Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011

Văn hóa xã hội là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác lẫn nhau, tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng con người và cả cộng đồng. Văn hóa hình thành nên hệ giá trị của một quốc gia, tạo ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư duy phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”. Dự thảo Chiến lược xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế., xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển”, đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là một điểm nhấn của dự thảo Chiến lược, góp phần khắc phục những bất cập, yếu kém, tạo bước phát triển mới trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội.

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng ta về bước đi và biện chứng phát triển của tiến trình đổi mới. Dự thảo Chiến lược nêu “đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”. Trọng tâm của đổi mới chính trị là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước. Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa mà cạnh tranh kinh tế diễn ra rất quyết liệt. Mỗi nước đều tìm cách khai thác tốt nhất các lợi thế so sánh sẵn có, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, đồng thời, tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới. Tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa kinh tế là những lợi thế so sánh sẵn có, tuy rất quan trọng nhưng không phải là quyết định nhất. Thực tiễn đã khẳng định nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định lợi thế cạnh tranh dài hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện khoa học công nghệ - sản phẩm trí tuệ của con người phát triển nhảy vọt trong thời đại chúng ta. Hơn nữa, mục tiêu phát triển kinh tế xét đến cùng là vì con người, cho con người. Con người phát triển toàn diện, có đời sống vật chất ấm no, đời sống tinh thần phong phú, có năng lực trí tuệ, phát huy mọi khả năng sáng tạo trong sự nhận thức được cái tất yếu để có thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, vươn tới tự do. Dự thảo Chiến lược nêu quan điểm“phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, quan điểm này nhấn mạnh yêu cầu mới, quan trọng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất phải dựa vào trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, phản ánh xu thế khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, còn quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm “phát triển nhanh hài hoà các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Tăng tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết và định hướng nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã...”. Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước mà còn có các nguồn lực khác do Nhà nước sở hữu gồm ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên, dự trữ quốc gia… Thông qua các chính sách phát triển và cơ chế điều tiết, phân bổ hiệu quả, các nguồn lực này sẽ là nhân tố kích hoạt, định hướng việc thực hiện chính sách cơ cấu và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không chỉ nói riêng nguồn lực vật chất mà phải đặt nó trong sự tác động của chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và cũng không chỉ nói đến vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế mà phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Điều đó cũng đòi hỏi phải nhận thức và định vị lại nội dung hoạt động và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Cùng với việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, dự thảo Chiến lược nhấn mạnh “Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”. Từ hội nhập kinh tế, các nước đang mở rộng hội nhập sang các lĩnh vực khác như là một tiến trình khách quan. Để tích cực, chủ động và nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập quốc tế, chúng ta phải “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”. Nhấn mạnh quan điểm này là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng doanh nghiệp trong nước có mạnh, nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội nhập mới cao. Càng hội nhập có hiệu quả, chúng ta càng có điều kiện thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. 2. Về mục tiêu Chiến lược và các khâu đột phá Dự thảo Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”. Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể nêu trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương lĩnh thứ hai của Đảng” nhằm triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện Cương lĩnh. Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá - những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Dự thảo lựa chọn ba đột phá: Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, nâng cao năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Mặt khác, kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường. Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. Đặt yêu cầu gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung mới, thể hiện tính hướng đích của phát triển nguồn nhân lực. Chỉ với nguồn nhân lực có khả năng phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và quản lý mới tạo ra năng suất cao để phát triển nhanh và bền vững.  Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất nước. Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng đang là cản trở lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, không phát huy được tác động hội tụ và lan tỏa của các yếu tố nội sinh, không khai thác được vị trí địa kinh tế nằm trong chuỗi cung toàn cầu của nước ta và là nguy cơ làm gia tăng chênh lệch về mức sống giữa các vùng của đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực hiện khâu đột phá này.   3. Về các định hướng phát triển Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự thảo Chiến lược đề ra 12 định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống đồng bộ các giải pháp lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể của phát triển bền vững; bảo đảm gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số nội dung mới. Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là những tư tưởng quan trọng nhất cũng là những nét mới trong tư duy phát triển.   Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có khủng hoảng. Quá trình này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước. Nội dung và nhịp độ của tái cấu trúc phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền kinh tế phải diễn ra đồng thời trên các nội dung sau: (1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Mặt khác, phải hết sức coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân. (2) Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, phải xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. (3) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh. Song song đó, mỗi doanh nghiệp phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả. (4) Coi trọng hơn thị trường trong nước. Phát triển mạnh hệ thống phân phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để có thể làm chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do. (5) Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường. Để thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác động, có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản lý. Có kỹ năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai nhân tố trên. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt nhưng  không thể hành động theo ý muốn mà phải tạo ra các tiền đề và điều kiện cho quá trình chuyển đổi. Những tiền đề và điều kiện đó chính là các đột phá chiến lược. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiến lược tới, nhất là trong những năm đầu, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá, kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu, theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu.  Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là công việc đòi hỏi sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường và hỗ trợ còn doanh nghiệp là chủ thể, lực lượng chủ công của tiến trình này. Văn hóa xã hội là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác lẫn nhau, tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng con người và cả cộng đồng. Văn hóa hình thành nên hệ giá trị của một quốc gia, tạo ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư duy phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”. Dự thảo Chiến lược xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế..., xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển”, đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là một điểm nhấn của dự thảo Chiến lược, góp phần khắc phục những bất cập, yếu kém, tạo bước phát triển mới trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, đã có những văn bản quy định về một số chính sách cụ thể. Dự thảo Chiến lược lần này đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn diện làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững. Thể hiện nhận thức đầy đủ hơn về nguy cơ ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với sự phát triển bền vững, dự thảo Chiến lược trình bày phương hướng cơ bản và các chỉ tiêu cụ thể về bảo vệ và cải thiện môi trường, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương, trong từng dự án; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và phát triển các dịch vụ môi trường. Chủ động triển khai chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng; tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động có tính toàn cầu này. 4. Về nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước Để thực hiện thắng lợi Chiến lược với những nội dung chủ yếu nêu trên, phải không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Dự thảo Chiến lược đã thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa ba thành tố của cơ chế này trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Trong cơ chế đó, nhân dân ủy nhiệm cho Nhà nước thực hiện quyền lực quản lý với chức năng cơ bản là tạo môi trường cho sự phát triển và phục vụ sự phát triển. Phải đặt yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Dự thảo xác định các chức năng quản lý và kiến tạo phát triển của Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; đề ra các giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước; nhấn mạnh yêu cầu phát huy vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Cùng với việc hoàn thiện các thiết chế thực hiện dân chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp, Dự thảo đề cao vai trò phản biện xã hội, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước các cấp. Thông qua phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình mà góp phần hoàn thiện chính sách và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý. III. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong năm đầu thực hiện Chiến lược Những quan điểm và định hướng của Chiến lược 2011 - 2020 phải được thể hiện ngay trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Chính phủ đã báo cáo và Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm 2011. Nghị quyết đã nêu toàn diện mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp lớn. Sau đây là những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011. 1. Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát Chúng ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả hàng hóa  tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro có nguy cơ lan rộng, đồng Đô la Mỹ - đồng tiền chủ yếu trong thanh toán quốc tế bị giảm giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây biến động lớn thị trường tài chính quốc tế. Ở trong nước, năm 2010 kinh tế phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao (6,78%), xuất khẩu tăng nhanh (25,5%), nhập siêu chỉ còn bằng 17,3% kim ngạch xuất khẩu, thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể giảm mạnh. Tuy nhiên, lạm phát và lãi suất tăng cao, tỷ giá biến động, gây sức ép đến ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh khó khăn và đe doạ tăng trưởng bền vững. Trước tình hình đó, năm 2011 phải tập trung sức để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Phải giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; kiên quyết cắt giảm các công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung nguồn lực cho các dự án tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng; giảm bội chi ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại, kiềm chế tốc độ tăng giá. Thực tiễn những năm qua, cho thấy, chính sách vĩ mô phải chuyển những thông điệp rõ ràng nhằm tạo niềm tin cho thị trường và định hướng cho sản xuất kinh doanh. Phải theo sát sự vận động của kinh tế thế giới và trong nước; nâng cao năng lực dự báo, chủ động, nhạy bén trong phản ứng chính sách; linh hoạt sử dụng phù hợp các công cụ của chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính khi không thực sự cần thiết; nâng cao hiệu quả bình ổn và điều hòa nguồn vốn giữa các tổ chức tín dụng của thị trường liên ngân hàng; kết hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Tăng cường giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, bảo đảm kinh doanh trung thực, tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn. 2. Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng Tập trung hoàn thiện thể chế, tạo lập thị trường đất đai lành mạnh trên nguyên tắc đất đai là công thổ quốc gia và là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân. Nhà nước và người giao lại quyền sử dụng đất phải là những đối tượng được hưởng lợi chủ yếu từ việc chuyển giao quyền sử dụng đất. Đây là nguyên tắc cơ bản để hình thành chính sách và thị trường đất đai.  Đẩy nhanh tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước tuy là một nội dung của tái cấu trúc doanh nghiệp nhưng lại là điều kiện để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế - một tiêu chí của kinh tế thị trường. Phương hướng và nội dung chủ yếu của đổi mới doanh nghiệp nhà nước là đẩy mạnh cổ phần hoá và cải cách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty nhà nước cần tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, phải chuyển từ hoạt động đa dạng sang chuyên môn hoá nhằm thực hiện chính sách cơ cấu; đẩy mạnh đổi mới và sáng tạo, nâng cao hiệu quả và tạo lập năng lực cạnh tranh dài hạn để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Điều quan trọng là phải đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh và quy định các chỉ tiêu chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Cải cách cơ chế và tổ chức nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai kết quả kiểm toán. Năm 2011, phải triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, coi đây là một nội dung trọng tâm của tái cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp. Khẩn trương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách phát triển và tổ chức quản lý công nghiệp hỗ trợ. Tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp chế tạo với doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn và phát triển công nghiệp hỗ trợ theo cụm nhóm sản phẩm trên cơ sở thị trường có sự định hướng của Nhà nước, tập trung vào một số sản phẩm cơ khí, thiết bị điện, điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin... Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.   Phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả rộng như dịch vụ du lịch, dịch vụ phân phối, vận tải, dịch vụ logistics và các dịch vụ cảng biển, nhằm tận dụng vị thế địa kinh tế của nước ta trong chuỗi cung toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy dịch vụ tài chính và kinh doanh bất động sản phát triển lành mạnh. Triển khai chương trình quốc gia phát triển công nghệ thông tin, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam thành nước mạnh về công nghệ thông tin. Nhận thức đầy đủ hơn vai trò quan trọng có tính chiến lược của nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, triển khai mạnh mẽ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Nhà nước tăng đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, đầu tư phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến nhằm tạo ra các sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh. Tăng cường công tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm từ sản xuất, chế biến, lưu thông đến tiêu dùng. Đầu tư mạnh hơn cho hệ thống bảo quản, dự trữ để giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa, điều hoà cung cầu, ổn định giá cả. 3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường, tập trung vào các nhiệm vụ sau đây: Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả đầu tư; mở rộng các hình thức đầu tư theo cơ chế BOT, BT, khẩn trương ban hành quy định về hợp tác công - tư (PPP) để phát triển hệ thống giao thông, nhất là các công trình lớn. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, xác lập quyền sử dụng đất, thủ tục hải quan, thuế, nhằm giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Hướng mạnh hoạt động của Ngân hàng phát triển vào việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; tăng nguồn kinh phí bảo lãnh tín dụng và năng lực thẩm định dự án được bảo lãnh của Ngân hàng này. Ưu tiên nguồn tín dụng cho các sản phẩm trọng điểm. Nghiên cứu việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các khu vực doanh nghiệp theo mức đóng góp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu. Phát triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường nước ngoài, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra chất lượng các mặt hàng nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất trong nước. Coi trọng hơn thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn. Đẩy mạnh cuộc vận đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoidungchuyeucuaChienluocphattrien2011.doc
Tài liệu liên quan