Lời mở đầu 1
Nội dung 4
I.Các cam kết dịch vụ du lịch lữ hành, khách sạn của Việt Nam khi gia nhập WTO 4
1.1Giới thiệu bảng cam kết dịch vụ của việt nam khi gia nhập WTO và giới biểu cam kết ngành dịch vụ du lịch, lữ hành, khách sạn khi Việt Nam gia nhập WTO 4
1.2 Giíi thiÖu mét sè xu híng ph¸t triÓn vµ t¸c ®éng chung cña WTO tíi nÒn kinh tÕ nãi chung vµ nghµnh du lÞch nãi riªng . 8
1.3 T×m hiÓu chung vÒ WTO 9
II. C¬ héi vµ th¸ch thøc khi héi nhËp WTO ®èi víi c¸c doanh nghiÖp l÷ hµnh ViÖt Nam 12
2.1 C¬ héi ®èi víi ngµnh du lÞch ViÖt Nam 20
2.2 Th¸ch thøc ®èi víi c¸c doanh nghiÖp du lÞch kh¸ch s¹n 22
2.3Mét vµi kinh nghiÖm ph¸t triÓn du lÞch cña c¸c quèc gia chung quanh d• gia nhËp WTO 23
III.ChiÕn lîc cña c¸c doanh nghiÖp l÷ hµnh ViÖt Nam 27
3.1HÖ thèng chÝnh s¸ch chiÕn lîc cña nhµ níc vµ c¸c c¬ quan qu¶n lý nhµ níc vÒ du lÞch 27
3.2 ChiÕn lîc cña c¸c doanh nghiÖp l÷ hµnh 28
KÕt luËn 30
Tài liệu tham khảo 33
33 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2040 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những tác động của việc gia nhập wto tới ngành du lịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam đã hoạt động kinh doanh dưới hàng rào bảo hộ chắc chắn của Nhà nước, khi các công ty nước ngoài không được phép mở chi nhánh hoặc tham gia trong lĩnh vực này với 100% vốn, mà chỉ có thể hoạt động dưới dạng liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam trong một tỷ lệ vốn đóng góp khá hạn chế.
Nhưng tình thế đã thay đổi, doanh nghiệp lữ hành quốc tế trong nước đang phải đối diện trước một thực tế là vào WTO thì hàng rào bảo hộ sẽ được dỡ bỏ. Việt Nam phải thực hiện cam kết lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ lữ hành, trong đó cho phép các công ty nước ngoài được kinh doanh đưa khách quốc tế đến nước ta dưới hình thức đầu tư 100 % vốn hoặc liên doanh với tỷ lệ góp vốn lớn hơn.
Nguồn vốn lớn, thương hiệu mạnh, công nghệ du lịch cao, hệ thống tổ chức chuyên nghiệp, có mạng lưới đại lý toàn cầu và khả năng khai thác thị trường cao, lại đang nắm giữ nguồn khách, nhiều khả năng, các công ty nước ngoài sẽ áp đảo, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước và không ít doanh nghiệp thiếu sức cạnh tranh sẽ phải ra đi.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho hội nhập khi sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt trên nhiều phương diện.
Trước hết là cạnh tranh về sản phẩm, mà ở đây các công ty chú trọng về tính hấp dẫn và sự tiếp cận nhu cầu của khách, phù hợp đặc tính tâm lý chủng tộc, tôn giáo. Với những lợi thế của mình, các công ty nước ngoài sẽ có chiến lược cạnh tranh nhằm phân chia thị phần khách sử dụng sản phẩm du lịch Việt Nam, như dùng hệ thống đại lý phân phối hùng mạnh của họ để giành giật thị phần khách đến Việt Nam hoặc sử dụng hãng hàng không của họ hoặc do họ khống chế thông qua việc điều tiết vận chuyển khách đến nước ta.
Ngoài ra, các công ty nước ngoài thường tận dụng khả năng tài chính để tung ra các chương trình khuyến mại trong những thời gian nhất định nhằm loại bỏ những đối thủ cạnh tranh không mạnh về tài chính và sử dụng các biện pháp tài chính để hạ giá thành sản phẩm, như giữ lại toàn bộ giá trị gia tăng của sản phẩm ngoài lãnh thổ Việt Nam để tránh nộp thuế trên phần giá trị gia tăng và tránh nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, chi trả các dịch vụ tại Việt Nam thông qua các tập đoàn dịch vụ bên ngoài lãnh thổ nước ta để giảm bớt thuế giá trị gia tăng.
Trong tình hình thị trường du lịch nước ta phát triển với tỷ lệ tăng trưởng như những năm gần đây, hệ thống cơ sở lưu trú, khách sạn nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu và điều này cũng đem đến thách thức lớn cho các công ty kinh doanh lữ hành, bởi các công ty nước ngoài có tiềm lực lớn sẽ "bắt tay" tạo ra những liên kết nhằm giành ưu đãi như đặt chỗ, đặt phòng cho họ và đẩy các công ty yếu tiềm lực đã khó khăn về nguồn khách, lại càng rơi vào tình trạng thiếu và khó khăn hơn. Còn khi, nếu hệ thống cơ sở lưu trú đáp ứng đủ, các liên kết này lại tiếp tục dành cho nhau ưu đãi về giá, chất lượng dịch vụ. Một điểm khác là các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm năng tài chính sẽ không ngần ngại có những chính sách thu hút nhân lực giỏi chuyên môn từ các doanh nghiệp trong nước.
Gia nhập WTO là tạo điều kiện để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam phát huy lợi thế so sánh ở các thị trường bên ngoài, đồng thời cũng làm mất đi lợi thế so sánh được tạo ra bởi những hàng rào bảo hộ ngay trên nước mình.
Muốn tồn tại và phát triển trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam phải am hiểu luật pháp quốc tế, nắm vững các cam kết và lộ trình mở cửa cho doanh nghiệp lữ hành nước ngoài; tìm cách củng cố và phát huy các lợi thế so sánh của chính doanh nghiệp trong điều kiện thị trường mở; đánh giá đúng thực trạng tiềm lực của mình để có những chiến lược liên doanh, liên kết đúng hướng. Các doanh nghiệp nên đầu tư công nghệ đặt chỗ qua mạng internet nhằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh hiện đại và xây dựng các sản phẩm du lịch đạt chất lượng cao, giá cả hợp lý, mang nét đặc sắc dựa trên ưu điểm nổi bật của tiềm năng du lịch Việt Nam.
Một điểm các doanh nghiệp lữ hành cần chú trọng là không ngừng mở rộng thị trường, tạo dựng chiến lược tiếp thị sản phẩm thâm nhập các thị trường và thành lập được mạng lưới đại lý rộng khắp cả nước để chiếm lĩnh chắc chắn thị trường du lịch trong nước và thị trường đưa khách Việt Nam đi các nước; tăng cường đào tạo cán bộ quản lý giỏi chuyên môn, có tầm hoạch định và cơ chế đãi ngộ thỏa đáng để tránh tình trạng "chảy máu chất xám" sang các công ty lữ hành nước ngoài.
Ngoài ra, để hỗ trợ doanh nghiệp lữ hành, Tổng cục Du lịch đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá tại các thị trường du lịch trọng điểm và truyền thống; cung cấp các thông tin và đưa ra được những dự báo chính xác về tình hình phát triển du lịch và thị trường khách; phối hợp liên ngành để giảm giá tua du lịch; thực hiện liên kết chống độc quyền, phá giá trong kinh doanh lữ hành quốc tế giữa các doanh nghiệp.
Cơ hội của du lịch Việt Nam
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Thách thức đối với du lịch Việt Nam
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Điểm yếu của du lịch Việt Nam
Nhiều doanh nghiệp du lịch trong nước thừa nhận đang gặp nhiều khó khăn, nhất là về cơ sở hạ tầng và tiềm lực vốn. Hầu hết trong số 10.400 doanh nghiệp lữ hành Việt Nam hiện nay cho biết cơ sở hạ tầng của họ quá thiếu và yếu, vốn đầu tư thấp và trình độ chuyên môn của nhân viên chưa cao. Chính những điểm yếu này sẽ làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành nội địa khi phải cạnh tranh với các tập đoàn lữ hành quốc tế chuyên nghiệp đến từ những nước đã có “công nghệ du lịch.
Không chỉ yếu về cơ sở hạ tầng.Thực tế cho thấy, các công ty lữ hành Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng thiếu trầm trọng hướng dẫn viên du lịch có chất lượng, đặc biệt trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Vì thời gian này lượng khách quốc tế đến Việt Nam du lịch (khách Inbound) thường cao nhất trong năm và thường là đối tượng khách có khả năng chi trả cao, đến từ các nước Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Điểm yếu nữa của du lịch Việt Nam là chưa có sự phối hợp giữa các ngành, kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, du lịch và thương mại là 2 ngành có sự gắn kết chặt chẽ nhất. Đơn giản vì nếu không gắn kết, thì cơ cấu thu của ngành là lệch. Nguồn thu chủ yếu từ khách du lịch phải là mua bán hàng hoá trong khi đi du lịch, chứ nếu chỉ trông vào phí du lịch và tiền khách sạn là làm du lịch chưa thành công. Đây cũng là mong muốn của du lịch Việt Nam trong thời gian tới.
Thế mạnh của du lịch Vi ệt Nam
Những lợi thế của du lịch Việt Nam được bạn bè quốc tế nhìn nhận là, Việt Nam là nước nhiệt đới, có khí hậu ổn định, với các mùa đặc trưng khác nhau, rất thích hợp cho du lịch. Việt Nam có nhiều nghề truyền thống với những món đồ thủ công tinh xảo, mang đậm chất nghệ thuật, cùng những lễ hội văn hoá truyền thống, với những dân tộc khác nhau… đã làm nên một Việt Nam khá ấn tượng trong lòng du khách. Người Việt Nam dễ mến, hiền hoà và thân thiện. Hơn nữa, Việt Nam là một đất nước của hoà bình, có nền chính trị ổn định, an ninh trật tự đảm bảo, đó là những điều kiện tốt cho du lịch phát triển và thu hút được khách quốc tế. Khách quốc tế đến Việt Nam du lịch đã bị hút hồn vào những nhạc cụ cổ, những điệu hát dân ca truyền thống… chính nó đã đem lại cho du khách sự ngọt ngào, êm ái và cảm giác thanh bình trong những ngày du lịch. Theo các chuyên gia kinh tế, chúng ta khó có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực về sự hiện đại của du lịch, chúng ta cần có bản sắc riêng bằng việc khôi phục lại những gì thuộc về văn hóa truyền thống, cội nguồn. Và những điều đó mới làm nên một Việt Nam ấn tượng trong lòng du khách.
Cán cân du lịch nước ta chủ yếu tập trung tại hai trung tâm là TP.HCM và Hà Nội, hai cửa ngõ và cũng là thị trường khách chính có tác động rất lớn đến tình hình phát triển tại các địa bàn lân cận và các tuyến điểm du lịch khác trên cả nước.
Một trong những nét đặc thù của hai trung tâm du lịch lớn của VN mà nhiều quốc gia khác không có được chính là sự bổ trợ của các tuyến điểm lân cận, từ đó có thể thiết kế những tour phụ trợ (side trip) vừa tạo ra sức hút cho tuyến điểm, vừa tạo ra sự đa dạng trong các sản phẩm chào bán.
Tâm điểm từ TP Hồ Chí Minh
Trong vòng bán kính 150-450km tính từ TP.HCM có rất nhiều khu vực phụ cận như thế. Đó là tiểu vùng duyên hải Nam Trung bộ với tài nguyên biển, vịnh, các đảo và các bãi tắm tuyệt đẹp như Mũi Né, Ninh Chữ, Nha Trang, nơi sinh sống tập trung của đồng bào Chăm với phong tục tập quán cùng kiến trúc hoàn toàn riêng biệt, là lợi thế để phát triển mạnh du lịch biển, du lịch văn hóa; có rừng nguyên sinh Nam Cát Tiên, hồ Trị An, tỉnh Đồng Nai, Bình Dương với những vườn cây trái rộng lớn; có bãi biển Hồ Cốc, Long Hải và khu vực suối nước nóng Bình Châu của Bà Rịa - Vũng Tàu, thích hợp để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch biển; có Côn Đảo thích hợp với loại hình du lịch đảo.
Đó là khu vực Đông Nam bộ với các di tích chiến tranh và lịch sử như địa đạo Củ Chi, Trung ương Cục, núi Bà Đen, có kiến trúc tôn giáo độc nhất vô nhị là Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh), có khu bảo tồn thiên nhiên Mã Đà (Bình Phước)... là những thế mạnh về du lịch văn hóa, lịch sử, tôn giáo.
Đó là khu vực đồng bằng sông Cửu Long với vựa lúa lớn nhất nước và hệ thống sông rạch chằng chịt, với các làng nghề dọc theo các dòng sông, các chợ nổi sầm uất và các vườn cây ăn trái xum xuê; cũng là nơi hội tụ nhiều loài động vật được ghi trong Sách đỏ ở các sân chim, các tràm chim lớn, thế mạnh để khai thác loại hình du lịch sinh thái, du lịch nông thôn... Một điểm nhấn của khu vực này là đảo Phú Quốc, một tuyến điểm du lịch mang tầm quốc tế có sức hút lớn.
Xa hơn, đó là tiểu vùng Tây nguyên (cách TP.HCM từ 300-500km) với khí hậu ôn đới, nơi tập trung vô số thác nước, sông hồ, những thắng cảnh đẹp, buôn làng của các dân tộc ít người vùng cao nguyên, thích hợp phát triển du lịch núi, du lịch mạo hiểm. Xa hơn nữa là những tuyến điểm tại khu vực Trung bộ cách TP.HCM trên dưới 1.000km như Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Quảng Bình hiện đang sở hữu những di sản thiên nhiên, văn hóa được UNESCO công nhận, đã thành thương hiệu “Con đường di sản miền Trung”, là thế mạnh để đi sâu khai thác loại hình du lịch di sản, đồng thời du lịch biển cũng là lợi thế lớn tại khu vực này.
Tâm điểm từ Hà Nội
Thủ đô Hà Nội với 4.000 năm lịch sử là nơi còn lưu giữ nhiều kiến trúc lâu đời, đi cùng sự trù phú của đồng bằng sông Hồng, sự hấp dẫn của các làng nghề truyền thống, và sự bổ trợ của các tuyến điểm lân cận sẽ là thế mạnh riêng biệt của du lịch phía Bắc. Ở đây, nên tập trung xây dựng du lịch lịch sử và văn hóa: tham quan các lễ hội dân gian, các điểm văn hóa lịch sử, dân tộc, các làng nghề thủ công mỹ nghệ, tìm hiểu đời sống nông thôn, thưởng thức đặc sản địa phương.
Loại hình du lịch xanh hiện đang là xu thế và sở thích của du khách muốn trở về với thiên nhiên, tìm hiểu đời sống hoang dã với các hoạt động lặn biển, lướt sóng, chèo thuyền trên sông, đi rừng, lội suối, tắm thác... cũng là một trong những thế mạnh của du lịch lân cận thủ đô Hà Nội, nhất là tại vùng rừng núi Tây Bắc, đặc biệt tuyến điểm Sa Pa cần qui hoạch để trở thành điểm du lịch mang tầm quốc tế.
Với viên ngọc quí giá vịnh Hạ Long, cần có những biện pháp giữ gìn vệ sinh môi trường, khai thác bền vững đi kèm. Hiện nay Hạ Long chưa cần thiết xếp vào danh mục những điểm đến nhạy cảm cần hạn chế lượng khách tham quan, nhưng về lâu dài cần qui hoạch việc khai thác đánh bắt thủy sản, khai thác đá, hạn chế lượng tàu bè sử dụng xăng dầu gây ô nhiễm môi trường, xây dựng ý thức cho tất cả du khách để bảo vệ sự bền vững của một tuyến điểm đẹp và hiếm.
Mice và con đường ven biển
Trên thực tế, hai địa bàn Hà Nội và TP.HCM luôn tập trung các sản phẩm xoay quanh loại hình MICE (du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, hội chợ, tìm kiếm cơ hội đầu tư, thương mại và mua sắm). Trong vòng mười năm tới, MICE là dòng sản phẩm chính để chúng ta thu hút nguồn khách và ngoại tệ, góp phần đánh bóng thương hiệu quốc gia.
Ngoài các phương tiện kết nối giao thông đã có giữa TP.HCM và Hà Nội, theo chúng tôi, con đường du lịch ven biển chạy dài trên 3.200km từ Nam ra Bắc sẽ là một lợi thế so sánh lớn của VN khi được đưa vào sử dụng. Mới đây Trung Quốc đã chi trên 3 tỉ USD để xây dựng đường sắt nối Bắc Kinh - Tây Tạng với mục đích phát triển du lịch xứ sở tâm linh huyền bí Tây Tạng; đó sẽ là một kinh nghiệm quí giá để chúng ta học tập.
So với những quốc gia trong khu vực ASEAN, du lịch VN có những lợi thế so sánh bằng hoặc hơn. Thế nhưng hiệu quả từ ngành du lịch nước ta mang lại vẫn còn thua kém Thái Lan, Malaysia, Singapore... Nguyên nhân căn bản là chúng ta chưa biến được những lợi thế so sánh thành những lợi thế cạnh tranh vốn chỉ tồn tại một thời gian và sẽ trôi qua nếu như chúng ta không biết tận dụng mọi cơ hội.
Trong suốt quá trình qui hoạch phát triển du lịch tại hai trung tâm đô thị TP.HCM và Hà Nội cùng các tuyến điểm lân cận, chúng ta cần chú trọng đến yếu tố bền vững, coi đó là then chốt để phát triển lâu dài và phát triển du lịch phải gắn liền với việc phát triển về kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống của cả khu vực. Có thực hiện được như vậy thì ngành du lịch VN mới có thể biến những lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, thu hút được nhiều du khách và góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước.
2.1 C¬ héi ®èi víi ngµnh du lÞch ViÖt Nam
Tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành du lịch Việt Nam đứng trước 3 cơ hội lớn.
Cơ hội đầu tiên và rõ nhất sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO là sự tăng trưởng mạnh của dòng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam.
Trên thực tế, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO và việc tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006 vừa qua đã gây sự chú ý lớn đối với cộng đồng quốc tế, làm sống lại thị trường du lịch quốc tế bằng hình ảnh một điểm đến an toàn, hấp dẫn và cởi mở. Ngày càng có nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam nhiều hơn và có ý định đến tìm hiểu và làm ăn với Việt Nam. Số liệu của Tổng cục du lịch Việt Nam cho thấy lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong những năm qua liên tục tăng trưởng trên hai con số. Nếu năm 2000, Việt Nam mới thu hút được khoảng 2,12 triệu lượt khách quốc tế, thì đến năm 2006, con số này đã đạt gần 3,6 triệu lượt. Dự kiến, đến năm 2010, lượng khách quốc tế đến Việt Nam sẽ đạt 6 triệu lượt khách, nâng mức thu nhập từ 2 tỷ USD như hiện nay lên 4 - 5 tỷ USD. Ngoài việc gia tăng về số lượng khách, thị trường khách cũng được mở rộng.
Vào WTO, do đặc điểm của thị trường du lịch khác với thị trường hàng hóa nên du lịch có tính độc lập cao trong cạnh tranh toàn cầu, không bị phụ thuộc vào thị trường Mỹ cũng như không bị ảnh hưởng bởi các hiệp định về thuế quan và thương mại quốc tế như hàng hóa thông thường. Dự báo, trong những năm tới, châu Á – Thái Bình Dương sẽ là khu vực thu hút dòng khách du lịch nhiều nhất với mức tăng trưởng bình quân 7-8%. Đây cũng chính là một điều kiện thuận lợi để Việt Nam xúc tiến các chương trình quảng bá, thu hút du khách.
Cơ hội lớn thứ hai mà du lịch Việt Nam có thể tận dụng từ việc hội nhập với nền kinh tế quốc tế là tăng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào du lịch để phát triển hạ tầng, nâng cao năng lực phục vụ khách trong và ngoài nước, đặc biệt là khách MICE. Việt Nam được đánh giá là một ngôi sao đang lên trong khu vực, với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm vào bậc cao nhất châu Á, chỉ sau Trung Quốc.
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO đã và đang mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cho các nhà đầu tư ở khắp thế giới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm 2006 có tới 2,2 tỷ USD (chiếm gần 43% tổng vốn đầu tư cam kết vào Việt Nam) đầu tư vào lĩnh vực du lịch - dịch vụ. Trong đó, các dự án đầu tư lớn như Đan Kia - Suối Vàng (Đà Lạt, Lâm Đồng) với vốn đầu tư lên tới 1,2 tỷ USD, Tổ hợp khách sạn, căn hộ tại Tp.HCM do Hàn Quốc đầu tư với số vốn 200 triệu USD… Các chuyên gia nhận định, trong thời gian tới đây, làn sóng đầu tư vào du lịch - dịch vụ sẽ tiếp tục gia tăng, đặc biệt là trong lĩnh vực khách sạn nhà hàng. Bởi theo cam kết gia nhập WTO về du lịch, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực khách sạn nhà hàng và dịch vụ đại lý lữ hành. Một trong những điểm yếu của ngành du lịch Việt Nam là năng lực cạnh tranh và quản lý yếu, thiếu tính chuyên nghiệp. Vì vậy, gia nhập WTO chính là môi trường để các doanh nghiệp vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh nếu muốn tồn tại trên thị trường. Đây là cơ hội thứ ba mà doanh nghiệp du lịch Việt Nam được hưởng.
Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như các ngành khác, hội nhập là đi cùng với sự thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém về năng lực cạnh tranh và chuyên môn nghiệp vụ, hạn chế tối đa được tình trạng “con sâu làm rầu nồi canh” như trong thời gian qua. Nhưng đối với những doanh nghiệp đã khẳng định được tên tuổi và thương hiệu thì đây chính là cơ hội tốt nhất để họ nâng cao vị thế của mình.
Du lịch Việt Nam đang đứng trước vận hội mới, vị thế Việt Nam đã được nâng lên, "sân chơi" rộng mở và luật chơi cũng rõ ràng. Tiến trình hội nhập WTO sẽ thúc đẩy việc cải thiện và mở rộng các mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương giữa Việt Nam và thế giới, góp phần giúp môi trường đầu tư kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực du lịch nói riêng của nước ta ngày một thông thoáng hơn, cạnh tranh tự do và bình đẳng hơn. Đây cũng là điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động kinh doanh và phát triển du lịch.
Không chỉ vậy,việc thực hiện đẩy đủ các cam kết của một thành viên của WTO theo quy định sẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ ở trong nước, khơi dậy tiềm năng to lớn và sức sáng tạo của toàn xã hội cho sự nghiệp phát triển du lịch nhanh và bền vững.
Sau khi hội nh ập nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, buôn bán thương mại sẽ tăng lên kéo theo luồng khách du lịch, dòng vốn, vật tư, kinh nghiệm, thông tin, công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành Du lịch.
Việc gia nhập WTO tạo cho các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm và cách làm du lịch để mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả kinh doanh, người dân có thêm điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Hình ảnh đất nước, con người Việt Nam được quảng bá rộng rãi hơn, tăng sức thu hút khách du lịch
2.2 Th¸ch thøc ®èi víi c¸c doanh nghiÖp du lÞch kh¸ch s¹n
Du lịch Việt Nam đang trong giai đoạn ban đầu gia nhập WTO, cho nên phải vừa hợp tác, vừa tìm hiểu cơ chế và luật chơi quốc tế. Vì vậy có nhiều hạn chế và khó khăn, trong khi hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh. Thực tế năng lực cạnh tranh của du lịch nước ta còn thấp bởi dịch vụ chưa đa dạng, cơ sở hạ tầng không theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng dịch vụ còn kém, giá cả cao, sản phẩm du lịch ít phong phú. Dẫn đến du lịch nước ta chưa giữ chân được khách, kéo dài thời gian lưu trú, tỷ lệ du khách quay lại lần hai còn thấp.
Hội nhập sẽ tạo áp lực rất lớn với doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong cạnh tranh. Phần lớn doanh nghiệp du lịch của ta thuộc loại nhỏ, chất lượng dịch vụ hạn chế, năng lực quản lý thấp. Ðội ngũ nhân lực du lịch thiếu và yếu về trình độ ngoại ngữ và kinh nghiệm, nhất là thiếu những người có chuyên môn cao. Quá trình hội nhập, mở cửa cũng có thể tạo ra nguy cơ phá hoại môi trường và cảnh quan du lịch nếu không có sự quan tâm và những biện pháp quản lý hiệu quả. Ðó là một số thách thức chính đang đặt ra đối với ngành du lịch nói chung và các doanh nghiệp du lịch Việt Nam nói riêng.
V
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- H0089.doc