Tại khoản 2 điều 16 cũng quy định: “Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của pháp luật”. Như vậy bộ luật lao động đã cho phép người sử dụng lao động có một quyền rất cơ bản là dược dự tuyển chọn người vào làm việc tạo cơ sở của mình, đây là một điểm rất mới trong quy định của luật sư bảo đảm quyền tự chủ cho người sử dụng lao động mặt khác quá trình sử dụng lao động của họ lại càng khoa học hơn, hợp lý hơn và đương nhiên hiệu quả lao động lại càng cao hơn, quá trình đó nó tạo ra giá trị sản phẩm thấp hơn, giá trị sử dụng lại được nâng cao, thúc đẩy sự cạnh tranh sản phẩm.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề pháp lý cơ bản mà Hiệp định thương mại đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những vấn đề pháp lý cơ bản mà Hiệp định thương mại đặt ra
Lao động là bản chất của con người. Lao động là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên Đạo Đức của con người ,cụ thể là yếu tố phản ánh nét đặc trưng xã hội của con người.Thông qua lao động con người ngày càng trở lên hoàn thiện hơn về tư duy phát triển đầy đủ hơn cả về thể lực và trí tuệ, quá trình lao động đã làm cho trình độ nhận thức của con người ngày càng đạt được thành tựu cao cả trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội. Quá trình thực tiễn – tư duy – lao động – và thực tiễn đã khiến các nhà lý luận kinh điển tổng kết,đúc rút ra thành lý luận rất cơ bản, hơn nữa lý luận đó lại được qua một thời kỳ thử nghiệm thực tiễn rất lâu dài. Tính đúng đắn của nó là không thể phủ nhận. Có thể khẳng định rằng: Lao động là tiền đề của nhận thức. Quá trình lao động đã gắn kết tất cả mọi con người trong lao động lại với nhau – Mối quan hệ đó dược gọi là quan hệ lao động ngay từ buổi đầu sơ khai quan hệ lao động trong xã hội mới khi không lại ở sự tự giác, càng chính xác, cùng đảm trách và cùng thực hiện một công việc nhất định. Theo cùng thời gian quá trình lao động đã được chuyên môn hoá ngày càng cao, đặc biệt từ sau khi xã hội có sự phân công lao động lần thứ ba, các ngành chăn nuôi và thủ công được tách ra khỏi ngành trồng trọt, sự phân công lao động xã hội ngày càng trở lên sâu sắc hơn, rõ rệt hơn. Đặc biệt hơn trong thời kỳ xã hội có sự phân chia giai cấp, sự không thống nhất về ý trí giữa các giai cấp xã hội về lao động càng đẩy xã hội đến phân cực rõ rệt hơn bao giờ hết và từ đó thế giới xã hội loài người tiến dần đến giai đoạn chiến hữu nô lệ, một thời kỳ khủng hoảng và đen tối nhất của con người và bóc lột sức lao động của những đồng loại mà chính con người là thủ phạm. Có thể nói rằng “quan hệ lao động xã hội” là sự liên kết giữa mọi con người trong quá trình lao động sản xuất trên các lĩnh vực phân công lao động, sử dụng lao động và phân phối sản phẩm lao động mà họ làm ra, quan hệ lao động trong xã hội có giai cấp có thể xem xét rằng đó là một quan hệ bất bình đẳng bởi vì dưới chế độ xã hội ấy, giai cấp thống trị xã hội là giai cấp áp đặt mọi ý trí của nó lên toàn xã hội nói chung hay áp đặt ý trí riêng, về lĩnh vực lao dộng nói riêng, nó ý thức rằng toàn bộ hoạt động làm ra sản phẩm xã hội là để phục vụ tầng lớp giai cấp thống trị trong xã hội chứ không phải là để phục vụ cho toàn xã hội, vì vậy bóc lột sức lao động càng nhiều càng tốt, càng mang lại lợi nhuận cao. Trong quá trình sản xuất cho người sử dụng lao động, phân công lao động hay nói cho đúng hơn là càng mang lại siêu lợi nhuận cho giai cấp thống trị xã hội lúc bấy giờ.
Về phía người lao động họ không còn gì ngoài sức lao động của mình, họ phải mang nó đến bán cho người sử dụng lao động và có tư liệu sản xuât để bán chỉ sức lao động của mình đổi lấy một ít lương thực cho người sử dụnglao động ban phát để rồi họ mang về đảm bảo cho cuộc sông gia đình họ tuy biết việc còn vô cùng khó khăn so với các nhu cầu bình thường mà họ cần đến. Bản thân người lao động do chưa đủ để đáp ứng cho nhu cầu gia đình họ thì làm sao mà người lao động có thể tái sản xuất nếu lao động của chính bản thân họ nữa. Nguồn lao động trong xã hội có giai cấp đang phải ăn dần sức lao động của chính anh ta ...để rồi họ mới có đủ sức lao động mà tham gia hoạt động sản xuất cho người sử dụng lao động hay nói đúng hơn là bán rẻ mạc sức lao động của họ.
Quan hệ lao động trong xã hội có giai cấp là quan hệ bóc lột sức lao động của người sử dụng lao động đối với người lao động. Biểu hiện của sự bóc lột đó là người sử dụng lao động đồng thời giữ lao động một cách tuỳ tiện, thời gian lao động càng nhiều thì người lao động lại càng làm ra nhiều sản phẩm cho người sử dụng lao động, lợi nhuận càng cao. Mặt khác người lao động đã phải làm việc với một thời gian dài cường độ lao động lại rất lớn thế ma khi phân phối sản phẩm thì lại chẳng được bao nhiêu, kết quả lao động mà họ được người sử dụng lao động trả không sứng đáng với cái giá trị sức lao động mà họ đã phải bỏ ra trong quá trình sản xuất. Điều đó đã nói lên sự bất công trong quan hệ lao động dưới chế độ xã hội có giai cấp.
Lao động dưới chế độ có gíai cấp đã trở thành hàng hoá - một thứ hàng hoá đặc biệt, người lao động là một chủ thể đặc biệt sở hữu cái hàng hoá đặc biệt ấy- cái tài sản vô cùng quý giá đó.Chính lao động là điều kiện để tồn tại cho một con người nói riêng hay diều kiện tồn taị cho cả một xã hội nói chung.Nói một cách khác là sự tồn tại của xã hội không thể tach giời hoạt động thực tiễn cảu mỗi thành viên xã hội, đó chính là một quá chình khép kín theo xu hướng mở rộng và phát triển.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã mở ra trên đất nước ta một giai đoạn lịch sử mới đó là nền dân chủ cộng hoà một thế kỷ chân chị lý tưởng mà trải qua bao nhieu thời gian dài đấu tranh và đào thải tự nhiên mơí có dược.Chế độ dân chủ- chế độ chỉ có một giai cấp công nhân, một giai cấp có lực lượng vĩ đại ,hùng mạnh và tiến bộ nhất mà hạt nhân của nó là Đảng cộng sản mới có thể tiến hành thắng lợi được một cách chọn vẹn và toàn diện. Khẳng định rằng chỉ có nền dân chủ mới có thể đem lại sự bình đẳng, cuộc sống no đủ hạnh phúc cho tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Lao động hay nói dúng hơn là quan hệ lao động trong trế độ dân chủ là một yếu tố rất nhạy cảm ,nó không chỉ là một quan hệ đơn phương mà nó chính là một sự thoả thuận một cách rất nghiêm túc giữa người lao động và người sử dụng lao động ,sự phản ánh khách quan sự phát triển tất yếu của xã hội.Thông qua quan hệ lao động,người sử dụng lao động,sử dụng lao động một cách đúng mục đích nhằm tận dụng triệt để sức lao động đi thuê và đồng thời tạo ra được nhiều sản phẩm nhất cho doanh nghiệp, cho xã hội .Sức lao động của người lao động là tài sản quý giá nhất được người lao động sinh ra trong quá trình lao động và được tính bằng sản phẩm do chính họ làm ra. Tiền lương do người sử dụng thanh toán cho người lao động trong quá trình sản xuất phải bảo đảm bảo các yếu tố sau đây:
Tái sản xuất sức lao động cho chính người lao động:
Phụ cấp và bảo đảm cuộc sống thêm cho gia đình.
Một phần để tích luỹ và tham gia các hoạt động xã hội.
Sau gần năm mươi năm ra đời, năm 1994 nhà nước ta đã ban hành bộ luật lao động nhằm thể chế hoá sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam về quản lý nhà nước về lao động và sử dụng lao động.Bộ luật lao động năm 1994 đã đánh lên một bước quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.Nó từng kế thừa và phát triển lao động năm 1945 đến thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới. Cụ thể hoá các guyên tắc cơ bản của hiến pháp năm 19943 về các quan hệ lao động.Tuy nhiên sau gần tám năm thực hiện bộ luật lao động mới,bộ luật lao động năm 1994 đã lĩnh hội một số thiếu xót, không thể đáp ứng với tình hình mới nhất là trong tình hình kinh tế với thị trường, nhu caauf sức lao động lại càng đòi hỏi hơn bao giờ hết...
Bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam đã được sửa đổi bổ xung năm 2002 là kết quả rất to lớn của các nhà làm luật,trải qua một quá trình nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, bộ luật lao động năm 2002 đã phản ánh rất cụ thể đường lối chính xác của đảng và nhà nước ta về lao động. Với kết cấu gồm 17 chương và 198 điều, bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phản ánh đầy đủ các chế định về lao động như: Việc làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, kỷ luật lao động, quy định riêng với lao động nữ, giải quyết chanh chấp về lao động..vv..Đã phản ánh quan điểm đúng đắn của đảng và nhà nước ta, nó thể hiện sự quan tâm rất đúng đắn của nhà nước ta về sử dụng lao động. Điều 55 Hiến pháp năm1992 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam quy định như sau: “ Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân, nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Nhà nước ta khẳng định rằng quan hệ lao động là một trong những yếu tố làm thay đổi và phát triển xã hội, phát triển đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam la giai cấp lãnh đạo xã hội, để bảo vệ quyền lao động của con người, xoá bỏ hiện tượng bóc lột lao động dưới bất kỳ một hình thức nào, đó là thể hiện ý chí của người giai cấp công nhân Việt Nam. Thể chế hơn đường lối đó như nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đã quy định rất đầt đủ và rõ dàng các qua điểm đó. Quan hệ lao động trong xã hội nước ta hiện nay được nhà nước tập trung điều chỉnh, ban hành các chính sách có liên quan đến lao động bảo đảm người lao động vừa có việc làm thu nhập ổn định tái sản xuất sức lao động, mặt khác lại bảo đảm sức lao động được sử dụng đúng mục đích không bị lãng phí và hiệu quả lao động đạt được cao. Điều 56 hiến pháp năm 1992 cũng quy định rõ: “ nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động.
Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghi ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người lam công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.”
Xuất phát từ tình hình nước ta trước vào giai đoạn thời kì đổi mới toàn diện đất nước do đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI khởi xướng, từ đó đổi mới về hoạt động kinh tế là một trong nhưng yếu tố cấp bách nhất, trong lúc sức lao động đang dư thừa, tăng nhanh. Mặt khác nền kinh tế thị trưòng đang đặt ra trình tự chủ chương sản xuất kinh doanh, tính hiệu quả của quá trình sản xuất lại càng khắt khe hơn bao giờ hết. Mục tiêu lớn nhất của Đảng và nhà nước ta đặt ra là toàn bộ nền kinh tế dần dần được sắp xếp lại hợp lý hơn và hiệu quả hơn. Vấn đề việc làm đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội nói chung và của người lao động nói riêng. Quan hệ cung cầu của sức lao động của nước ta trong một vài năm gần đây đã có những biểu hiện mất cân đối. Mối quan hệ giữa lao động và người sử dụng lao động cũng đã có thay đổi một cách rõ rệt bởi vì lợi ích giữa họ có những mâu thuẫn, mâu thuẫn đó đòi hỏi nhà nước phải có sự điều chỉnh kịp thời bằng cách chế độ phản ánh các thái độ và quan điểm của nhà nước ta trên lĩnh vực lao động và đặc biệt các yếu tố mới đang có thể ảnh hưởng và phân hoá quan hệ lao động. Sự cần thiết phải ban hành bộ luật lao động mới, phù hợp hơn trong điều kiện nền kinh tế đang trên dà phát triển là vô cùng cần thiết. Đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của toàn thể nhân dân lao động nước ta.
Luật lao động được ban hành là một sự kiện quan trọng to lớn đối với công nhân lao động và những người sử dụng lao động, lần đầu tiên ở nước ta đã có một bộ luật lao động điều chỉnh rất hợp lý mối quan hệ giữa người sử dụnglao động và người lao động. Bộ luật lao động cũng đã để cho vai chò của các cơ quan nhà nước về quản lý lao động. Bộ luật cũng đã bảo vệ chính đáng hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động. Luật lao động cũng đề cao vai trò của tổ chức công đoàn khi công đoàn tham gia bảo vệ, bênh vực người lao động – Người làm công ăn lương.
Với tư tưởng: “Vì con người và phát huy nhân tố con người “ Pháp luật lao động đã góp phần giải phóng và phát triển nguồn nhân lực rồi dào của đất nước, khuyến khích việc sử dụng tiền năng lao động xã hội, tạo điều kiện và môi trường để người lao động có việc làm, tự do lao động đồng thời ở mỗi người lại có điều kiện để phát huy khả năng, tính sáng tạo của cá nhân mình. Với tinh thần bảo vệ ngươig lao động đó chính là thể hiện quan điểm rất đúng đắn của đảng ta, bởi vì người lao động trong xã hội luôn luôn bị ở vị thế yếu nhất xã hội so với người sử dụng lao động. Luật lao động đã đưa địa vị pháp lý của người lao động, bình đẳng với người sử dụng lao động... Luật lao động cũng đã bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động đồng thời nó cũng đã kết hợp hài hoà giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Với kết cấu như đã trình bày ở trên, bộ luật lao động đã đề cập đến một số vấn đề lớn sau đây:
Những vấn đề có tính chất quy định chung bao gồm những tư tưởng quan điểm, chỉ đạo dối tượng phạm vi áp dụng, các chỉ thị của quan hệ lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên...(điều 1 đến điều 12).
Những quy định tạo tièn đề cho việc thiết lập và ban hành quan hệ lao động, Bao gồm các quy định về việc làm, học nghề,dạy nghề, hợp đồng dạy nghề (điều 12 đến điều 25).
Những quy định về điều kiện lao động và sử dụng lao động, bao gồm các quy định về tiền lương và thời giờ làm việc, và thời giờ nghỉ ngơi , kỉ luật lao động và chách nhiệm vật chất, an toàn lao động và vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội việt nam (điều 26 đến diều 108).
- Luật lao động mới cũng đã đề cập đến chách nhiệm chăm lo và giải quyết việc làm cho người lao động, chính phủ có chương trình quốc gia, có quỹ quốc gia về việc làm.
Để có việc làm người lao động phải thay đổi về nhận thức việc làm, tụ mình liên hệ để tìm việc làm, tự mình phải học nghề phù hợp với khả năng sức khoẻ và trình độ đối với nhu cầu về việc làm của mình và người lao động phải trải qua một thời kỳ thử việc...Chỉ định “Việc làm” trong bộ luật lao động cũng đã phản ánh đầy đủ quan điểm, đường lối của đảng ta trong giải quyết, tạo việc làm ....
Phía người sử dụng lao động khi nền kinh tế đã chuyển sang hạch toán kinh doanh thì chế độ tuyển dụng lao động cũng không còn nữa mà thay vào đó là chế độ hợp đồng lao động. Thực hiện ký kết hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động với người lao động đang là một vấn đề có nhiều điều phải cần bàn bạc, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn ở một số quốc gia, và ở một số doanh nghiệp trong nước. Ký kết một hợp đồng lao động là thực hiện ý chí của nhà nước về quản lý lao động, là quyền tự chủ của doanh nghiệp về bố trí phân công lao động. Tuy nhiên người lao động vẫn còn bị đối phương để cho rơi vào thế “đã rồi”. Hoạt động kinh tế xã hội đang trên hồi phát triển từng ngày từng giờ, muốn đạt được như vậy hoạt động lao động của con người không chỉ thuần tuý là lao động giải trí mà đòi hỏi người lao động phải có trình độ khoa học kỹ thuật, có kỷ luật trong lao động mà còn phải có ý thức lao động là làm ra sản phẩm có chất lượng để phục vụ bản thân họ và phục vụ toàn xã hội, vì vậy việc tuyển chọn lao động trong các doanh nghiệp là một vấn đề khắt khe, nghiêm túc về yêu cầu chất lượng là đòi hỏi số một trong lĩnh vực này.
Tại khoản 2 điều 16 cũng quy định: “Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của pháp luật”. Như vậy bộ luật lao động đã cho phép người sử dụng lao động có một quyền rất cơ bản là dược dự tuyển chọn người vào làm việc tạo cơ sở của mình, đây là một điểm rất mới trong quy định của luật sư bảo đảm quyền tự chủ cho người sử dụng lao động mặt khác quá trình sử dụng lao động của họ lại càng khoa học hơn, hợp lý hơn và đương nhiên hiệu quả lao động lại càng cao hơn, quá trình đó nó tạo ra giá trị sản phẩm thấp hơn, giá trị sử dụng lại được nâng cao, thúc đẩy sự cạnh tranh sản phẩm.
Khi làm việc tại các doanh nghiệp người lao động và người sử dụng lao động phải giao kết với nhau bàng một hơp đồng lao động . Hợp đồng lso động đó phải được giao kết theo hình thức bằng văn bản rõ ràng. Luật cũng quy định những trường hợp công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng thì giao kết hợp đồng chỉ cần thực hiện bằng miệng .Giao kết hợp đồng bằng văn bản hay giao kết hợp đồng bằng miệng thì các giao kết đó đều có giá trị pháp lý như nhau. Nó là cơ sở về mặt pháp lý để phân sử các tranh chấp lao động khi xảy ra.Việc chấm dứt hợp đồng lao động, sa thải người lao động cũng được pháp luật lao động quy định rất chặt chẽ nhằm bảo đảm quyền lợi tói thiểu nhất cho người lao động, hơn nữa thể hiện sự quan tâm bênh vực người lao dộng của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặt khác pháp luật cũng quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động khi quan hệ lao động có dấu hiệu trái pháp luật. Trong trường hợp lỗi thuộc về người lao động thì việc tự cấp thôi việc cũng không có hiệu lực. Việc ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động cũng được pháp luật lao động quy định rất chi tiết, rõ ràng và đầy đủ trong đó có sự tham gia của ban chấp hành công đoàn cơ sở, trong từng trường hợp hai bên không nhất trí được thì hai bên phải báo cáo với cơ quan tổ chức có thẩm quyền. Sau thời gian 30 ngày kể từ ngày báo cáo với cơ quan thẩm quyền lao động, người sử dụng lao động mới có quyền ra quyết định xử lý và đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với trách nhiệm đó.
Luật lao động mới đã đề cập đến chế định: “ Thoả ước lao động tập thể” một chế định rất mới thể hiện sự đồng tâm nhất trí, bình đẳng dân chủ của người lao động, thoả ước lao dộng tập thể nhằm ổn định lao động quan hệ, nó là văn bản thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và quy định rõ quyền của cả hai bên...Tập thể nguồn lao động được bày tỏ ý chí, quan điểm của mình một cách rất rõ ràng trong thoả ước lao động tập thể... Vấn đề tiền lương của người lao động là một vấn đề rất nhạy cảm trên cơ sở cả hai bên phía người lao động và người sử dụng lao động thoả thuận với nhau bằng các hình thức phù hợp...Đặc biệt trong cơ chế thị trường khi sức lao động đã trở thành hàng hoá thì giá trị của loại hàng hoá đặc biệt đó cũng sẽ được cả người lao động và người sử dụng lao động xem xét một cách cẩn trọng, tỷ mỉ và lựa chọn tối ưu. Việc trả lương cho người lao động do người sử dụng lao động thực hiện. Tuy nhiên trả lương không thể tuỳ tiện, theo ý muốn chủ quan của người sử dụng lao động.
Luật lao động đã quy định rõ ràng thời gian lao động và thời gian nghỉ ngơi (điều... đến điều) đó là những quy định mà pháp luật không chỉ buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh nhất. Cho dù luật lao động luôn luôn đứng về phía người lao động, bảo vệ những quyền lợi đó khiến cho người lao động song chỉ định kỷ luật lao động lại quy định rất nghiêm khắc những hình thức kỷ luật mà người lao động mắc phải trong quá trình lao động. Điều đó đã thể hiện thái độ nhất quán của nhà nước ta. Thái độ đó tỏ rõ quan điểm và phương châm xử lý của nhà nước ta đối với hành vi vi phạm kỷ luật lao động.
Tranh chấp lao động đang là một trong những vấn đề quan hệ pháp lý có xu hướng gia tăng ở nước ta hiện nay bởi vì phía người lao động chưa được trả lương một cách thoả đáng. Chưa phù hợp với công sức mà họ bỏ ra trong quá trình sản xuất. Thậm trí ở một số cơ sở xản xuất các điều kiện bảo hộ lao động,an toàn lao động có khi còn chưa được bảo đảm, thời giờ lao động và thờ giờ nghỉ ngơi cũng còn rất tuỳ tiện. Mặt khác do trải qua một thời kỳ bao cấp khá lâu dài,thậm trí đã hằn sâu trong tư duy của đa số người lao động nên trong quá trình lao động họ chưa đem hết khả năng của mình, chưa phát huy tính năng dộng sáng tạo của họ, thái độ lao động còn thờ ơ lẩn tránh hoặc lựa chọn cả công việc nhẹ nhàng...Những yếu tố đó hoàn toàn xa lạ vơí tinh thần và thái độ của người lao động trong cơ chế thị trường hiện nay. Điều đó đã buộc người sử dụng lao động phải xem xét cân nhắc một cách rất kỹ lưỡng nhiều mục đích thoả mãn cả về lao động và chất lượng sản phẩm mà đơn vị sản xuất ra. Quan hệ lao động được biểu hiện từ khâu tuyển chon, bố trí, thái độ trách nhiệm chất lượng sản phẩm và phân phối sản phẩm (trả lương). Thực hiện được đầy đủ các yếu tố đó có nghĩa người lao động đã có uy tín trong cơ sở sản xuất, có thêm niềm tin trong quá trình lao động của mình mối quan hệ lao động ngày càng trở lên gắn bó hơn, sản phẩm làm ra ngày càng có uy tín hơn trên thị trường trong nước và ngoài nước. Đi đôi với ý thức và thái độ lao động đó, người lao động được trả công một cách hợp lý,trả công đó đã đáp ứng sự mong muốn của họ, điều đó đã kích thích trở lại đối với người lao động: Họ sẽ không phải đưa ra những điều kiện làm việc trong thời hạn tạm thời, họ sẽ không thờ ơ với kết quả lao động và chất lượng sản phẩm mà họ làm ra tính tự giác cháp hành kỷ luật lao động của họ cũng sẽ được nêu cao ở mọi lúc mọi nơi, trách nhiệm với doanh nghiệp, với công việc của họ lại càng gắn bó hơn bao giờ hết.
Về phía người sử dụng lao động trước hết phải nắm chắc quá trình của luật lao động, vận dụng một cách nhuần nhuyễn các quy định của pháp luật và các văn bản dưới luật. Làm được như vậy chẳng những bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt dộng đúng hướng, đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh mà còn để cho người lao động họ thấy được vai trò, ý thức trách nhiệm và trình độ khả năng của người sử dụng lao động. Đối sử với người lao động là một yếu tố đó “ Sống còn” của doanh nghiệp mà người sử dụng lao động không được bất kỳ lúc nào sao nhãng. Quan tâm tới quyền lợi, đến đời sống của người lao động chính là sự nhắc nhở trách nhiệm và thái độ lao động của họ, hai vấn đề đó được người sử dụng lao động khéo léo, chuyển hoá lẫn nhau. Tuy nhiên vấn đề ký luật lao động cũng không thể thờ ơ mà cần phải có thái độ kiên quyết, xử lý giải quyết có tình( tấu cơ bản) có lý trình tự từ thấp đến cao làm sao để người lao động họ nhận thức ra lỗi của mình để từ đó họ có hướng quyết tâm sửa chữa… chính sách, chế độ đối với người lao động đã sắp hết tuổi lao động, đối với những người đang trong độ tuổi lao động, đối với người tàn tật, người lao động là nữ, người lao động chưa thành niên, người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao…. Do người sử dụng lao động phải thực hiện một cách đầy đủ, không để cho họ thiệt thòi kể cả từ khi đang còn lao động tại cơ sở hoặc khi đã được nghỉ theo chế độ hiện hành.
Thực tế trong thời gian qua các vụ án tranh chấp về lao động đã xảy ra tương đối nhiều ở hầu như các doanh nghiệp tư nhân hoặc các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài, lên các doanh nghiệp Nhà nước thì hầu như không có. Mâu thuẫn cơ bản dẫn đến tranh chấp rồi đi đến lẩn công, đình công ở các doanh nghiệp tức là do bị đối xử của người sử dụng lao động đối với người lao động, có nơi còn quá thô bạo xúc phạm đến nhân cách, đạo đức xã hội của người lao động. Có doanh nghiệp vi phạm trầm trọng luật lao động, sa thải lao động tuỳ tiện, không đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật cho họ, thậm trí còn đánh đập, lăng mạ người lao động. Tình trạng đối xử với người lao động như vậy là vi phạm pháp luật, vì vậy hoạt động quản lý lao động Nhà nước lại càng phải đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn và xử lý khách quan phù hợp, đành rằng đất nước ta đang còn nghèo, việc mở rộng liên doanh liên kết hợp tác với nước người và vấn đề tự chủ sản xuất kinh doanh là rất cần thiết, cấp bách, song không vì đó mà người sử dụng lao động coi thường pháp luật, nói khác đi cả đạo đức x h vì mục tiêu lợi nhuận cho cá nhan, họ trà đạp lên cả quyền và lợi ích hợp pháp của con người lao động.
Giải quyết vụ án lao động ngoài khả năng nắm vững về luật lao động, cơ quan tiến hành xét xử và những người tiến hành xét xử phải có thái độ quan điểm của người lao động, phải thấy được vai trò to lớn của người lao động trong đời sống xã hội, những giá trị sức lao động to lớn để làm thay đổi cả một cơ cấu kinh tế, nhằm nâng cao hơn nữa cho đời sống xã hội. Cách nhìn nhận đúng đắn của những người tiến hành tố tụng đã giúp cho họ có thái độ đúng đắn, quan điểm nhất quán khi xử vụ án lao động. Xem xét thái độ tư cách của người sử dụng lao động một cách đúng đắn, khách quan để xác định lỗi do phía nào và từ đó phán quyết một cách chính xác tranh chấp lao động.
Luật sư - người tham gia bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án lao động không thể thờ ơ trước tình cảnh éo le của đương sự, không thể thoả hiệp với những cách thức bóc lột mới mà người sử dụng lao động đã tinh vi trong quá trình sử dụng lao động và sản xuất của doanh nghiệp. Luật sư phải có các luận cứ cơ bản, vững vàng nhằm mục tiêu bảo vệ có lợi cho thân chủ của mình. Tuy nhiên thái độ của luật sư phải biểu hiện lập trường và bản lĩnh đúng đắn, không vì lợi ích nhỏ nhoi mà lãng quên cả sự nghiệp lớn lao của mình là bảo vệ quyền bình đẳng và công lý cho xã hội.
Luật lao động ra đời đã mang lại những đúc kết kinh nghiệm và lý luận cao quý. Nó bênh vực người lao động một cách rất có ý thức lao động đồng thời nó bảo đảm cho người sử dụng lao động có quyền tự chủ trong quá trình sử dụng lao động khi nền kinh tế thị trường đang dần thay thế một nền kinh tế quan liêu kế hoạch hoá. Tuy nhiên, luật lao động cũng chưa quy định những chế tài đúng đắn như một trong hai bên có dấu hiệu vi phạm pháp luật lao động. Sự can thiệp của Công đoàn, của cơ quan quản lý lao động lẽ ra phải được luật lao động quy định là yếu tố quyết định khi tiến hành hoà giải hoặc xử lý các vi phạm pháp luật lao động. Quy định đình công của người lao động là hợp pháp khi có công đoàn tham gia là điều mà luật lao động phải xem xét, cân nhắc thận trọng hơn…
Sự ra đời của luật lao động năm 2002 đã đánh dấu bước phát triển tột bậc điều chỉnh quan hệ lao động ở nước ta hiện nay của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong cơ chế nền kinh tế thị trường. Nó xuất phát từ quan điểm vì con người và do con người mà Đảng ta đã rất chú trọng và nhất là thời kỳ đổi mới đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề pháp lý cơ bản mà Hiệp định thương mại đặt ra.doc