MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM) 5
1.1. GIỚI THIỆU VỀ NHTM 5
1.1.1. Khái niệm về NHTM 5
1.1.2. Chức năng của NHTM 6
1.1.2.1. Trung gian tài chính 6
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán 7
1.1.2.3. Trung gian thanh toán 7
1.1.3. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng 7
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn 8
1.1.3.2. Hoạt động tín dụng 8
1.1.3.3. Hoạt động cung cấp dịch vụ khác 8
1.1.4. Đặc trưng của NHTM 9
1.1.4.1. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro 9
1.1.4.2. Đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng là tiền tệ 10
1.1.4.3. Nguồn vốn chủ yếu để các ngân hàng hoạt động kinh doanh chính là nguồn vốn huy động 10
1.1.4.4. Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh mang tính hệ thống cao và phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước 10
1.2. PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NHTM 11
1.2.1. Khái niệm về phân tích tài chính 11
1.2.2. Vai trò của phân tích tài chính đối với NHTM 11
1.2.3. Các phương pháp phân tích tài chính 12
1.2.3.1. Hệ thống đánh giá CAMEL 12
1.2.3.1.1.Sơ lược về mô hình CAMEL 12
47 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2529 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tài chính đối với ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn thương tín Sacombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t ngân hàng ra quyết định tín dụng kém chất lượng sẽ không thể tiếp tục tồn tại. ở một góc độ khác, chất lượng tài sản là nhân tố quan trọng hàng đầu đóng góp vào lợi nhuận và là nhân tố tạo sức mạnh tài chính dài hạn của ngân hàng.
M – Management quality (chất lượng quản lý)
Theo mô hình CAMEL, phân tích nhân tố quản lý cũng đóng vai trò quan trọng trong phân tích tài chính cũng như đưa ra các đánh giá về tình hình hoạt động và tài chính NHTM. Bởi vì sự quản lý và các quyết định quản lý sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Chính vì thế mà cần tập trung phân tích các yếu tố quản lý của NHTM để đánh giá chính xác hơn tình hình tài chính của ngân hàng.
Nhà phân tích có thể thông qua các nguồn htông tin sau để đánh giá chất lượng công tác quản lý: phỏng vấn trực tiếp, hiểu biết về thị trường, ý kiến của các ngân hàng tương đương, quy định của chính ngân hàng, khách hàng, các tổ chức đánh giá tín nhiệm.
Tóm lại, đây là những đánh giá mang tính chất chủ quan của nhà phân tích. Tuy nhiên, nó lại là điều cần thiết để các nhà phân tích đưa ra các ý kiến mang tính hệ thống về triết lý quản trị, phong cách quản trị và cách tiếp cận chiến lược hoạt động của 1 NHTM.
E – Earning (khả năng sinh lời)
Khả năng sinh lời phản ánh khá tổng quát kết quả của các hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, khả năng sinh lời còn giúp bù đắp các khoản tổn thất, tạo ra một cấu trúc tài chính cân bằng và là phần thưởng đối với cổ đông. Thu nhập tốt sẽ tạo dựng được niềm tin của người gửi tiền, nhà đầu tư, chủ nợ và công chúng. Do đó, khả năng sinh lời là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM.
NHTM có 4 nguồn thu chính: thu nhập từ lãi, phí và hoa hồng dịch vụ, thu nhập từ hoạt động kinh doanh và thu nhập khác. Chi phí quan trọng nhất của ngân hàng là chi phí lãi, lương nhân viên và dự phòng tổn thất nợ.
Điểm quan tâm lớn nhất của nhà phân tích tài chính là chất lượng của khoản thu nhập. Nó được đánh giá qua mức độ ổn định, độ tin cậy và tỉ lệ so sánh với các NHTM đồng hạng khác.
Các bước phân tích khả năng sinh lời bao gồm:
Bước 1: Phân tích lợi nhuận ròng từ lãi
Lợi nhuận ròng từ lãi là chênh lệch giữa thu nhập thu được từ lãi cho vay và chi phí lãi. Nó thể hiện khoản lãi thu được từ danh mục cho vay.
Chỉ tiêu phân tích:
Thu nhập ròng từ lãi
a. Lãi ròng biên = ---------------------------------------
Tổng tài sản bình quân
Mức chất lượng của chỉ tiêu: trên 3%.
ý nghĩa: Lãi ròng biên thể hiện cách thức đo lường hiệu quả sử dụng tài sản của NHTM. Mức lãi ròng biên tốt là chỉ dẫn về: thu nhập từ khoản cho vay tốt; tỉ lệ chi phí thấp; hiệu quả sử dụng tài sản và khả năng thu được lợi nhuận từ nguồn vốn.
b. Chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay
Thu từ lãi Chi trả lãi
Chênh lệch lãi suất (%) = ------------------------ – -------------------------
Tài sản sinh lợi Nợ phải trả lãi
bình quân bình quân
Chênh lệch lãi suất đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường ngân hàng có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất. Nếu các nhân tố khác không đổi, chênh lệch lãi suất sẽ giảm khi cạnh tranh tăng buộc ban quản trị ngân hàng phải có những biện pháp bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất.
Bước 2: Phân tích các khoản thu nhập khác
Các khoản thu nhập khác bao gồm các khoản thu như phí và hoa hồng, kinh doanh ngoại tệ và kinh doanh chứng khoán.
Chỉ tiêu phân tích: tỉ trọng thu nhập khác trên tổng thu nhập hoạt động.
Mức chất lượng của chỉ tiêu: Không có mức độ xác định cụ thể đối với chỉ tiêu này. Mức chất lượng phụ thuộc vào mức độ phân bổ trong quá khứ của tổng thu nhập hoạt động. Tuy nhiên, một mức độ ổn định 1% hoặc lớn hơn trên tổng tài sản được xem là một mức tốt vì điều đó chứng tỏ các NHTM ngày càng coi trọng thu nhập từ phí dịch vụ và các hoạt động ngoại bảng.
Bước 3: Phân tích chi phí hoạt động
Chi phí hoạt động hay còn gọi là chi phí ngoài lãi, bao gồm lương và các khoản liên quan; khấu hao; thuế; chi phí quản lý và chi phí khác.
Chỉ tiêu phân tích:
Tổng chi phí hoạt động
Chi phí trên thu nhập = ------------------------------------
Tổng thu nhập hoạt động
Mức chất lượng của chỉ tiêu: từ 55% đến 60%.
ý nghĩa của chỉ tiêu: Quản lý chi phí hoạt động là nhiệm vụ cơ bản của quản lý lợi nhuận. Thành công của công tác quản lý lợi nhuận là tỉ lệ chi phí/thu nhập ổn định, thấp hơn so với các ngân hàng đồng hạng và giảm dần theo thời gian.
Bước 4: Phânt ích dự phòng tổn thất nợ:
Dự phòng tổn thất nợ hay còn được gọi là dự phòng nợ xấu thể hiện sự phân bổ định kì đối với các khản dự trữ cho tổn thất nợ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Các chỉ tiêu phân tích:
- Chỉ tiêu 1: Dự phòng tổn thất nợ/Tổng tài sản bình quân
Mức chất lượng: dưới 0.5%
- Chỉ tiêu 2: Dự phòng tổn thất nợ/ Tổng dư nợ bình quân
Mức chất lượng: dưới 1%, lý tưởng là dưới 0.5%
- Chỉ tiêu 3: Thu nhập trước thuế, các khoản mục bất thường và dự phòng nợ tổn thất/Dự phòng tổn thất nợ
Mức chất lượng của chỉ tiêu: trên 1%
Mỗi chỉ tiêu ở trên là một thước đo đo lường sự tác động của chi phí hàng năm hoặc định kì đối với khả năng sinh lời để thiết lập một mức dự trữ đủ bù đắp tổn thất nợ.
Bước 5: Phân tích thu nhập ròng
Thu nhập ròng là điểm mấu chốt của mỗi ngân hàng.
Chỉ tiêu phân tích:
a. Chỉ tiêu 1: ROA
Thu nhập ròng
ROA = ---------------------------------
Tổng tài sản bình quân
Mức chất lượng của chỉ tiêu: 1%
Đây là chỉ tiêu thông dụng thê hiện hiệu quả quản lý, khả năng chu chuyển tài sản sinh lời của NHTM thành thu nhập ròng. Nó cho biết trung bình 100 đồng tài sản sinh lợi đưa vào hoạt động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho ngân hàng.
b. Chỉ tiêu 2: ROE
Thu nhập ròng
ROE = ---------------------------------
Vốn tự có bình quân
Mức chất lượng của chỉ tiêu: từ 10% đến 15%
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng sinh lời từ vốn góp của các cổ đông (tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn tự có của ngân hàng). ở một khía cạnh khác, ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng.
L – Liquidity (khả năng thanh toán)
Yếu tố cuối cùng để phân tích tình hình tài chính của ngân hàng là khả năng thanh khoản. Thanh khoản trong quản trị ngân hàng là cần thiết bởi 2 lí do: (i) để thoả mãn yêu cầu đối với các khoản nợ mới mà không cần thu hồi các khoản đang cho vay hoặc bán đi các khoản đầu tư có kì hạn; (ii) để đáp ứng các khoản rút tiền theo ý muốn của người gửi tiền bất kỳ lúc nào.
Ngân hàng vốn là tổ chức kiếm tiền chủ yếu thông qua đường cong lãi suất, đó là: huy động tiền gửi ngắn hạn với lãi suất thấp và cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn. Việc thanh khoản không ăn khớp này tiềm ẩn những nguy hiểm. Do đó, các ngân hàng phải nắm giữ một tỉ lệ tài sản có tính thanh khoản cao (lý tưởng là 20% đến 30% tổng tài sản) để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản thông thường của khách hàng.
Thanh khoản của ngân hàng phải được xem xét dưới góc độ là khả năng của ngân hàng trong việc tài trợ các khoản nghĩa vụ của nó. Các yếu tố thanh khoản nên kiểm tra bao gồm: (i) tính bất ổn của các khoản tiền gửi; (ii) mức độ tín nhiệm của các khoản tài trợ nhạy cảm với lãi suất; (iii) khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của tài sản; (iv) ảnh hưởng của thị trường tiền tệ; (v) hiệu quả của chiến lược và chính sách quản trị tài sản – nguồn vốn; (vi) sự tuân thủ chính sách thanh khoản nội bộ và (vii) bản chất, quy mô và các dự đoán trước về cam kết tín dụng.
Tính thanh khoản của NHTM chủ yếu được xem xét trên các chie tiêu liên quan tài sản lưu động của ngân hàng. Tài sản lưu động là tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền trong thời gian ngắn, thường không quá 1 năm. Tài sản lưu động của ngân hàng bào gồm: (i) tiền mặt; (ii) dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng trung ương; (iii) tiền gửi ngắn hạn tại các tổ chức tín dụng khác; (iv) chứng chỉ tiền gửi; (v) chứng khoán đến hạn dưới 1 năm hoặc dễ dàng bán ra trên thị trường; (vi) chứng khoái chính phủ sẵn sàng để bán thông qua trung gian hoặc thị trường chứng khoán chính thức.
Các chỉ tiêu đo lường:
a. Chỉ tiêu 1: Tài sản lưu động/ Tổng tài sản
Mức chất lượng của chỉ tiêu: 20% đến 30%.
Tỷ lệ này được xem là chỉ dẫn đơn giản nhất về độ thanh khoản bằng việc quan sát trực tiếp bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
b. Chỉ tiêu 2: Tài sản lưu động/Tổng tiền gửi
Mức chất lượng của chỉ tiêu: từ 30% đến 45%
Tỉ trọng tài sản lưu động trên tổng tiền gửi cao cho phép ngân hàng chông đỡ với những tổn nhất nhất thời về thanh toán đối với một bộ phận người gửi tiền. Tiền gửi bao gồm tiền gửi vãng lai và tiền gửi tiết kiệm từ các nguồn ngân hàng và phi ngân hàng.
c. Chỉ tiêu3: Dư nợ/Tổng tiền gửi
Mức chất lượng của chỉ tiêu:
(1) Từ 80% đến 90% đối với các NHTM nhỏ, các NHTM khu vực
(2) Trên 100% đối với các ngân hàng lớn, các trung tâm tiền tệ và các ngân hàng mang tính quốc tế.
Tỷ lệ này phản ánh khả năng của ngân hàng trong việc tài trợ cho tăng trưởng dư nợ bằng các khoản tiền gửi chủ yếu hơn là các khoản đi vay. Tỷ lệ này càng cao, thanh khoản càng thấp.
d. Chỉ tiêu 4: Tỉ lệ tài sản lưu động/Tổng nợ ngắn hạn
Mức chất lượng của chỉ tiêu: 30%
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạng của ngân hàng bao gồm tiền gửi ngắn hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư, vay Ngân hàng trung ương hay tổ chức tín dụng khác bằng các tài sản lưu động như tiền mặt, tiền gửi ngắn hạn tại Ngân hàng trung ương và tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, đầu tư chứng khoán ngắn hạn.
e. Tổng dư nợ/ Tổng tài sản
Mức chất lượng của chỉ tiêu: dưới 65%
Một ngân hàng có dư nợ tăng cao so với tăng trưởng tổng tái sản sẽ có tỉ lệ này cao. Nếu tỉ lệ này quá cao sẽ làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng.
f. Một số các chỉ tiêu khác:
Để phân tích chính xác và chi tiết đối với tính thanh khoản của ngân hàng, các nhà phân tích thường sử dụng thêm một số các chỉ tiêu khác như là:
Nguồn vốn huy động/Tổng tài sản
Chứng khoán đầu tư đến hạn dưới 12 tháng/Tổng tài sản
(Tiền mặt+Dự trữ bắt buộc+Chứng khoán chính phủ)/Tổng tài sản.
Tóm lại, thanh khoản kém là một trong những nguyên nhân thất bại của ngân hàng. Bằng việc xem xét tính thanh khoản, nhà phân tích tìm kiếm tiếp cận khả năng của các NHTM trong việc tài trợ cho chính nó trong thời kì khó khăn. Các tỷ lệ nêu trên là những kiến thức cơ bản để hiểu về quy mô rủi ro của NHTM được chấp nhận trong phạm vi của thanh khoản.
Nói tóm lại, trên đây là những lý luận cơ bản nhất về các yếu tố của mô hình CAMEL trong đánh giá hoạt động và tài chính của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, đối với các NHTM, khi vậnd ụng mô hình này trong phân tích tài chính của ngân hàng thì căn bản chỉ vận dụng 4 khía cạnh của mô hình là: vốn, chất lượng tài sản, khả năng sinh lời và khả năng thanh khoản.
1.2.2.3. Hệ thống giám sát PEARLS
1.2.3.1.1. Sơ lược về hệ thống giám sát PEARLS
Hệ thống PEARLS bao gồm các phân hệ riêng biệt. Nó được thiết kế ban đầu là một công cụ quản lý, và sau đó trở thành một cơ chế giám sát hiệu quả. Mỗi kí tự của tên "PEARLS" xem xét một vấn đề khác nhau:
Protection : Bảo vệ
Effective Financial structure : Hiệu quả cơ cấu tài chính
Asset quality : Chất lượng tài sản
Rates of return and cost : Tỉ suất lợi nhuận và chi phí
Liquidity : Khả năng thanh toán
Signs of growth. : Tốc độ tăng trưởng
Hệ thống đánh giá PEARLS được sử dụng như một công cụ quản lý điều hành có hiệu quả. Nó giúp cho các nhà quản lý tìm kiếm các giải pháp hạn chế sai sót. Ví dụ, hệ thống PEARLS có khả năng xác định cơ sở vốn của một NHTM là yếu hay mạnh, nó cũng có thể chỉ ra nguyên nhân (như là việc thu nhập không đủ lớn trong khi chi phí vận hành quá cao, hoặc là do tỉ lệ mất vốn cao). Như thế, PEARLS cho phép các nhà quản trị quản trị xác định nhanh chóng và chính xác điểm cốt yếu của rắc rối và thực hiện những điều chỉnh cần thiết trước khi vấn đề trở thành nghiêm trọng. Thực tế, PEARLS là một "hệ thống cảnh báo sớm" tạo ra các thông tin quản lý có giá trị cao.
Ưu điểm của PEARLS là việc sử dụng các tiêu chuẩn tài chính và công thức chung loại bỏ các tiêu chí khác nhau của từng NHTM để đánh giá hoạt động kinh doanh của họ. Cũng tức là tạo ra một ngôn ngữ tài chính chung mà mọi người có thể sử dụng và hiểu được. Ngoài ra, nó còn tạo điều kiện dễ dàng liên lạc và có được hiểu biết về các khái niệm chính cùng với các cam kết lớn hơn để đạt được sự thống nhất trong chất lượng và sức mạnh mỗi NHTM, bằng cách hoàn thiện các hoạt động còn thiếu sót.
Ngoài các ứng dụng như là một công cụ quản lý, hệ thống PEARLS còn chuẩn bị các khuôn cho đơn vị giám sát tại các quốc gia Liên bang (National Federation). Các tổ chức quốc gia có thể sử dụng các chỉ tiêu tài chính tạo ra bởi PEARLS để tiến hành phân tích hàng tháng hoặc quý các NHTM tại các quốc gia Liên bang.
1.2.3.1.2. Các chỉ tiêu của PEARLS
P = Protection = Bảo vệ
Duy trì tỉ trọng tài sản hợp lý là nguyên lý căn bản của mô hình NHTM mới. Chỉ tiêu P được đo lường bởi:
(1) So sánh sự thích hợp của các khoản dự phòng tổn thất cho vay được công nhận trên tổng giá trị các khoản cho vay quá hạn
(2) So sánh các khoản dự phòng giảm giá đầu tư với tổng giá trị các khoản đầu tư bất thường
Việc bảo hiểm đối với các khoản tổn thất cho vay là hợp lý nếu NHTM đã có đầy đủ dự phòng để bảo hiểm 100% tất cả các khoản cho vay quá hạn hơn 12 tháng, và 35% các khoản cho vay quá hạn 1-12 tháng.
Dự phòng rủi ro mất vốn không hợp lý tạo ra 2 kết quả không mong muốn: lạm phát đối với giá trị tài sản phóng đại thu nhập.
Mô hình của PEARLS khuyến khích đặt dự phòng rủi ro mất vốn lên hàng đầu trong việc bảo hiểm đối với các khoản cho vay không hiệu quả. Đồng thời, PEARLS đánh giá tính hợp lý của khoản dự phòng này bằng cách so sánh dự phòng rủi ro mất vốn với các khoản cho vay quá hạn.
E = Effective Financial Structure = hiệu quả cơ cấu tài chính
Cơ cấu tài chính của một NHTM là yếu tố quan trọng nhất để xác định tốc độ tăng trưởng tiềm năng, năng lực về thu nhập, và sức mạnh tài chính chung của ngân hàng. Hệ thống PEARLS đo lường tài sản, công nợ và vốn, và đề xuất ý tưởng tái cấu trúc cho NHTM. Dưới đây là các phần thực hiện:
Assets Tài sản
+ 95% tài sản hoạt động bao gồm các khoản cho vay (70%-80%), và đầu tư khả mại (10-20%)
+ 5% tài sản không hoạt động bao gồm chủ yếu là tài sản cố định (đất đai, nhà cửa, trang thiết bị, v.v)
Các NHTM được khuyến khích tối đa hoá tài sản hoạt động như là phương tiện để đạt được đủ lãi. Bởi vì danh mục cho vay là tài sản sinh lợi lớn nhất của NHTM, WOCCU đề nghị duy trì 70-80% tổng tài sản trong danh mục cho vay. Các tài sản không sinh lợi cũng không được ủng hộ vì sau khi mua, họ thường gặp khó khăn để thanh lý. Cách hiệu quả nhất để duy trì sự cân bằng lý tưởng giữa tài sản hoạt động và phi hoạt động là tăng khối lượng tài sản hoạt động.
Capital (Vốn tự có )
+ 10-20% vốn góp
+ 10% vốn tự có không bao gồm dự trữ vốn
Nguồn vốn tự có được sử dụng vào 3 mục đích:
Tài trợ các tài sản không sinh lợi
Vốn tự có không mất chi phí lãi vay, do đó chức năng chính của nó là tài trợ cho tất cả các tài sản không sinh lợi của NHTM (như là đất đai, nhà cửa và trang thiết bị). Nếu không đủ vốn đầu tư, ngân hàng buộc phải sử dụng thêm một phần tiền gửi tiết kiệm chi phí cao hoặc vốn được tài trợ.
Nâng cao doanh thu
Vốn tự có cũng tạo ra một hiệu ứng mạnh mẽ đối với khả năng tạo ra thu nhập ròng của NHTM và qua đó, bổ sung vào vốn. Do không tốn chi phí lãi vay, vốn được xuất ra với thị trường và quay trở lại NHTM với 100% giá trị. Như thế, việc sử dụng vốn pháp định để tài trợ tài sản hoạt động (như cho vay) là rất có lợi cho các NHTM. Vốn pháp định có thể được tái tạo ra nhanh hơn so với việc thu lợi từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động.
Bù lỗ
Với tư cách cứu cánh cuối cùng, vốn tự có được sử dụng để bù lỗ cho các khoản cho vay quá hạn hoặc thâm hụt hoạt động. ở nhiều quốc gia, pháp luật quy định mỗi sự biến đổi vốn pháp định do bù lỗ phải được chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.
Chỉ tiêu đo lường vốn pháp định của PEARLS là một trọng số liên kết với số lượng các khu vực hoạt động. Nếu thâm hụt, nó có thể nhanh chóng chỉ ra đâu là điểm yếu tiềm tàng tồn tại trong các lĩnh vực hoạt động.
A = Assets Quality = Chất lượng tài sản
Tài sản không hoạt động hay không sinh lợi là những tài sản không tạo ra lợi nhuận. Sự dư thừa tài sản không sinh lợi sẽ ảnh hưởng không tốt đến thu nhập của NHTM. Dưới đây là những chỉ tiêu PEARLS được sử dụng để đánh giá tác động của tài sản không sinh lợi:
Tỉ lệ nợ không thể thu hồi
Trong tất cả các chỉ số của PEARLS, tỉ lệ nợ không thể thu hồi là quan trọng nhất để đo lường điểm yếu của NHTM. Nếu tỉ số này là cao. Nó ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực trọng yếu khác trong hoạt động của NHTM. Mục tiêu chính là duy trì tỉ số hợp lý dưới 5% trên tổng nợ.
Tỷ lệ phần trăm tài sản không sinh lợi
Tỉ số quan trọng thứ 2 là tỉ trọng tài sản không sinh lợi của NHTM. Tỉ số này càng cao thì càng khó khăn trong việc tạo ra đủ thu nhập. Mục đích là giới hạn số lượng tài sản không sinh lợi tối đa là 5% tổng tài sản của NHTM.
Vào những thời điểm mà chiến lược marketing của các NHTM đặc biệt cần nâng cao thình ảnh bên ngoài của họ, các tài sản không sinh lợi có thể tăng trong ngắn hạn.
Tài trợ tài sản không sinh lợi
Trong khi việc giảm tỉ lệ phần trăm của các tài sản không sinh lợi là quan trọng, việc tài trợ những tài sản này cũng là rất cần thiết. Theo truyền thống, NHTM sử dụng vốn tự có để mua tài sản cố định. Dưới mô hình WOCCU, mục tiêu là tài trợ 100% tài sản không sinh lợi bằng vốn tự có của các NHTM, hoặc là với những công nợ khác không tốn chi phí lãi vay. Bằng cách sử dụng vốn không mất phí để tài trợ những tài sản này, thu nhập của NHTM không bị ảnh hưởng quá nhiều.
R = Rates of Return and Costs = Tỉ lệ doanh thu và chi phí
Hệ thống PEARLS tách riêng tất cả các thành phần thiết yếu của lợi nhuận ròng để giúp cho các nhà quản trị tính toán lợi tức và đánh giá chi phí hoạt động nhanh chóng và hiệu quả.
Bằng cách này, PEARLS chứng minh cho giá trị của nó như là một công cụ quản lý. Khác với những hệ thống khác tính toán doanh lợi trên cơ sở tài sản bình quân, PEARLS tính toán doanh lợi trên cơ sở đầu tư thực tế (actual investments outstanding). Qua đó giúp cho các nhà quản trị xác định được đầu tư vào đâu sẽ có lợi nhuận cao nhất.
Nó cũng cho phép NHTM được xếp hạng tùy theo lợi nhuận cao nhất và thấp nhất. Bằng cách so sánh cấu trúc tài chính với lợi nhuận, nó có thể xác định các NHTM sử dụng các nguồn lực sản xuất vào đầu tư để tạo ra lợi nhuận cao với hiệu suất như thế nào. Những kĩ thuật phân tích mạnh mẽ giúp việc quản lý đi đối với hiệu quả tài chính của các NHTM
Số lượng thông tin được ước tính trong 4 khu vực đầu tư chính:
Danh mục cho vay
Tất cả thu nhập từ lãi vay, phạt nợ quá hạn và hoa hồng từ hoạt động kinh doanh được chia cho tổng số vốn đầu tư trong danh mục cho vay.
Đầu tư khả mại
Tất cả thu nhập từ tiền gửi và tài khoản thanh toán tại NHNN hoặc tổ chức tín dụng khác được chia cho tổng số vốn đầu tư trong mục.
Đầu tư tài chính
Rất nhiều các NHTM đầu tư vào tài sản tài chính (như là trái phiếu chính phủ) mà được trả lợi tức cao hơn tiền gửi ngân hàng. Thu nhập từ nguồn đầu tư này cũng được chia cho tổng đầu tư.
Đầu tư phi tài chính khác
Bất cứ khoản đầu tư nào không phù hợp với những tiêu thức phân loại trước được đưa vào mục "khác" của đầu tư phi tài chính. Tất cả thu nhập từ những nguồn khác cũng được chia cho tổng vốn đầu tư ban đầu.
Chi phí hoạt động cũng là chỉ tiêu hết sức quan trọng trong đánh giá tài chính ngân hàng. Chúng được chia thành 3 lĩnh vực chính:
Chi phí tài chính trung gian
Khoản mục này đánh giá các chi phí tài chính được thanh toán cho các khoản tiền gửi tiết kiệm, vốn góp và cho vay bên ngoài.
Chi phí hành chính
Một khoản mục đáng quan tâm và đòi hỏi phải phân tích khác là chi phí hành chính. Rất nhiều NHTM có tính cạnh tranh cao về lãi suất huy động và lãi suất cho vay nhưng chi phí hành chính lại quá cao. Nguyên nhân dẫn đến chi phí cao bởi giá trị các khoản cho vay nhỏ, vì thế chi phí hành chính cố định không được trải ra. Ví dụ chi phí cố định cho một khoản cho vay 1,000 USD cũng y như chi phí của khoản cho vay trị giá 10,000 USD.
Chi phí hành chính cao là một trong những lí do chính dẫn đến giảm lợi nhuận của các NHTM. Do đó, mục tiêu được của hệ thống PEARLS là duy trì chi phí hành chính ở mức 5% trên tổng tài sản lưu động (average total assets).
Dự phòng mất vốn
Mục chi phí cuối cùng được đánh giá bởi PEARLS là chi phí dự phòng rủi ro mất vốn. Bằng cách tách riêng thu nhập và chi phí vào hai khoản mục lơn, các tỉ số PEARLS có thể chỉ ra chính xác lý do tại sao NHTM không có được tỉ suất lợi nhuận ròng tốt.
L = Liquidity = phương tiện thanh toán
Do đặc thù hoạt động kinh doanh của các NHTM là luôn luôn có các dòng tiền đi ra và đi vào ngân hàng, các NHTM cần có được hệ thống quản lý các phương tiện thanh toán hợp lý. Sự duy trì tỉ lệ phương tiện thanh toán hợp lý là điều cần thiết để giữ uy tín của ngân hàng và làm giảm rủi ro thanh khoản vốn là rủi ro có tính lan truyền. Hệ thống phân tích phương tiện tài chính của PEARLS gồm 2 chỉ tiêu:
Tổng dự trữ thanh toán
Chỉ số này đo lường tỉ trọng các khoản tiền gửi tại NHNN và các tổ chức tín dụng khác. Mục tiêu là duy trì tối thiểu 15%.
Tiền nhàn rỗi
Dự trữ tiền mặt cho thanh toán là rất quan trọng nhưng do tính chất thời gian của tiền, việc găm giữ tiền mặt tại quỹ cũng mất chi phí. Do đó, quan trọng là phải giữ lượng tiền nhàn rỗi ở mức tối thiểu và hợp lý. Mục tiêu là làm giảm tỉ lệ phần trăm tiền nhàn rỗi xuống mức gần với 0 nhất có thể.
S = Signs of Growth = tỉ lệ tăng trưởng
Thành công lớn nhất của việc duy trì tỉ lệ giá trị tài sản là sức mạnh và tốc độ tăng trưởng tài sản đi kèm với duy trì lợi nhuận. Lợi thế của hệ thống PEARLS là liên kết tốc độ tăng tài sản với tăng trưởng lợi nhuận, cũng như các khoản mục chủ chốt khác bằng cách đánh giá sức mạnh cả hệ thống như một tổng thể. Tốc độ tăng trưởng được đo lường trong 5 lĩnh vực chính:
Tổng tài sản
Tăng trưởng tổng tài sản là tỉ số quan trọng nhất. Có rất nhiều công thức được sử dụng trong PEARLS mà tổng tài sản là chìa khoá điều chỉnh. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng ổn định của tổng tài sản có thể cải thiện được rất nhiều các chỉ số khác của PEARLS. Bằng cách so sánh tốc độ tăng trưởng tổng tài sản với các mục khác, có thể phát hiện sự thay đổi trong cấu trúc bảng cân đối kế toán có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến thu nhập. Mục tiêu là tốc độ tăng trưởng hàng năm (ví dụ như tốc độ tăng trưởng sau khi trừ lạm phát) của tất cả các NHTM.
Cho vay
Danh mục cho vay là tải sản sinh lợi lớn nhất của NHTM. Nếu tỉ lệ tăng trưởng tổng cho vay được giữ liên tục cùng với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản, tức là có khả năng lợi nhuận sẽ được duy trì ở mức tốt. Ngược lại, nếu tỉ lệ này thấp, nó cho thấy lợi nhuận suy giảm nhanh chóng hơn.
Tiền tiết kiệm
Huy động tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi kí quĩ là nền móng cho sự tăng trưởng tín dụng của NHTM. Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng tiết kiệm của ngân hàng. Lý do của việc duy trì các chương trình marketing mạnh mẽ của các NHTM là sự kích thích gia tăng các khoản tiền gửi kí quĩ mới mà lần lượt sẽ gây ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác.
Vốn tự có
Tỉ lệ tăng trưởng vốn tự có là chỉ tiêu tốt nhất đo lường lợi nhuận của NHTM. Tỉ lệ tăng trưởng vốn tự có có xu hướng đứng yên hay suy giảm cho biết vấn đề về thu nhập. Nếu thu nhập thấp, NHTM sẽ có rất nhiều khó khăn trong việc giữ lại lợi nhuận tái đầu tư và làm giảm khoản mục lợi nhuận giữ lại trong vốn tự có.
1.2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính
Yếu tố quan trọng nhất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phân tích tài chính là chất lượng thông tin thu thập được.
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phati thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ đến những thông tin được đưa ra bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó sẽ giúp cho nhà phân tích đưa ra những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. Trong đó, nguồn thông tin quan trọng nhất là thông tin kế toán của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính. Qua đó, việc phân tích tài chính sẽ được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính chủ yếu: Đó là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính.
Vì thế, nếu thông tin do nhà phân tích tài chính thu thập không chính xác (có thể do nguồn thông tin không đảm bảo, do những sai sót trong nội dung báo cáo tài chính mà nguyên nhân do kế toán) sẽ làm giảm chất lượng phân tích, thậm chí có thể dẫn đến các phân tích sai lầm.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc giảm chất lượng công tác phân tích tài chính là do trình độ, năng lực chuyên môn và độ nhanh nhạy của nhà phân tích tài chính. Nhà phân tích có năng lực chuyên môn cao và n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1917.doc