Những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời mở đầu: 1

Chương I . Tổng quan về thị trường chứng khoán: 2

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển . 2

1.2. Bản chất và chức năng . 4

1.2.1. Bản chất . 4

1.2.2. Chức năng của thị trường chứng khoán . 4

1.3 . Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán . 5

1.3.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn 5

1.3.2. Nhà đầu tư 6

1.3.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán 6

1.3.4 .Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 7

1.4.1. Nguyên tắc trung gian của mua bán chứng khoán. 8

1.4.2. Nguyên tắc đấu giá 9

1.4.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán. 10

1.5.2. Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, TTCK có ba loại: 12

1.6.1. Cổ phiếu . 12

1.6.2. Trái phiếu 13

1.6.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư 14

1.6.5. Các chứng khoán phát sinh . 14

Chương II: Thị trường chứng khoán Việt Nam 16

2.1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 16

2.2.Những thuận lợi và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam 26

2.2.1.Thuận lợi 26

2.2.2 Khó khăn 27

2.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau khi gia nhập WTO 27

2.4. Những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam . 28

Kết luận 30

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra. Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm. Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban chứng khoán để điều tra xử lý. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: - Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. - Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán. - Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. - Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. 1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán. 1.4.1. Nguyên tắc trung gian của mua bán chứng khoán. Thị trường chứng khoán hoặt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện, mà do các trung gan môi giới gọi là kinh kỹ thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoặt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc trung gian này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ được lợi ích của người tiết kiệm và đầu tư (người mua chứng khoán). Vì những người tiết kiệm và đầu tư không thể xét đoán được giá trị thực sự của từng loại chứng khoán, và cũng không có thể cự đoán được một cách chính xác giá trị tương lai của nó. Do đó, nếu không có những nhà môi giới có những sự phân tích cần thiết dựa trên những yếu tố xác đáng để có những nhận xét kỹ lưỡng thì người mua chứng khoán có thể bị lầm lẫn hoặc bị lừa gạt. Xét về tính chất kinh doanh, kinh kỹ có hai loại: môi giới chứng khoán và chuyên gia chứng khoán . Môi giới chứng khoán: Là loại kinh kỹ chỉ được thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn hoa hồng. Thương gia chứng khoán: Còn gọi là kinh doanh chứng khoán, là loại kinh kỹ thực hiện mua và bán cho chính mình, hưởng lời từ các loại nghiệp vụ đó. Người môi giới và thương gia chứng khoán tại sàn giao dịch chứng khoán là những người đại diện cho các công ty môi giới chứng khoán. Nói chung các cong ty môi giới chứng khoán đều đồng thời thực hiện hai loại nghiệp vụ: vừa là người môi giới vừa là người kinh doanh. 1.4.2. Nguyên tắc đấu giá Mọi mua bán trên thị trường trường chứng khoán đều được thực hiện theo nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Căn cứ vào hình thức đấu giác, có các loại đấu giá: Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông qua người trung gian tại quầy giao dịch để thương lượng giá Đấu giá gián tiếp: hình thức đấu giá mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau mà việc thương lượng được thực hiện qua hệ thống điện thoại và mạng vi tính . Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính nối giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống của các công ty chứng khoán thành viên . 1.4.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành số lượng chứng khoán và giá cả từng loại chứng khoán (giá rao bán, giao mua, giá kết thúc của phiên giao dịch và giá cả trước đó) đều được thông báo thông qua thị trường và báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng chứng khoán được mua bán và giá cả đã thống nhất được lập tức thông báo ngay. Đó là nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán, người mua chứng khoán dễ dàng chọn lựa loại chứng khoán theo ý thích của mình. 1.5 . Cấu trúc và phân loại cơ bản thị trường chứng khoán 1.5.1. Xét về sự lưu thông của CK trên thị trường, TTCK có hai loạI: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành - bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư. Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Nhà phát hành là người huy động vốn trên thị trường sơ cấp, gồm chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty và các tổ chức tài chính. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp bao gồm cá nhân, tổ chức đầu tư. Tuy nhiên, không phải nhà phát hành nào cũng nắm được các kiến thức và kinh nghiệm phát hành. Vì vậy, trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng khán. Nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp cho nhà phát hành thực hiện việc phân phối chứng khoán mới phát hành và nhận từ nhà phát hành một khoản hoa hồng bảo lãnh phát hành cho dịch vụ này. Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch. Đây là thị trường mua bán các loạI chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nghĩa là thị trường thứ cấp là nơi làm cho các chứng khoán trở nên ‘lỏng’ hơn. Thị trường thứ cấp là nơi xác định giá của mỗi loại chứng khoán mà công ty phát hành chứng khoán bán ở thị trường thứ cấp. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp chỉ mua cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng khoán này. C«ng ty chøng kho¸n HÖ thèng ®¨ng ký, thanh to¸n, bï trõ vµ l­u ký chøng kho¸n Nhµ ®Çu t­ Nhµ ®Çu t­ cã tæ chøc Nhµ ®Çu t­ c¸c nh©n ThÞ tr­êng thø cÊp SGDCK OTC ThÞ tr­êng thø ba Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai bánh xe của một chiếc xe.thị trương sơ cấp là bánh động lực còn thị trường thứ cấp là bánh cân bằng.Như vậy thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tạI, trong đó thịtrường sơ cấp là tiền đề còn thị trường thứ cấp là động lực. 1.5.2. Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, TTCK có ba loại: Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường CK “bậc cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông. Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do. 1.6. Các loại chứng khoán . 1.6.1. Cổ phiếu . Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản công ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính: -Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản trị công bố. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi. -Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức trước các cổ phiếu thường. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu thường. 1.6.2. Trái phiếu Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi và hoàn trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn. Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau: - Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành). - Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả năng chuyển. - Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành các loại sau: +Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố định theo định kỳ. +Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ. +Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập (nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩan - mệnh giá trái phiếu và giá mua). - Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm. 1.6.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư Theo ngôn ngữ thông thường, một khối lượng tiền do nhiều người góp lại vì mục đích nào đó gọi là một quỹ. Quỹ đầu tư chứng khoán cũng vậy nó là quỹ được hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Đặc điểm: -Người đầu tư không trực tiếp đầu tư vào chứng khoán mà chỉ đầu tư vào quỹ bằng cách mua cổ phần hay chứng chỉ -Người đầu tư sẽ được hưởng lợi từ kết quả đầu tư của quỹ, theo số lượng cổ phần hay chứng chỉ quỹ mĩnh nắm giữ. 1.6.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi . Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định có thể đổi lấy 1 chứng khoán khác . 1.6.5. Các chứng khoán phát sinh . Quyền mua cổ phần: là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của 1 công ty cổ phần được mau 1 số lượng cổ phần nhất trong 1 đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty. Chứng quyền: là 1 loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua 1 số lượng xác định một loại chứng khoán xác định với 1 mức giá xác định và trong 1 khoảng thời gian nhất định . Hợp đồng kỳ hạn: hợp đồng kỳ hạn là 1 thoả thuận trong đó người mua và người bán chấp nhận thực hiện 1 giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại 1 thời điểm xác định trong tương lai và 1 mức giá xác định được ấn định trong ngày hôm nay . Hợp đồng tương lai: đòi hỏi 1 bên sẽ mua hoặc bán hàng hoá tại 1 thời hạn xác định trong tương lai theo 1 mức giá đã định trước . Quyền lựa chọn: là 1 hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (quyền chọn mua) hoặc bán (quyền chọn bán) 1 khối lượng nhất định, 1 hàng hoá nhất định tại 1 mức giá xác định và trong 1 thời hạn nhất định . Trên đây là nhừng lý thuyết cơ bản về về thị trường chứng khoán nói chung . ở phần sau chúng ta sẽ tìm hiểu về thị trường chứng khoán Việt Nam . Chương II: Thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Ngày 20/07/2000 trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức đi vào hoạt động. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt nam, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống nhân hàng. Tuy quy mô thị trường còn nhỏ bé vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn nhưng đây là bước thí điểm, tập dược quan trọng để các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức quốc gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, điều đó tạo nên tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán Việt nam. Để có thể có cái nhìn khái quát về lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, em xin chia ra thành các giai đoạn phát triển để phân tích và nhận xét (do số liệu không đầy đủ nên em chỉ có thể phân tích 1 số giai đoạn d) Từ ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000 - 28/10/2000. Về hàng hoá: Tính đến ngày 28/10/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán có 7 loại chứng khoán được niêm yết.Tổng giá trị của 4 công ty niêm yết đạt đến 302, 80 tỷ đồng trong đó: Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) 150 tỷ đồng, công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SACOM) 120 tỷ đồng, công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) 10, 8 tỷ đồng, công ty cổ phần giao nhận ngoại thương (TMS) 22 tỷ đồng. Về trái phiếu: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ niêm yết 1.100 tỷ đồng bao gồm 3 loại: Loại đấu thầu đợt một (CP1-0100) 300 tỷ đồng lãi suất 6,6%/năm. Loại đấu thầu đợt hai (CP1-0200) 300 tỷ đồng lãi suất 6,6%/năm. Đợt một bảo lãnh phát hành (C P1A0100) 500 tỷ đồng lãi suất 6,6% năm. Tất cả các loại trái phiếu trên đều có kỳ hạn 5 năm. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Giá chứng khoán bị đẩy giá tăng cao liên tục trong từng phiên giao dịch, số lượng cổ phiếu đã giao dịch sau 33 phiên là 1.459.600 cổ phiếu của cả 4 công ty niêm yết và tổng giá trị giao dịch là 28.898, 91 triệu đồng. Chỉ số vn-index tăng 28.27 điểm trong đó giá cả của các loại cổ phiếu điển hình biến động trong thời gian qua như sau: Với 5 loại cổ phiếu là REE, SAM, HAP, TMS, LAF. Bảng 1 So sánh mức giá cổ phiếu giá đóng cửa ngày 27/04/2000 so với giá tham chiếu Loại cổ phiếu Giá tham chiếu Giá đóng cửa ngày 27/10/2000 Tỷ lệ tăng (%) Mức giá (đ) Ngày REE SAM HAP TMS LAF 16.000 17.000 16.000 14.000 17.000 28/07/2000 28/07/2000 04/08/2000 04/08/2000 15/08/2000 19.100 22.800 25.000 19.500 20.500 19,4 34,1 56.25 16 20 Qua bảng số liệu trên nhận thấy giá cả của tất cả 5 loại cổ phiếu đều tăng hướng tốt phản ánh đúng cung cầu thị trường và tâm lý người đầu tư. Nguyên nhân là do khái niệm đầu tư chứng khoán còn rất mới mới mẻ với chúng ta, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán còn hạn chế, người đầu tư tìm cách mua cổ phiếu bằng mọi giá họ chỉ muốn nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán còn những người nắm giữ cổ phiếu lại chưa muốn bán vì chờ diễn biến thị trường. Nhận xét: Thời kỳ này hoạt động giao dịch cổ phiếu nói chung ổn định giá cả chứng khoán được quản lý trong phạm vi cho phép. Tình hình nhu cầu chứng khoán vượt cung cho thấy dấu hiệu tốt về khả năng thu hút đầu tư trên thị trường chứng khoán. Các công ty lựa chọn niêm yết, hoạt động kinh doanh tốt và có lãi cổ phiếu được trả cổ tức cao hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên hàng hoá trên thị trường còn quá ít chưa đáp ứng được nhu cầu mua bán trên thị trường. Từ ngày 28/10/2000 - 28/04/2001. Tính đến ngày 28/04/2001 Trung tâm Giao dịch chứng khoán -Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 80 phiên giao dịch đưa tổng số phiên giao dịch lên 113 phiên với tổnh giá trị giao dịch là 338, 03 tỷ đồng. Có thêm hai loại chứng khoán được niêm yết đưa tổng số chứng khoán niêm yết lên 9 loại trong đó có 5 cổ phiếu của doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá. Và trong thời kỳ này có thêm hai công công ty tham gia niêm yết đó l à: Công Tổng công ty giao nhận kho vận ngoại thương Sài Gòn -Transimex và công Tổng công ty chế biến nông sản xuất khẩu Long An - Lafooco, với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết 321, 17 tỷ đồng. Trái phiếu phát hành thông qua đấu thầu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán kỳ hạn 5 năm, lãi suất 6,5%; 6,6% với khối lượng là 1.100 tỷ đồng, đợt một đưa vào niêm yết 83, 07 tỷ đồng, đợt hai đưa vào niêm yết 75 tỷ đồng. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Trong 113 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 9.053.300 cổ phiếu tăng so với thời kỳ trước 520,26% với giá trị cổ phiếu giao dịch 327, 225 tỷ đồng chiếm 96,8%. Nhìn chung tất cả các loại cổ phiếu đều tăng giá rất nhanh so với giá tham chiếu, mức giá tăng cao nhất là của HAP với mức giá đạt 87.000 đồng /cổ phiếu tương đương mức tăng 444% và giá cổ phiếu tăng ít nhất là của LAF đạt 40.600 đồng /cổ phiếu tương mức tăng 139%. Nguyên nhân của sự tăng giá này do: cung chứng khoán thấp hơn cầu chứng khoán, cách thức phát hành cổ phiếu khi cổ phần hoá còn bát cập, việc định giá cổ phiếu quá thấp so với thực tế, một số các công Tổng công ty niêm yết trả cổ tức quá cao không chú trọng đến việc tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản suất, đã làm cho các nhà đầu tư đổ sô vào mua cổ phiếu với kỳ vọng nhận được cổ tức cao mà bất chấp những nguy cơ tiềm ẩn phía trước. Hoạt động giao dịch trên thị trường trái phiếu: Tính đến tháng 4/2001 khối lưọng trái phiếu giao dịch tăng thêm 107.600 trái phiếu đạt 107.990 nâng giá trị giao dịch lên 10, 818 tỷ đồng chiếm 3,2% tổng giá trị giao dịch. Vào phiên thứ 105 giá trị trái phiếu khoảng 5, 2 tỷ đồng và vào phiên thứ 115 với giá trị 1 tỷ đồng. Nhận xét: trong thời kỳ này tình hình biến động chứng khoán (cổ phiếu) khá sâu sắc tăng cả về giá cả và số lượng cổ phiếu giao dịch. Điểm nổi bật trong thời kỳ này là giá của hầu hết các loại cổ phiếu tăng rất nhanh mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do yếu tố tâm lý và tình trạng cung chứng khoán nhỏ hơn cầu chứng khoán. Trong khi đó giá trái phiếu lại không có xu hướng biến động tốt mà giậm chân tại chỗ. Tuy nhiên tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trên thị trường có tăng nhưng mức tăng còn quá thấp do trái phiếu Chính phủ chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư. Từ ngày 28/04/2000 - 28/07/2001. Hàng hoá trên thị trường: tính đến ngày 28/07/2001 Thị trường Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thêm được 38 phiên giao dịch so với thời kỳ trước nâng tổng số phiên giao dịch lên 151 phiên với 14, 2 triệu cổ phiếu và trên 500 trái phiếu đạt tổng giá trị giao dịch là 727 tỷ đồng. Đến thời điểm này có 5 loại trái phiếu chính phủ và hai loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch trên thị trường. Đã thực hiện được 8 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ thông qua thị trường giao dịch chứng khoán, trong đó đã tổ chức thành công 3 đợt đấu thầu tổng giá trị trái phiếu chính phủ trúng thầu là: 805 tỷ thời hạn lãi suất từ 6,5%/năm đến 7,3%/năm. Có 5 đợt đấu thầu không thành công vì lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo. Bên cạnh đó Kho bạc Nhà nước đã phát hành 2 đợt trái phiếu chính phủ theo hình thức bảo lãnh phát hành với tổng giá trị 700 tỷ đồng. Như vậy đến thời điểm này đã có 1500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán. Nhìn chung giá cả trái phiếu ít có sự biến động đáng kể, xu hướng giá trái phiếu đi vào ổn định. Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Tại thời điểm này trên thị trường có 6 công Tổng công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu đăng ký niêm yết là 33, 8 triệu cổ phiếu đạt giá trị là 338 tỷ đồng. Trong 151 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 14.2 triệu cổ phiếu, tổng giá trị giao dịch là 654, 3 tỷ đồng chiếm 90%. Thị trường có xu hướng tăng giá. Các loại cổ phiếu tăng từ 4 đến 7 lần so với phiên giao dịch đầu tiên. Chỉ số Việt nam index tăng cao là 571 điểm, giá trị thị trường của 5 loại cổ phiếu đạt 2.301 tỷ đồng. Sự biến động giá cả của 5 loại cổ phiếu REE, SAM, HAP, TMS, LAF được thể hiện ở bảng dưới đây: Bảng 2: So sánh mức tăng giá cổ phiếu (Giá đóng cửa G) Loại cổ phiếu Giá ngày 27/4/2001 (đ) Giá ngày 01/7/2001 (đ) Tỷ lệ tăng (%) REE SAM HAP TMS LAF 48.600 47.000 87.000 75.000 40.600 82.500 64.500 109.000 115.000 82.000 70,75 32,23 25,29 52,32 101,97 Nhận xét: Trên bảng 3 cho thấy giá cả của 5 loại cổ phiếu đều tăng trong thời kỳ này, tuy nhiên mức độ tăng khác nhau của từng loại cổ phiếu. Giá ngày 01/07/2001 so với giá ngày 27/04/2001 mức tăng giá của cổ phiếu LAP là cao nhất với mức giá 82.000 đồng /cổ phiếu đạt mức tăng 101,97%, mức tăng giá của cổ phiếu HAP là thấp nhất với mức giá 109.000 dồng /cổ phiếu đạt mức tăng 25,29%. Trong thời kỳ này mức tăng của các loại cổ phiếu khá cao, nguyên nhân vẫn do thiếu hàng hoá trên thị trường dẫn tới tình trạng cầu lớn hơn cung làm cho giá cổ phiếu tăng lên nhanh chóng. Trong thời kỳ này giá cả trái phiếu ít có sự biến động so với thời kỳ trước nhìn chung giá cả có xu hướng đi vào ổn định. Sự biến động của thị trường chứng khoán trong tháng 8/2001. Về hàng hoá trên thị trường: Trong tháng 8, về khối lượng giao dịch chứng khoán trên thị trường, tổng khối lượng giao dịch là 2.114.890, trong đó cổ phiếu là 2.103.200 chiếm 99.4%, trái phiếu là 11.690, chiếm gần 0.5% tổng khối lượng giao dịch trên thị trường. Tháng 8 là tháng có số lượng trái phiếu giao dịch ít nhất từ trước tới nay, về giá trị chứng khoán giao dịch trên thị trường tổng giá trị giao dịch là 107, 44 tỷ đồng, giá trị cổ phiếu thực hiện trong giao dịch đạt 106, 3 tỷ đồng và giá trị trái phiếu là 1, 1 tỷ đồng. Cũng trong tháng 8 thị trường trái phiếu có thêm hai mặt hàng mới là CP1A0101 và CP10401, nâng tổng số trái phiếu giao dịch trên thị trường lên 9 loại, với tổng giá trị niêm yết là 1.626, 838 tỷ đồng. Hoạt động giao dịch cổ phiếu trên thị trường: Thực trạng diễn biến của thị trường chứng khoán trong tháng 8 có thể đấu thầu chi tiết như sau: trong tổng số 14 phiên giao dịch, chỉ duy nhất có một phiên thứ 156 ngày 8/8là giá 5 loại cổ phiếu tăng kịch trần còn lại hầu như tất cả các phiên giá đều giảm. Và sự biến động nay được thể hiện rõ trong bảng 3 dư?i dõy Bảng 3: So sánh mức tăng giá cổ phiếu (Giá đóng cửa) Loại cổ phiếu Giá ngày 01/7/2001 (đ) Giá ngày 24/8/2001 (đ) Tỷ lệ tăng (%) REE SAM HAP TMS LAF 82.500 64.500 109.000 115.000 82.000 45.300 42.300 90.000 55.500 42.800 - 45,09 - 34,42 - 17,43 - 51,74 - 47,81 Qua bảng 4 cho thấy giá cổ phiếu giảm mạnh nhất là TMS, giảm 59.500 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 51,74% (tính từ phiên giao dịch ngày 01/07/2001 đến ngày 24/08/2001); tiếp theo đến giá cổ phiếu LAF giảm 39.200 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 47,81%; cổ phiếu REE giảm 37.200 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 45,09%; cổ phiếu SAM giảm 22.200 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 34,42%; và cổ phiếu giảm ít nhất là HAP 19.000 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 17,43%. Sự biến động trên thị trường trái phiếu: Các loại trái phiếu mới chưa có giao dịch nên cũng chưa hình thành giá hiện thời. Các giao dịch chủ yếu tập trung vào 2 loại BID1 -100 và BID1 -200 của Ngân hành Đầu tư và Phát triển Việt nam. Trong đó, riêng BID1 -100 có 8.750 trái phiếu được giao dịch chiếm 74,85% tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trong tháng. Nhìn chung giá các loại trái phiếu có tăng nhẹ. Nhận xét: trong thời kỳ này giá của 5 loại cổ phiếu trên đều giảm giá nhìn chung do những nguyên nhân cơ bản sau đây: do trong một thời gian dài giá chứng khoán đã tăng liên tục và cao hơn nhiều so với giá trị thực của nó; nguyên nhân trực tiếp, đó là trong thời gian qua một số tổ chức cầm cố chứng khoán hiện nay ồ ạt bán ra một lượng lớn cổ phiếu đang cầm cố làm tăng đột biến lượng chứng khoán bán ra trên thị trường và đã tác động đến giá chứng khoán theo quy luật cung cầu; Còn có một nguyên nhân khác là do yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư khi đón nhận xu hướng chứng khoán sẽ giảm giá do đó làm tăng thêm độ sụt giảm của giá cổ phiếu trên thị trường khi họ chủ động bán tháo cổ phiếu hòng tránh tổn thất. Giá cả cổ phiếu trong thời kỳ này giảm rất mạnh, xu hướng biến động này ảnh hưởng không xấu đến thị trường chứng khoán trong tương lai do đó Nhà nước cần phải có biện pháp can thiệp để khắc phục hiện tượng này. Từ đầu tháng 9/2001 - 02/2002. Sau sự biến động sụt giảm giá của các loại cổ phiếu trong tháng 8/2001, cho đến tháng 10/2001 thị trường chứng khoán Việt nam đã có những chuyển hướng tích cực: giá của 6 loại cổ phiếu trên thị trường đều tăng trở lại qua từng phiên giao dịch sau một thời gian dài sụt giảm. Từ phiên giao dịch thứ 182 ngày 10/10/2001 biên độ giao dịch chứng khoán thu hẹp từ ± 7% trở về ± 2%. Cũng trong tháng 10 này thị trường xuất hiện thêm chủng loại hàng hoá. Đó là cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần Đồ hộp Hạ long (công Tổng công ty CANFOCO với mã hiệu giao dịch cổ phiêú CAN) và hai chủng loại trái phiếu Chính phủ mới là CP1 - 0701 và CP1 - 0801. Sau một thời gian dài thay đổi thị trường chứng khoán trong trạng thái trầm lắng và mặc dù từng bước phục hồi trở lại từ những phiên giao dịch vaò trung tuần tháng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0698.doc
Tài liệu liên quan