Phân tích các nguyên tắc đa dạng hóa xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội và giải quyết tình huống

Tại khoản 1 điều 42 luật bảo hiểm xã hội quy định: “Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần”. Như vậy, với trường hợp của anh A bị tai nạn lao động suy giảm 27 % thì anh chỉ được nhận trợ cấp một lần. Ngoài được hưởng bảo hiểm xã hội một lần anh A còn được hưởng 100% lương trong quá trình điều trị lần đầu và được người sử dụng lao động chi trả các chi phí điều trị. Mức trợ cấp được tính dựa trên mức suy giảm khả năng lao động và số năm đóng bảo hiểm xã hội theo công thức quy định cụ thể tại mục III.2 Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3183 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các nguyên tắc đa dạng hóa xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội và giải quyết tình huống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài số 4: Phân tích các nguyên tắc đa dạng hóa xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội 2. A là công nhân của nhà máy Z từ năm 1990. Năm 2008 do sơ suất trong quá trình vận hành máy nên A bị tai nạn suy giảm từ 27% khả năng lao động. Tháng 5/2010 do vết thương tái phát A phải vào viện điều trị. A được giám định lại khả năng lao động và được xác định suy giảm 35% khả năng lao động. Lúc này do tuổi cao ( A đã 58 tuổi) nên A làm đơn xin về hưu và đề nghị cơ quan bao rhiểm thanh toán cho A 100% tiền lương trong thời gian A điều trị vết thương tái phát ( vì cơ quan bảo hiểm mới trả có 75% tiền lương ) đồng thời giải quyết cho A được hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động hàng tháng thay vì trợ cấp một lần trước đây Hãy giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho A theo quy định của pháp luật hiện hành. Phân tích nguyên tắc đa dạng hóa các hoạt động an sinh xã hội Hoạt động an sinh xã hội là một trong những hoạt động xã hội cơ bản của mỗi quốc gia để hướng tới mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Bản chất sâu xa của an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Trong cuộc sống, có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người mà chúng ta không thể lường trước được, nhu cầu bảo vệ của con người rất đa dạng xuất phát từ các nguyên nhân rủi ro khác nhau. Sự đa dạng của các nguyên nhân rủi ro dẫn đến sự đa dạng và phong phú trong các hình thức bảo vệ của hoạt động ASXH. Căn cứ vào các nguyên nhân rủi ro khác nhau đã hình thành nên các nhóm đối tượng với các hình thức bảo vệ phù hợp, có đối tượng cần bảo đảm thu nhập, có đối tượng cần trợ giúp để vượt qua tình trạng nguy kịch của cuộc sống nhưng cũng có đối tượng cần sự nâng đỡ, động viên tinh thần, tạo cơ hội vươn lên hòa nhập cộng đồng. Hơn nữa, không phải lúc nào và bao giờ các nhu cầu ASXH cũng giống nhau, thậm chí ngay trong cùng một nhóm đối tượng có cùng một nguyên nhân rủi ro. Chẳng hạn khi một cơn bão đi qua gây hậu quả nhưng nhu cầu của mỗi người là khác nhau, có đối tượng cần nơi ở, có đối tượng cần lương thực để tồn tại, nhưng cũng có đối tượng cần trợ giúp về y tế, phương tiện sinh sống. Chính vì thế, ASXH cần phải thực hiện theo hướng đa dạng hóa hoạt động với các phương thức khác nhau mới đảm bảo được mục đích, công bằng và an toàn chung xã hội. Nguyên tắc này được thể hiện rất rõ trong việc quy định nội dung ASXH với đa dạng các chế độ trợ cấp BHXH, BHYT, TGXH, UĐXH, … hình thành theo các nhóm đối tượng và hình thức thực hiện khác nhau. Sự phát triển của ASXH trong lịch sử cũng chứng minh cho sự đa dạng hóa các hoạt động ASXH bằng việc thiết lập các “ lưới an toàn xã hội” ngày càng dày đặc hơn với nhiều “tầng tầng, lớp lớp” chế độ bảo vệ nhằm bao quát các thành viên xã hội. Việc thực hiện ASXH trước tiên thuộc về trách nhiệm của nhà nước nhưng đồng thời đây cũng là mối quan tâm lo lắng chung của toàn thể xã hội. Do vậy, bên cạnh vai trò của nhà nước trong thực hiện ASXH, sự tham gia thực hiện của các tổ chức, đoàn thể, quần chúng nhân dân toàn xã hội cũng quyết định đến sự thành công của sự nghiệp ASXH. Mặt khác, suy cho cùng các công việc xã hội, các vấn đề xã hội phải do toàn xã hội đảm nhiệm, gánh vác trong đó Nhà nước giữ vai trò ví như người “nhạc trưởng”. Nhà nước với vai trò trung tâm của mình điều tiết các hoạt động ASXH đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để bất kỳ cánhân, tổ chức nào cũng có thể tham gia thực hiện ASXH, miễn không có mưu đồ chính trị hoặc vụ lợi cá nhân. Chính vì vậy, xã hội hóa các hoạt động ASXH trở thành nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện mục đích của ASXH. Nguyên tắc này được cụ thể hóa rõ nét nhất trong các quy định của pháp luật ASXH điều chỉnh các quan hệ TGXH, ƯĐXH. Theo đó, nhà nước huy động mọi nguồn lực tài chính và nhân lực thực hiện, hình thành phong trào có tính chất sâu rộng với toàn thể các tầng lớp nhân dân. Thực tế cho thấy bên cạnh các chế độ trợ cấp từ Ngân sách nhà nước, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước góp phần quan trọng trong việc bảo vệ cuộc sống của người dân, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống. Những đóng góp của các tổ chức, cá nhân tiêu biểu như Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quy vì người nghèo, Quỹ bảo trợ trẻ em tàn tật, Quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam… trong thời gian qua đã chứng minh rõ nét cho những thành công của việc xã hội hóa hoạt động an sinh xã hội. Xã hội hóa thực hiện các hoạt động ASXH vừa là nguyên tắc, vừa là phương thức thực hiện đảm bảo mục tiêu của ASXH. Trong điều kiện hiện nay, việc thực hiện nguyên tắc này được đặt trên cơ sở của tư tưởng tiến bộ với vai trò của Nhà nước. Cần xác định rõ vai trò của nhà nước, của cá nhân, cộng đồng và cả những thiết chế thị trường. Tư tưởng bao cấp với quan niệm Nhà nước là người bảo trợ lớn nhất với nguồn tài chính khổng lồ cần phải được thay thế bằng việc xác định giới hạn cần thiết của sự bảo vệ, và quan trọng hơn cả là Nhà nước cần có những biện pháp huy động sự tham gia của đông đảo thành viên xã hội, của chính bản thân đối tượng tạo cơ sở, nền tảng đảm bảo ổn định và phát triển bền vững. Nhà nước không nên can thiệp rộng, cụ thể, chi tiết và thực hiện thay các nghĩa vụ cộng đồng mà sự tham gia trực tiếp của Nhà nước cần theo hướng “Nhà nước ít như cần thiết, cộng đồng nhiều như có thể”. Để có được một hệ thống an sinh xã hội phát triển, đủ sức chống đỡ với các rủi ro xã hội ngày một tăng lên đòi hỏi nhà nước và mỗi cá nhân trong xã hội phải nỗ lực hết mình và chia sẻ những rủi ro cho nhau, có như vậy hoạt động an sinh xã hội mới thể hiện được đúng bản chất “tương trợ cộng đồng” của nó. 2. Giải quyết tình huống: Trước hết, để giải quyết tình huống trên, ta cần xét đến các điều kiện cá nhân anh A để giải quyết các quyền lợi cho anh theo quy định của BHH hiện hành: _ Về tuổi: Anh A 58 tuổi _ Về số năm tham gia bảo hiểm xã hội: + 18 năm ( từ năm 1990 đến năm 2008) + 20,5 năm ( từ năm 1990 đến 5/2010) Trường hợp của anh A có những sự kiện sau: _ Bị tai nạn lao động vào năm 2008, suy giảm 27% khả năng lao động _ Năm 2010 vết thương tái phát, giám định lại mức suy giảm khả năng lao động là 35%, yêu cầu thanh toán 100% tiền lương trong thời gian điều trị vết thương tái phát _ Anh A có đề nghị được về hưu sớm. 2.1. Giải quyết quyền lợi liên quan đến tai nạn lao động vào năm 2008: Theo như tình huống trên, vào năm 2008 do sơ suất trong quá trình vận hành máy nên anh A đã bị tai nạn suy giảm 27%. Theo quy định tại điều 105 Bộ luật lao động thì “tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thức hiện công việc nhiệm vụ lao động” Theo quy định của pháp luật, tai nạn được coi là tai nạn lao động khi người lao động bị tai nạn trong quá trình lao động sản xuất hoặc thực hiện công việc mà chủ sử dụng lao động giao cho, các trường hợp được coi là tai nạn lao động được pháp luật quy định rất cụ thể tại Điều 39 Luật bảo hiểm xã hội quy định: “Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc; b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động; c) Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý; 2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 Điều này”. Tai nạn lao động là những rủi ro mà người lao động không thể lường trước. Việc bị tai nạn lao động sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình lao động của bản thân, điều đó có nghĩa việc xảy ra tai nạn lao động sẽ làm giảm hoặc mất đi thu nhập từ lao động, trong khi đó nhu cầu sinh hoạt và đời sống của họ lại càng ngày tăng cao. Do đó bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động lại càng trở nên cần thiết và mang lại ý nghĩa nghĩa vô cùng quan trong đối với bản thân người lao động và gia định họ cũng như sự ổn định của xã hội. Trong trường hợp tình huống nêu trên, do anh A bị tai nạn trong quá trình vận hành máy cho nên có thể xác định anh A bị tai nạn lao động. Do vậy, anh A sẽ được nhận trợ cấp tai nạn lao động của bảo hiểm xã hội. Cụ thể, anh A được giám định là sẽ được hưởng trợ cấp do bị suy giảm 27% khả năng lao động. Tại khoản 1 điều 42 luật bảo hiểm xã hội quy định: “Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần”. Như vậy, với trường hợp của anh A bị tai nạn lao động suy giảm 27 % thì anh chỉ được nhận trợ cấp một lần. Ngoài được hưởng bảo hiểm xã hội một lần anh A còn được hưởng 100% lương trong quá trình điều trị lần đầu và được người sử dụng lao động chi trả các chi phí điều trị. Mức trợ cấp được tính dựa trên mức suy giảm khả năng lao động và số năm đóng bảo hiểm xã hội theo công thức quy định cụ thể tại mục III.2 Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH Tuy nhiên, vào tháng 5/2010 do vết thương tái phát nên anh A phải vào viện điều trị mất 3 tháng. Sau khi khám lại sức khỏe, Hội đồng giám định sức khỏe kết luận: anh A bị mất 35% khả năng lao động. theo quy định tại Điều 41 luật bảo hiểm xã hội về giám định mức suy giảm khả năng lao động “1. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định; b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định.” Như vậy, sau khi giám định lại sức khỏe do vết thương bị tai nạn lao động tái phát, anh A đã được hội đồng giám định kết luận mức suy giảm khả năng lao động của anh không phải ở mức 27% nữa mà đã tăng lên 35%. Trong trường hợp này, do pháp luật bảo hiểm cho phép anh A được giám định lại sức khỏe do tai nạn nghề ngiệp, bệnh nghề nghiệp gây ra làm tổn hại đến sức khỏe, cho nên, anh A sẽ được thay đổi mức trợ cấp do tai nạn lao động. Theo quy định tại khoản 1 điều 43 luật bảo hiểm xã hội thì “Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng”. Như vậy, anh A sẽ được thay đổi mức nhận trợ cấp từ được nhận trợ cấp một lần sang mức nhận trợ cấp hàng tháng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP , cách tính trợ cấp hàng tháng được tính bằng tổng mức trợ cấp tính theo mức suy giảm khả năng lao động và mức trợ cấp tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp tính theo mức suy giảm khả năng lao động như sau: suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung. Mức trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội như sau: từ 1 năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. Anh A được giám định lại lần 2 suy giảm 35% khả năng lao động, thời gian đóng bảo hiểm xã hội là 20 năm rưỡi ( từ năm 1990 đến tháng 5/2010 ) Như vậy tính theo công thức trên anh A sẽ được hưởng mức trợ cấp như sau: {30% + 4.2 =38% mức lương tối thiểu chung } + { 0,5%+ 19,5x0.3= 6,35% mức lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị} Như vậy anh A sẽ được hưởng 38% mức lương tối thiểu chung và 6,35% mức lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi anh vào viện điều trị. 2.2. Giải quyết trường hợp anh A đòi cơ quan bảo hiểm thanh toán 100% tiền lương trong thời gian nằm viện: Theo pháp luật lao động quy định tại Khoản 1 Điều 143 thì : “Trong thời gian người lao động nghỉ việc để chữa trị vì tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, người sử dụng lao động phải trả đủ lương và chi phí cho người lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 107 của Bộ luật này.” Như vậy người sử dụng lao động tức nhà máy Z phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ lương trong những ngày anh điều trị tai nạn lao động, cơ quan bảo hiển không có trách nhiệm thanh toán lương cho anh mà chỉ có trách nhiệm chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội với cơ sở tính là tiền lương. Tuy nhiên trong trường hợp này, năm 2008 anh A do sơ suất trong quá trình vận hành máy nên bị tai nạn lao động và đến tháng 5/2010 thì vết thương tái phát, anh A phải vào viện điều trị. Việc nhập viện của anh A lúc này là do vết thương từ tai nạn lao động năm 2008 tái phát chứ không phải do anh bị tai nạn lao động mới. Điều này đồng nghĩa với việc anh sẽ không điều trị theo chế độ tai nạn lao động mà trường hợp vết thương tái phát sẽ được hưởng theo chế độ ốm đau. Căn cứ vào phân tích trên thì cơ quan bảo hiểm hoàn toàn không có nghĩa vụ thanh toán tiền lương cho anh A lúc nhập viện điều trị vì vết thương tái phát. _ Về thời gian hưởng: Anh A làm việc trong điều kiện bình thường, đã đóng bảo hiểm 20 năm rưỡi như vậy anh sẽ được nghỉ 40 ngày theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Luật bảo hiểm xã hội :"Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng ba mươi ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm năm; bốn mươi ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm năm đến dưới ba mươi năm; sáu mươi ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi năm trở lên". Sau thời gian hưởng chế độ ốm đau mà sức khỏe của anh chưa hồi phục thì anh được tiếp tục nghỉ dưỡng sức , phục hồi sức khỏe từ năm đến mười ngày trong năm ( Khoản 1 Điều 26 Nghị định 152/ NĐ-CP). Anh A không làm công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm và bệnh của anh A cũng không thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y Tế ban hành nên anh A không được hưởng những quyền lợi tiếp theo quy định trong điều luật này. _ Về mức hưởng chế độ ốm đau: Theo như tình huống trên, trường hợp của anh A thuộc vào điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị định 152/ NĐ-CP, cụ thể là làm việc trong điều kiện bình thường, như vậy, căn cứ vào Khoản 1 Điều 25 Nghị định 152/ NĐ-CP của Chính phủ thì anh A sẽ được hưởng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc và không thể yêu cầu cơ quan bảo hiểm thanh toán 100% toàn bộ tiền lương khi đang điều trị: "Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 23 và Điều 24 của Luật này thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc". Trong trường hợp anh nghỉ dưỡng sức thì sẽ được hưởng thêm trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định 152/NĐ-CP. Cụ thể anh sẽ được hưởng mức một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung. 2.3. Giải quyết chế độ hưu trí cho anh A: Anh A làm đơn xin về hưu vì lí do tuổi đã cao, lúc này các điều kiện của anh A như sau: + Anh A làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn +58 tuổi + có 20,5 năm đóng BHXH +bị suy giảm 35% khả năng lao động Theo đó, chiếu theo các điều kiện của anh A với các quy định tại Điều 50, 51 LBHXH về các điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng trước khi nghỉ việc: Điều 50. Điều kiện hưởng lương hưu 1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c và e khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi; b) Nam từ đủ năm mươi lăm tuổi đến đủ sáu mươi tuổi, nữ từ đủ năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời được hưởng lương hưu trong một số trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định. 2. Người lao động quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Nam đủ năm mươi lăm tuổi, nữ đủ năm mươi tuổi, trừ trường hợp Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hoặc Luật công an nhân dân có quy định khác; b) Nam từ đủ năm mươi tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi, nữ từ đủ bốn mươi lăm tuổi đến đủ năm mươi tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.  Điều 51. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 2 của Luật này đã đóng bảo hiểm xã hội đủ hai mươi năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điều 50 của Luật này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên; 2. Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.  Như vậy, có thể thấy rằng anh A chưa đủ điều kiện để hưởng lương hưu hàng tháng. Theo quy định về điều kiện hưởng BHXH một lần quy định tại Điều 55 LBHXH thì: Bảo hiểm xã hội một lần đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu 1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c và e khoản 1 Điều 2 của Luật này được hưởng bảo hiểm xã hội một lần khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật này mà chưa đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội; b) Suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà chưa đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội; c) Sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội và có yêu cầu nhận bảo hiểm xã hội một lần mà chưa đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội; d) Ra nước ngoài để định cư. 2. Người lao động quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 2 của Luật này được hưởng bảo hiểm xã hội một lần khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.  Theo các quy định trên thì anh A cũng không có đủ điều kiện để hưởng BHXH một lần vì anh A chưa đủ tuổi nghỉ hưu, mức suy giảm khả năng lao động thấp hơn 61% và không thuộc vào các trường hợp ưu tiên khác được hưởng chế độ này Anh A không đủ điều kiện để hưởng lương hưu hàng tháng, cũng như không đủ điều kiện nhận trợ cấp BHXH một lần. Theo Điều 57 LBHXH " người lao động khi nghỉ việc mà chưa đủ điều kiện để hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 hoặc chưa hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật này thì được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội". Như vậy, anh A có thể bảo lưu thời gian đóng BHXH và chờ đến thời điểm đủ điều kiện để được hưởng lương hưu hàng tháng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích các nguyên tắc đa dạng hóa xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội và giải quyết tình huống.doc
Tài liệu liên quan