên công ty chỉ thực hiện có ba công trình lớn và hơn chục công trình nhỏ thì đến năm 2003 số lượng công trình mà công ty thực hiện đã đạt hơn 10 công trình lớn và nhiều công trình nhỏ khác. Tính đến cuối năm 2006 vừa qua thì công ty đã hoàn thành hơn mười công trình lớn và hàng chục công trình nhỏ từ đó đưa doanh thu từ hoạt động xây lắp lên gần bảy tỷ đồng. Cùng với việc doanh thu tăng lên và là lĩnh vực chiếm doanh thu cao nhất của công ty, điều này là dễ hiểu khi mà công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp điện. Cũng nhờ có doanh thu cao mà lợi nhuận từ lĩnh vực này cũng tăng lên rất nhiều chiếm phần lớn lợi nhuận trong công ty. Một phần vì doanh thu cao một phần vì trong quá trình thi công công ty đã cố gắng sáng tạo trong những hạng mục xây lắp để tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, do vậy mà công ty mới đạt đượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5282.doc
Tài liệu liên quan