Những vấn đề về lạm phát ở Việt Nam

MỤC LỤC

NỘI DUNG CHÍNH 3

I. Vài nét về lạm phát. 3

I.1. Khái niệm. 3

I.2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam. 4

II. Nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam. 11

II.1. Lạm phát do chi phái đẩy ở Việt Nam. 11

II.2. Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam. 13

II.3. Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ trên thực tế. 14

II.4. Những yếu tố khác. 16

III. Tác động của lạm phát. 16

III.1. Tác động lại thu nhập. 16

III.2. Tác động đến phát triển kinh tế và tầng lớp dân cư. 17

III.3. Tác động khác. 18

IV. Những biện pháp kiềm chế lạm phát. 20

IV.1. Về chính sách tiền tệ. 20

IV.2. Về chính sách tài khóa. 21

IV.3. Các biện pháp khác. 24

LỜI KẾT LUẬN 29

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

docx30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2105 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề về lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt là sự kiện Mỹ chủ trương lật đổ chính quyền đương thời để lập nên một chính quyền mới ở Irắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh vùng vịnh xảy ra , đã khiến cho tình hình kinh tế thế giới rơi vào tình trạng hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều tăng cao. Đặc biệt là giá xăng dầu, giá vàng tăng mạnh. Một sự kiện xảy ra trong thời gian vừa qua đó là việc một số cửa hàng xăng dầu ở các thành phố lớn đã đóng cửa không bán xăng cho người tiêu dùng, đó chính là dấu hiệu của sự đầu cơ, có thể gây những ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế. Trước tình hình đó, Bộ thương mại đã có những chấn chỉnh kịp thời yêu cầu tât cả các cửa hàng xăng dầu phải mở cửa bán hàng trở lại và xử phạt các cửa hàng đã đóng cửa bán hàng trong khi vẫn có xăng trong cửa hàng. Giá vàng cũng tăng mạnh, thậm chí có ngày trong một buổi sáng giá vàng tăng ba lần. Trước tình hình đó, nguy cơ giá cả tăng cao rất đễ xảy ra, thực tế trong hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%. Hiện tại, giá dầu và giá vàng, giá rất nhiều mặt hàng khác trên thế giới vẫn tiếp tục tăng, ở nước ta giá vàng còn cao hơn trên thế giới , vì vậy trong những ngày vừa qua chúng ta vẫn tiếp tục nhập vàng về để tìm cách ổn định thị trưòng vàng trong nước . Việc giá cả tiếp tăng trong thời gian tới là điều không tránh khỏi , vì vậy Chính phủ cần thiết phaỉo đưa ra được những chính sách nhằm mục đích có thể kiểm soát được tình hình lạm phát hiện nay. Năm 2008, khi vào tháng 7 năm đó chỉ số CPI đã lên đến gần 30% (YoY), lạm phát đã thành nỗi ám ảnh đối với nhiều người dân và chính phủ Việt Nam. Lạm phát đã tăng trưởng âm vào những tháng cuối năm 2008 và chỉ tăng nhẹ trong những tháng đầu năm 2009. Trong thời gian vừa qua các phương tiện truyền thông đề cập nhiều đến vấn đề lạm phát sẽ quay trở lại, trên thực tế liệu nguy cơ lạm phát cao có quay trở lại hay không? Nguồn: WB và dự báo 2009 của Vietstoc Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Việt Nam 2 năm liền rơi vào tình trạng giảm phát là năm 2000 và 2001. Lạm phát dần quay trở lại từ năm 2004 do các chính sách kích cầu mạnh mẽ cùng sự leo thang của giá nhiều mặt hàng trên thế giới. Năm 2007, lạm phát tăng đến 2 con số đã gây nên hoang mang cho người dân và cả các nhà lãnh đạo đất nước. Lạm phát thực sự bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm 2008. Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30% (YoY). Kết thúc năm 2008, lạm phát lùi về còn 19.89%, đây là mức cao nhất trong vòng 17 năm qua. Trong đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49.16%. Nhìn lại diễn biến lạm phát năm 2008 có nhiều điểm đáng lưu ý. Tháng 5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến của giá lương thực (CPI lương thực tăng  22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm phát cũng tăng 3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát lên tới 2.86% cho mỗi tháng. Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm phát kể từ tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. Những tháng đầu năm 2009 lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo ngại. Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm giảm 0.33%. Nguồn: TCTK Nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam. Tìm hiểu nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam có thể giúp chúng ta dự báo về lạm phát trong lương lai và có những chính sách đúng đắn nhằm ngăn chặn tác hại của lạm phát đến sự phát triển kinh tế. Những nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam không nằm ngoài khuôn khổ lý thuyết. Tuy nhiên, nguyên nhân chính gây nên lạm phát cao ở Việt Nam được nhiều người đánh giá là lạm phát do cung tiền và lạm phát do chi phí đẩy. Phần này đi phân tích và làm rõ hơn về 2 nguyên nhân này. II.1. Lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam: Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP (2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát. Tuy nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế giới không thể giải thích hoàn toàn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan sát bảng sau chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam chính là lạm phát do nguyên nhân cung tiền. (Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác) II.2. Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam: Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này không giải thích được hoàn toàn nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời gian qua, cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên lạm phát ở Việt Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này. Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện biện pháp Vô hiệu hóa  lượng tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên. Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt 49.1%. Như vậy tăng trưởng tín dụng cao và dòng tiền mua ngoại tệ của NHNN đã làm cho cung tiền tăng mạnh dẫn đến lạm phát. II.3. Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ trên thực tế: Lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian qua được cho là nguyên nhân tiền tệ. Thực tế quan sát biểu đồ hình dưới giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát không có một mối quan hệ chặt với nhau rõ ràng. Các kiểm định thống kê cũng không thấy có tương quan đáng tin cậy giữa tăng trưởng M2 và lạm phát. Nguồn: WB và Vietstock dự báo Tuy nhiên, chúng ta cũng không đủ cơ sở để phủ định được lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và cung tiền đối với Việt Nam bởi một số nguyên nhân sau: Thứ nhất: Số liệu thống kê về lạm phát và cung tiền ở Việt Nam không đủ lớn, số liệu tính theo năm đáng tin cậy có được từ năm 1992 đến nay. Với chuỗi số liệu như vậy không đủ lớn cho việc làm các kiểm định thống kê cho kết quả có ý nghĩa. Thứ hai: Một biến số rất khó đo lường hiện nay là thay đổi trong vòng quay tiền (ΔV). Trong các mô hình lý thuyết giả định ΔV =0, tuy nhiên thực tế vòng quay tiền tệ biến động khá lớn qua các thời điểm khác nhau. Tốc độ lưu thông tiền tệ sẽ bị giảm mạnh khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn khó khăn. Lúc này người dân mất lòng tin vào sự phục hồi kinh tế do đó họ hạn chế chi tiêu làm cho vòng quay tiền giảm. Chẳng hạn vào năm 2000 vòng quay tiền tệ là 1.95, năm 2002 chỉ còn 1.53  giảm 21.5%. Dù cho cung tiền tăng cao hơn bình thường nhưng không gây ra lạm phát. Khi đó lượng tăng trưởng cung tiền sẽ chuyển tác động đến việc gia tăng mức giá trong dài hạn có thể từ 8 đến 12 tháng trong một số giai đoạn có thể cao hơn. Chính vì những lý do này chúng ta thấy trong thực tế có giai đoạn mặc dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 khá cao nhưng lại không gây ra lạm phát tức thời. Để làm sáng tỏ thêm một số luận điểm nêu trên, sau đây chúng ta xem xét quan hệ giữa cung tiền và lạm phát. Chúng ta xét tăng trưởng tín dụng và lạm phát trong khoảng thời gian ngắn hơn: Nguồn: IFT và Vietstoctfinance Biểu đồ cho chúng ta thấy giữa 3 yếu tố này có một sự tương quan khá chặt chẽ nhưng thường có độ trễ nhất định. Lạm phát thường tăng hay giảm sau khi cung tiền tăng giảm từ 3-5. Các kiểm định thống kê cũng cho thấy lạm phát và độ trễ tăng trưởng tín dụng 4-7 tháng có quan hệ khá chặt. Đây là một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm phát cao ở Việt Nam. Vậy tại sao có kết quả khác nhau khi xem xét mối quan hệ cung tiền và lạm phát theo tháng và năm? Nguyên nhân xuất phát từ sự khác biệt giữa biến vòng quay tiền. Khi xét trong một khoảng thời gian dài vòng quay tiền giữa các năm có thể rất khác nhau đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế có nhiều biến động. Đối với dữ liệu tháng chúng ta có thể có một số lượng quan sát đủ lớn chỉ trong thời gian ngắn, trong giai đoạn ngắn sự thay đổi vòng quay tiền rất nhỏ nên sự thay đổi cung tiền sẽ phản ánh vào biến động giá trên thị trường. II.4. Những yếu tố khác: Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai đoạn mà một nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trò chính. Nhiều khi các nguyên nhân có thể đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch ròi. Một số nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát ở Việt Nam đó là sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân sách cao thường xuyên. Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất thế giới. Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư/GDP luôn lớn hơn 40% trong khi đó tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở trung bình chưa đến 8%. ICOR của Việt Nam lớn hơn 5 lần, cao hơn nhiều so với các nước Đông Á, và các quốc gia khác cùng trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua, áp lực in tiền tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát. Ngoài ra, việc kiểm soát giá hàng hóa và neo tỷ giá ngoại tệ một cách khá cứng nhắc cũng gây ra những xáo trộn kéo dài cho nền kinh tế. Tỷ giá hay giá hàng hóa không phản ánh giá thị trường do kiểm soát hoặc độc quyền đều ẩn chứa khả năng lạm phát tiềm tàng trong tương lai. Tác động của lạm phát. III.1. Lạm phát tác động lại thu nhập. Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là: - Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất về giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá đã tăng lên gấp nhiều lần. - Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm đánh mất của cải nhanh nhất. - Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn. III.2. Tác động đến phát triển kinh tế và tầng lớp dân cư. Lạm phát làm giảm trầm trọng tốc độ tăng trưởng GDP vì nó làm cho người dân nghèo thêm, kiềm chế sản xuất trong khối doanh nghiệp. Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những tác động chủ yếu bao gồm: Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn.Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (vídụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến người dân. Người dân nhất là những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực tiếp nhất của lạm phát trong cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc làm cho người dân trong trung và dài hạn. Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức, phúc lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi. III.3. Những tác động khác. Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phát cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn. Ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng: Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi. Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng. Vì vậy xét ở góc độ các NHTM cần có những biện pháp kiềm chế lạm phát. Những biện pháp kiềm chế lạm phát. Tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu và hầu hết các nguyên vật liệu cơ bản và lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tăng cao; sự suy giảm của kinh tế Mỹ đã tác động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Trong nước, đợt rét đậm, rét hại lịch sử kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã gây tổn thất lớn về vật chất và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Trong điều kiện kinh tế nước ta có sức cạnh tranh chưa cao lại mới bước đầu vận hành theo cơ chế thị trường và đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới thì những hệ quả nặng nề của thiên tai, dịch bệnh và những biến động bất lợi của kinh tế toàn cầu đã có tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá trong nước. Trước tình hình này, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. IV.1. Về chính sách tiền tệ : Mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Cúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó ví tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia sớm ổn định tổ chức, kịp thời phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tăng cường các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ. IV.2. Về chính sách tài khoá : Đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước. Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau: - Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát,cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. - Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng... - Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế... để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo...; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao.  - Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh... để khắc phục tình trạng đầu cơ, mua bán lòng vòng, lũng đoạn thị trường… - Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. - Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hoá kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải  phát triển thị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn. ... - Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ,... khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sê làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kin

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNhững vấn đề về lạm phát ở Việt Nam.docx
Tài liệu liên quan