Phát triển công nghiệp nông thôn (CNNT) của đài loan và trung quốc- Kinh nghiệm đối với Việt Nam

(i), Các cải cách kinh tế vĩ mô và thể chế ở khu vực nông thôn đã thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng mạnh, tạo nguồn vốn của các hộ gia đình đầu tư phát triển CNNT. Ngoài ra, tăng trưởng nông nghiệp còn làm tăng nhu cầu thị trường đối với các DNNT. Trong giai đoạn này, trọng tâm của cải cách là chuyển chiến lược phát triển từ công nghiệp nặng sang phát triển công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng. Những thay đổi như tăng đầu tư nông nghiệp, duy trì cánh kéo giá có lợi hơn cho nông nghiệp đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển mạnh. Trong khu vực nông thôn, cải cách thể chế diễn ra mạnh mẽ, kinh tế hộ gia đình từng bước được khôi phục, nông dân được tiếp cận và quản lý các công cụ và tư liệu sản xuất, tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp và các hoạt động CNNT phát triển. Cùng với kinh tế hộ được đẩy mạnh thì quan niệm về sở hữu tư nhân thay đổi theo hướng tích cực hơn. Các công xưởng của công xã được chuyển sang áp dụng các hình thức quản lý hiệu quả hơn, trực tiếp gắn với lợi ích của từng nhóm người hoặc cá nhân cụ thể. Do đó chỉ trong 2 năm 1984-85, số doanh nghiệp tư nhân đã tăng hơn 2 lần, lên 10 triệu doanh nghiệp. Tính cho cả giai đoạn 1978-88, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt 7%/năm và CNNT đạt 20%/năm.

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển công nghiệp nông thôn (CNNT) của đài loan và trung quốc- Kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư phát triển hệ thống giáo dục phổ thông và đào tạo kỹ thuật hướng nghiệp. Giáo dục nông thôn tiếp tục được duy trì và phát triển thời kỳ sau chiến tranh. Năm 1970, tỉ lệ biết chữ đạt 90%, và hơn 2/3 dân số nông nghiệp Đài Loan có bằng cấp giáo dục chính thức. Đầu tư phát triển giáo dục mạnh tạo ra cho Đài Loan một lực lượng lao động được đào tạo tốt, có tay nghề, nắm bắt được khoa học kỹ thuật. Ngoài ra Đài Loan còn tiếp nhận được "nguồn chất xám" rất lớn do luồng người đến tị nạn đến từ Đại lục, trong đó có nhiều nhà công nghiệp có kỹ năng quản lý và kỹ thuật. Do có trình độ cao, nên đội ngũ này có thể dễ dàng tiếp thu công nghệ mới, kiến thức kinh doanh, độc lập xử lý các hợp đồng, giao dịch với các khách hàng nước ngoài. Chính đội ngũ trên đã tạo nên tầng lớp chủ DNNT của Đài Loan khi bước vào giai đoạn công nghiệp hoá. Chính sách vĩ mô Chính sách công nghiệp Đài Loan đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong thập kỷ 50, Đài Loan thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên sang thập kỷ 60, do sức mua của thị trường nội địa nhỏ, hạn chế các ngành công nghiệp phát triển nên Đài Loan chuyển sang chiến lược hướng ngoại. Trong cả hai thời kỳ này các chính sách kinh tế vĩ mô đều tạo thuận lợi cho CNNT phát triển, cụ thể như: Trong giai đoạn đầu phát triển, Đài Loan áp dụng lãi xuất ngân hàng cao thúc đẩy nhân dân gửi tiền tiết kiệm nhằm huy động vốn tài trợ phát triển công nghiệp Quy định mức tiền lương tối thiểu thấp cho phép các doanh nghiệp tận dụng lợi thế chi phí lao động rẻ Khuyến khích thị trường hoạt động, duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng. Ngay cả trong thời kỳ thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu Đài Loan vẫn duy trì mức lãi xuất và tỷ giá hối đoái sát với thị trường. Vai trò của Nông hội ủy ban Nông nghiệp gọi tắt là Nông hội là tổ chức của nông dân, nhằm bảo vệ quyền lợi và là đại biểu của nhân dân. Nông hội đã đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển nông nghiệp nông thôn cũng như là CNNT của Đài Loan, thực sự là cầu nối giữa Chính phủ và người nông dân. Trong thời kỳ đầu sau chiến tranh, Nông hội giúp khu nông dân sơ chế sản phẩm nông nghiệp và cải tiến kỹ thuật. Thập kỷ 60, Nông hội giúp các DNNT xuất khẩu các nông sản chế biến đặc biệt là nấm, măng tây. Những hoạt động chính của Nông hội thúc đẩy hoạt động công nghiệp chế biến ở nông thôn gồm: Tổ chức các khoá đào tạo cho nông dân, mời các chuyên gia dạy các kỹ thuật sản xuất: ươm trồng chăm sóc, bón phân, phun thuốc, quản lý đồng ruộng, thu hoạch. Giúp nông dân thành lập trạm gia công. Nông hội cùng với nông dân bàn bạc xác định địa điểm, quy mô, mời các đơn vị tư vấn tiến hành quy hoạch, thiết kế nhà xưởng và thiết bị, huy động vốn. Nông hội tổ chức nông dân thành lập các nhóm, mỗi nhóm lập ra một trạm gia công, người phụ trách trạm là lớp trưởng. Trạm gia công có thể do một người bỏ vốn kinh doanh, hoặc vốn của nhiều thành viên kinh doanh. Trạm gia công lên kế hoạch sản xuất tiêu thụ, sau đó định giá theo nhu cầu của thị trường và hợp đồng với nông dân là thành viên của nhóm, sản phẩm do trạm gia công tự tiêu thụ. Phối hợp với Hiệp hội Thương mại Quốc tế thiết kế nhãn hiệu và bao bì phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Nông hội tổ chức nông dân thành lập trung tâm bao tiêuvà các nhóm đóng gói, tổ chức giải quyết khâu vận chuyển và tiêu thụ. Nông hội sẽ thu phí dịch vụ và phí thủ tục của nông dân tham gia các hoạt động này. phát triển công nghiệp nông thôn của Trung Quốc Trong số các nước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, Trung Quốc là một thành công điển hình. Cũng như Việt Nam, Trung Quốc bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế từ khu vực nông nghiệp và nông thôn sau đó lan sang các lĩnh vực ngân hàng, thương mại. Bắt đầu từ năm 1979, đổi mới chính sách nông nghiệp đã đem lại những thành công to lớn, giai đoạn 1979-96, GDP nông nghiệp tăng 13,7 lần, thu nhập đầu người nông thôn tăng 14,7 lần, đói nghèo nông thôn giảm từ 32,7% xuống còn 6,5%, lương thực thực phẩm dồi dào, mức sống dân cư tăng, tạo đà cho công cuộc cải cách kinh tế và công nghiệp hóa. Hộp 2: Các DNNT Trung Quốc: Một vài nét phác thảo Các DNNT là gì? Các DNNT là một mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hình thức sở hữu của các doanh nghiệp là tập thể (thường được gọi là doanh nghiệp hương trấn), tư nhân hay cổ phần có trụ sở ở các thị trấn hay huyện (xã). Các DNNT là một trong những động lực chính của nền kinh tế Trung Quốc. Những đặc điểm chính của các DNNT là gì? Các DNNT thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương Chỉ có các cư dân sống trong vùng, thị trấn hay huyện mà các DNNT có trụ sở mới được quyền tham gia đồng sở hữu các doanh nghiệp này. Các DNNT có quyền huy động vốn từ cộng đồng, từ các khoản vay cá nhân hoặc từ các ngân hàng nhà nước Các DNNT có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh. Những thành công chính của các DNNT là gì? Sản lượng tăng trưởng nhanh + Giai đoạn 1978-1995, sản lượng của các DNNT tăng 24,7%/năm + Năm 1996, sản lượng của các DNNT chiếm 56% tổng sản lượng công nghiệp toàn quốc Tạo công ăn vịêc làm cho khu vực nông thôn: Thu hút 25% lao động nông thôn, khoảng 130 triệu lao động, gấp hơn 2 lần so với các doanh nghiệp nhà nước. Tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng: Chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu Đóng góp quan trọng cho việc nâng cao thu nhập xoá đói giảm nghèo Trong thành công của công cuộc cải cách nông nghiệp và nông thôn của Trung Quốc, phát triển CNNT là nhân tố nổi bật. Sự phát triển mạnh mẽ của các DNNT Doanh nghiệp nông thôn (DNNT) của Trung Quốc trong bài này để chỉ tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp như công nghiệp, dịch vụ, vận tải, xây dựng, thương mại... ở khu vực nông thôn. Do đó các doanh nghiệp Hương trấn với hình thức sở hữu là tập thể là một bộ phận của các DNNT. đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nông thôn và đóng góp rất lớn đến sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Những đóng góp quan trọng của CNNT bao gồm: đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng thu nhập của nông dân, tạo công ăn việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, đóng góp vào GDP và là nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Có thể nói rằng sự phát triển mạnh mẽ của các DNNT của Trung Quốc tạo nên thành công cho chính sách “ly nông bất ly hương”, phần lớn dân cư nông thôn vẫn có thể làm giàu bằng các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ trên chính quên hương mình. 1. Vai trò của CNNT trong nền kinh tế Trung Quốc Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách năm 1979, phát triển CNNT là nhân tố chủ yếu làm thay đổi bộ mặt nông thôn, và là động lực quan trọng đối với tăng trưởng của cả nền kinh tế Trung Quốc. Những thành tựu chủ yếu của các DNNT Trung Quốc được thể hiện trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Về kinh tế, các DNNT Trung Quốc đóng góp đáng kể vào GDP. Trước cải cách, các doanh nghiệp trung ương sản xuất phần lớn hàng hoá công nghiệp. Năm 1978, sản lượng của các doanh nghiệp trung ương chiếm 3/4 tổng sản lượng công nghiệp, trong khi 1/4 sản lượng còn lại thuộc về các DNNT. Tuy nhiên, đến năm 1993, sản lượng của các DNNT đã vượt các doanh nghiệp trung ương. Đây là một thành công nổi bật vì các DNNT thường không được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp trung ương, vốn nhận được ưu đãi của Chính phủ. Trong giai đoạn 1978-96, số DNNT đã tăng hơn 15 lần, giá trị sản lượng của các DNNT trong nền kinh tế tăng từ 9,1% lên hơn 50%, giá trị kim ngạch xuất khẩu trong tổng xuất khẩu tăng từ 9,2% lên 45%. Ngoài ra phát triển DNNT còn làm tăng hiệu quả của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp công nghiệp nói riêng. DNNT phát triển mạnh gây áp lực cạnh tranh lên các doanh nghiệp nhà nước trong cùng ngành, làm cho các doanh nghiệp nhà nước cũng phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nếu muốn tiếp tục tồn tại. Bảng 3: Một số chỉ tiêu về CNNT của Trung Quốc 1978 1986 1992 1997 Số doanh nghiệp (triệu) Lao động (triệu người) Giá trị sản lượng (tỷ NDT) 2 28 49 15 73 358 20 106 1769 20 130 8990 Nguồn: Justin Yifu Lin & Yang Yao. 1999. Về chính trị và xã hội, các DNNT tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận lớn dân số sống ở khu vực nông thôn, đóng góp to lớn cho công cuộc xoá đói nghèo, giữ vững ổn định chính trị trong nông thôn, tạo điều kiện cho quá trình cải cách kinh tế và mở cửa của Trung Quốc diễn ra thuận lợi. Do áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động nên khả năng tạo việc làm của các DNNT rất lớn. Giai đoạn 1978-96, lao động làm việc trong các DNNT tăng gần 5 lần, đạt 130 triệu lao động. Tính đến năm 1996, các DNNT thu hút 28,4% lao động nông thôn, và chiếm 68% lực lượng lao động toàn ngành công nghiệp. Do các DNNT tạo việc làm cho một lượng lớn lao động nên đã cải thiện mức sống của một bộ phận lớn dân cư nông thôn, và trong thời kỳ mới cải cách góp phần quan trọng giảm bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Giai đoạn 1978-96, thu nhập nông thôn tăng 14 lần, trong khi thu nhập của thành thị tăng 7 lần. Tuy nhiên, kể từ thập kỷ 90 do công nghiệp đô thị phát triển mạnh nên khoảng cách này lại có xu hướng tăng lên. Giai đoạn 1981-85, tỷ lệ thu nhập thành thị so với nông thôn giảm từ 2,24 xuống 1,88, và lại tăng lên 2,87 năm 1994. Biểu 6: Thu nhập bình quân đầu người và tỷ lệ đóng góp của CNNT trong thu nhập nông thôn Nguồn: Justin Yifu Lin & Yang Yao. 1999. 2. Các giai đoạn phát triển CNNT Thập kỷ 50, Trung Quốc chỉ có một số xưởng thủ công ở khu vực nông thôn, thu hút khoảng 10 triệu lao động, sau đó các xí nghiệp này được chuyển sang hình thức hợp tác xã. Tuy nhiên, do trong giai đoạn này các chính sách chỉ chú trọng phát triển nông nghiệp nên các doanh nghiệp nông thôn gặp nhiều khó khăn. Đầu thập kỷ 60, Trung Quốc thực hiện chính sách “đại nhảy vọt”, tập trung phát triển công nghiệp nặng. ở khu vực nông thôn, hàng loạt các công xã nhân dân được thành lập, chủ yếu sản xuất thép nên không ai chú ý đến DNNT....Để huy động vốn cho công nghiệp hoá, Trung Quốc thực hiện chủ trương rút các nguồn lực nông nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp nặng. Các chính sách như duy trì cánh kéo giá có lợi cho sản xuất công nghiệp, áp dụng lãi suất đầu tư công nghiệp thấp... đã rút hết vốn của khu vực nông thôn, kìm hãm phát triển sản xuất nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp. Thập kỷ 70, Trung Quốc phát động phong trào cơ giới hoá nông nghiệp, tạo cơ hội cho các DNNT phát triển, tập trung ở các lĩnh vực máy móc nông nghiệp, các dịch vụ sửa chữa, phân hoá học. Giai đoạn 1970-76, tốc độ tăng trưởng của CNNT đạt 25,7%/năm ở thời kỳ này một lý do quan trọng cho CNNT phát triển là các xí nghiệp ở đô thị ngừng sản xuất, bị lôi cuốn vào cách mạng văn hoá. . Phải nhìn nhận rằng, trong các thập kỷ 60 và 70 một số chính sách đã tạo tiền đề quan trọng cho CNNT của Trung Quốc hình thành. Thứ nhất, mặc dù chủ trương phát triển các công xã nhân dân sản xuất thép thất bại, nhưng đã để lại một cơ sở vật chất dồi dào dưới dạng các nhà xưởng thiết bị, cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho các DNNT phát triển sau này. Thứ hai, chính sách đưa tầng lớp trí thức về nông thôn cải tạo đã tạo điều kiện để lực lượng trí thức truyền bá kiến thức khoa học về nông thôn, giúp cho một lực lượng lao động có kiến thức và tay nghề phát triển các DNNT sau này. Hộp 3: Đặng Tiểu Bình và phát triển CNNT Đặng Tiểu Bình được coi là cha đẻ cho những cải cách trong khu vực nông thôn Trung Quốc. Cải cách đặt trọng tâm vào xoá bỏ hệ thống công xã, giao quyền sử dụng đất và quyền tự chủ trong sản xuất cho hộ gia đình nông dân. Năm 1987, ông Đặng đã phát biểu với 1 đại biểu Nam Tư rằng "Phiên họp thường niên lần thứ ba của uỷ ban trung ương Đảng lần thứ 11 đã quyết định theo đuổi những cải cách nông thôn, đem lại quyền tự chủ nhiều hơn cho các nông dân và các địa phương. Do đó sẽ kích thích tính độc lập sáng tạo của người nông dân cũng như của các địa phương và làm thay đổi bộ mặt của nông thôn Trung Quốc. Đúng như mong đợi của ông Đặng, những cải cách trong nông thôn đã làm sản xuất nông nghiệp tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, ông Đặng hoàn toàn không thể ngờ tới sự phát triển đáng kinh ngạc của các DNNT. ông đã phát biểu với đoàn đại biểu Philippin "Nói chung, những cải cách nông thôn của chúng tôi đã đem lại những kết quả khả quan trong 1 thời gian ngắn, và làm cho người nông dân rất phấn khởi. Tuy nhiên, điều làm cho chúng tôi hoàn toàn bất ngờ là sự phát triển của các ngành công nghiệp nông thôn. Sự đa dạng trong sản xuất và chủng loại mặt hàng của các doanh nghiệp nhỏ mọc lên như nấm ở các vùng nông thôn như thể sự xuất hiện bất thình lình của 1 đạo quân. Đây không phải là thành tựu của chính phủ Trung ương. Các ngành công nghiệp nông thôn tăng trưởng hàng năm lên đến 20%... Đây là điều nằm ngoài dự đoán của tôi cũng như của các đồng chí khác. Nó làm cho chúng tôi thật sự bị bất ngờ". Nguồn: Gale Johnson. 1998. Kể từ năm 1978: Cải cách kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn bắt đầu từ năm 1978 đã có tác dụng to lớn thúc đẩy CNNT phát triển. Trước đây, cơ chế kế hoạch hoá phân bổ và điều tiết mọi nguồn lực xã hội nhằm phát triển công nghiệp nặng đô thị đã bóp nghẹt các hoạt động kinh tế của khu vực nông thôn. Những cải cách giao quyền tự chủ cho nông dân và tự do hoá thị trường nông sản đã giải phóng năng lực sản xuất, thúc đẩy khu vực nông nghiệp và nông thôn phát triển, đặc biệt là các hoạt động CNNT. Giai đoạn đầu của cải cách, trong khi Nhà nước hầu như không trợ giúp nào, thì chỉ bằng những thay đổi về mặt thể chế đã tạo động lực cho CNNT phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng đạt trên 20%/năm, ngay cả các lãnh đạo của Trung Quốc cũng không thể ngờ tới (hộp 3). Thời kỳ phát triển CNNT sau 1978, có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1978-88, cải cách kinh tế và CNNT cất cánh, các yếu tố bao gồm: (i), Các cải cách kinh tế vĩ mô và thể chế ở khu vực nông thôn đã thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng mạnh, tạo nguồn vốn của các hộ gia đình đầu tư phát triển CNNT. Ngoài ra, tăng trưởng nông nghiệp còn làm tăng nhu cầu thị trường đối với các DNNT. Trong giai đoạn này, trọng tâm của cải cách là chuyển chiến lược phát triển từ công nghiệp nặng sang phát triển công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng. Những thay đổi như tăng đầu tư nông nghiệp, duy trì cánh kéo giá có lợi hơn cho nông nghiệp đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển mạnh. Trong khu vực nông thôn, cải cách thể chế diễn ra mạnh mẽ, kinh tế hộ gia đình từng bước được khôi phục, nông dân được tiếp cận và quản lý các công cụ và tư liệu sản xuất, tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp và các hoạt động CNNT phát triển. Cùng với kinh tế hộ được đẩy mạnh thì quan niệm về sở hữu tư nhân thay đổi theo hướng tích cực hơn. Các công xưởng của công xã được chuyển sang áp dụng các hình thức quản lý hiệu quả hơn, trực tiếp gắn với lợi ích của từng nhóm người hoặc cá nhân cụ thể. Do đó chỉ trong 2 năm 1984-85, số doanh nghiệp tư nhân đã tăng hơn 2 lần, lên 10 triệu doanh nghiệp. Tính cho cả giai đoạn 1978-88, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt 7%/năm và CNNT đạt 20%/năm. (ii), Những cải cách ở khu vực thành thị cũng tạo điều kiện cho CNNT phát triển. Trước đây các nguồn tài nguyên như vốn, vật tư đầu vào, sản phẩm đầu ra, các kênh phân phối đều do Nhà nước phân bổ cho các doanh nghiệp. Cải cách làm cho nông dân và DNNT tăng khả năng tiếp cận với các thị trường đầu vào và đầu ra ở thành phố. (iii), So với các nước khác, Trung Quốc có lợi thế là các DNNT phát triển trong điều kiện có thị trường rộng lớn. Trước thời điểm cải cách, chiến lược phát triển của Trung Quốc tập trung vào công nghiệp nặng (ước tính trong giai thập kỷ 60 và 70 vốn đầu tư của Nhà nước vào công nghiệp nặng chiếm 90%), nên đã tạo ra tình trạng thiếu cung về công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng. Do đó bước sang giai đoạn chuyển đổi, khi thu nhập của người dân tăng nhanh, nhu cầu hàng tiêu dùng và công nghiệp nhẹ thiếu trầm trọng đã tạo ra thị trường rất lớn kích thích các DNNT phát triển. Ngoài ra, đối với các sản phẩm trên CNNT phát huy được lợi thế so sánh lao động rẻ và có tay nghề. Giai đoạn 1989-91 Trong giai đoạn này, cho rằng sự phát triển tràn lan của CNNT dẫn đến lãng phí nguồn lực, gây ô nhiễm môi trường, tăng sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp Nhà nước, Trung Quốc thực hiện một số luật và chương trình điều chỉnh sự phát triển của các DNNT Trong thời kỳ này, do nền kinh tế phát triển quá nóng, GDP đạt 11%/năm, nên Trung Quốc thực hiện chính sách vĩ mô chặt, giảm cung tiền và đầu tư... nhằm hạn chế lạm phát và hạ sốt. Những thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô đã hạn chế CNNT phát triển theo cả phía cung và cầu. Về mặt cung, giảm tín dụng cho CNNT, về mặt cầu giảm lượng tiền trong lưu thông dẫn đến giảm cầu đối với các sản phẩm của DNNT. . Kết quả trong hai năm 1989-90, sản lượng và việc làm của CNNT có xu hướng chững lại và giảm sút. Bên cạnh đó, những cải cách thương mại theo hướng phân quyền và tự do hoá đã đẩy mạnh sự phát triển của CNNT hướng ra bên ngoài, đặc biệt đối với vùng ven biển phía Đông có những thuận lợi về tiếp cận vốn, công nghệ và thị trường quốc tế. Giai đoạn 1985 - 1990, số lượng các DNNT tham gia xuất khẩu tăng từ 0,5% lên 3,5%. Các chính sách đối với CNNT của Trung Quốc trong giai đoạn này tập trung vào các lĩnh vực sau: Ban hành luật doanh nghiệp tư nhân nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Đảm bảo vị trí bình đẳng của thành phần kinh tế tư nhân về nghĩa vụ và quyền lợi đối với mức thuế, tiếp cận vốn, cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế khác. Ban hành luật doanh nghiệp tập thể nông thôn nhằm định rõ về quyền sở hữu Đẩy mạnh các chương trình giáo dục, hỗ trợ kỹ thuật cho DNNT Thực hiện các chương trình thúc đẩy DNNT xuất khẩu, bao gồm công tác thông tin và xúc tiến thương mại, cải cách hệ thống thương mại. Các cải cách về tài chính, tạo điều kiện cho DNNT tiếp cận các dịch vụ vốn, thực hiện các biện pháp đẩy mạnh huy động vốn và ban hành luật phá sản. Giai đoạn sau 1992 Sau cuộc phát động cải cách lần 2 năm 1992 của Đặng Tiểu Bình, các DNNT đầu tư phát triển sản xuất ồ ạt. Tuy nhiên số lượng DNNT có xu hướng giảm do hai nguyên nhân chính: (i), sản lượng trở nên dư thừa, sức ép cạnh tranh tăng; (ii), thu nhập người dân tăng đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn trong khi trình độ công nghệ của các DNNT lạc hậu nên không đáp ứng được nhu cầu thị trường. Dẫn đến xu hướng điều chỉnh cơ cấu trong các DNNT, những doanh nghiệp kém hiệu quả bị đào thải, ở những vùng ven biển, các DNNT có xu hướng chuyển sang áp dụng công nghệ tiên tiến. Các DNNT đã phát triển vững vàng hơn, bắt đầu hình thành các tập đoàn doanh nghiệp lớn, kinh doanh xuyên quốc gia như đồ điện gia dụng Thuận Đức (Quảng Đông), tập đoàn đồ chơi Đông Hoãn, tập đoàn hàng tơ lụa Ngô Giang (Giang Tô)... 3. Các đặc điểm phát triển CNNT của Trung Quốc Nông nghiệp phát triển mạnh tạo đà phát triển CNNT Cùng với những cải cách ở nông thôn như khôi phục kinh tế hộ, tự do hoá thị trường nông sản thì đầu tư vào nông nghiệp tăng lên đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng. Trước cải cách, tỷ trọng đầu tư vào nông nghiệp ở mức 8%, kể từ khi cải cách đã tăng lên 13%. Đầu tư nông nghiệp tăng cùng với tự do hoá thị trường nông sản đã làm cho cánh kéo giá công nghiệp-nông nghiệp Cánh kéo giá giữa công nghiệp và nông nghiệp được đo bằng tỷ lệ giá hàng công nghiệp trên nông nghiệp. Xu hướng cánh kéo giá là một trong những yếu tố quyết định đến dòng chảy nguồn lực giữa nông nghiệp và công nghiệp. Nếu như tỷ giá cánh kéo biến đổi theo chiều hướng có lợi cho các hàng hoá nông nghiệp thì lượng thặng dư nông nghiệp được giữ lại ở khu vực nông thôn càng lớn và ngược lại. phản ánh sát với diễn biến thực tế hơn. Giai đoạn 1978-1996, ngược lại với trường hợp của Việt Nam, xu hướng cánh kéo giá công nghiệp-nông nghiệp của Trung Quốc thay đổi ngày càng có lợi cho các hàng hoá nông nghiệp (biểu 7). Từ vụ mùa năm 1979 giá thu mua lương thực và các nông sản khác tăng 20% so với những năm trước. Tính chung cho giai đoạn 1978-84, tỷ số giá bán lẻ hàng hoá công nghiệp so với hàng hoá nông nghiệp ở nông thôn đã giảm khoảng 30%. Cánh kéo giá cải thiện đáng kể đã làm cho các nguồn tài nguyên chảy nhiều hơn vào khu vực nông thôn, thúc đẩy tích luỹ vốn, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp. Biểu 7: Cánh kéo giá công nghiệp - nông nghiệp, Biểu 8: Tăng trưởng nông nghiệp Trung Quốc, 1978 - 1996 (1978=100) và tiết kiệm nông thôn (1978-93) Nguồn: Justin Yifu Lin & Yang Yao. 1999 và China, SSB, 1997. Nông nghiệp tăng trưởng mạnh làm tăng thu nhập nông thôn là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến thành công của các DNNT ở Trung Quốc. Thu nhập nông thôn tăng thúc đẩy CNNT tăng trưởng ở hai khía cạnh. Thứ nhất, thu nhập nông thôn tăng lên làm tăng nguồn tiết kiệm trong dân để đầu tư phát triển các hoạt động CNNT. Trong điều kiện nguồn vốn của các tổ chức tín dụng chính thức hạn hẹp thì vốn tích luỹ từ nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của CNNT, nhất là trong thời gian đầu thành lập. Giai đoạn 1978-84, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp của Trung Quốc tăng từ 2,7%/năm lên 7,1%/năm làm cho tiết kiệm của hộ gia đình khu vực nông thôn tăng hơn 7 lần, tỷ lệ tiết kiệm của hộ gia đình trong tổng tiết kiệm nông thôn cũng tăng tương ứng từ 34% lên 82%. Tính đến năm 1995 tiết kiệm của hộ gia đình khu vực nông thôn đã đạt 357 tỷ NDT, chiếm 83% tổng tiết kiệm nông thôn. Thứ hai, thu nhập nông thôn tăng cộng với dân số khổng lồ của Trung Quốc dẫn đến cầu tăng nhanh chóng, tạo ra thị trường hiếm có cho các DNNT, kích thích các DNNT mở rộng đầu tư tăng sản lượng. Giai đoạn 1952-77, tốc độ tăng tiêu dùng của thành thị và nông thôn chỉ có 1,8%/năm và 3%/năm, sang giai đoạn 1970-80, thu nhập người dân tăng, dẫn đến tốc độ tương ứng tăng lên là 6,5%/năm và 5,8%/năm. Các hình thức sở hữu Trong khi ở khu vực thành thị các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, thì ở khu vực nông thôn các DNNT có nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu tập thể và bán tập thể (doanh nghiệp hương trấn), cổ phần, cá thể, sở hữu tư nhân. Trong giai đoạn đầu cải cách, các doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể chiếm đa số sau đó các doanh nghiệp có sở hữu tư nhân và cổ phần ngày càng phát triển mạnh. Do thời kỳ đầu cải cách, các khuôn khổ về pháp lý và thị trường chưa được thiết lập đầy đủ, nhìn nhận về thành phần kinh tế tư nhân còn nhiều định kiến nên các doanh nghiệp sở hữu tư nhân phát triển chưa mạnh, hình thức sở hữu chủ yếu của các DNNT là tập thể dưới sự quản lý của chính quyền địa phương. Thời kỳ này, so với sở hữu tư nhân thì các DNNT sở hữu tập thể có những lợi thế: được ưu đãi về thuế; dễ tiếp cận vốn, đất đai và đầu vào dễ hơn; được chính quyền địa phương hỗ trợ; dễ tạo niềm tin của người tiêu dùng. Do sở hữu tập thể có nhiều thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên đã dẫn đến hiện tượng là nhiều doanh nghiệp tư nhân núp bóng Nhà nước và tập thể để hoạt động. Các doanh nghiệp này mang danh Nhà nước, tập thể hay địa phương nhưng thực chất hoạt động như doanh nghiệp tư nhân, trừ việc đóng một khoản phí cho chính quyền địa phương. Hộp 4: Chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp hương trấn (DNHT) Các học giả phương Tây thường coi chế độ sở hữu trong các DNNT Trung Quốc là sự ra đời của một chủ nghĩa tư bản mới. Tuy nhiên, hình thức sở hữu mới này trên thực tế là thành công của Trung Quốc trong việc kết hợp giữa hình thức sở hữu tư nhân và hình thức sở hữu Nhà nước. Nói cách khác, trong quá trình chuyển đổi kinh tế, chế độ sở hữu tập thể trong các DNHT của Trung Quốc được sáng tạo ra nhằm khắc phục những nhược điểm của hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Weitzman và Xu (1993) đã gọi các DNHT là các “hợp tác xã được định nghĩa mập mờ”. Trong khi trên lý thuyết, các DNNT dựa trên chế độ sở hữu tập thể, nhưng trên trên thực tế, “các nhà đồng sở hữu” không giữ bất kỳ một cổ phần nào, ngay cả trong trường hợp các công nhân là những người đồng sở hữu (các công nhân thường phải đóng cổ phần nếu muốn tham gia làm việc). Thực chất Chính quyền địa phương là đại diện cho những người sở hữu, có quyền tự do ra những quyết định về danh nghĩa thuộc quyền hạn của các cổ đông. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho rằng, trong giai đoạn đầu cải cách, chính chế độ sở hữu “mập mờ” với quyền quản lý doanh nghiệp và quyền sở hữu doanh nghiệp không được phân định rõ ràng là nguyên nhân làm cho các DNHT duy trì lợi thế cạnh tranh và phát triển mạnh mẽ. Mối liên hệ gần gũi của các DNHT với chính quyền địa phương tạo ra lợi thế so với các doanh nghiệp nông thôn tư nhân, như tiếp cận các nguồn vốn Nhà nước, ưu đãi về thuế... Mặt khác, các DNHT hoạt động theo cơ chế thị trường hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước, nên, các DNHT hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, chế độ sở hữu “mập mờ” làm cho các DNHT có tính ‘nhà nước” hơn so với các doanh nghiệp tư nhân và có tính “thị trường” hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Đây là lợi thế của các DNHT trong thời gian đầu cải cách. Nguồn: David O'Connor. 1998. Một số cải cách trong thập kỷ 80 đã khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân nông thôn phát triển. Kể từ năm 1984, những cải cách

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển công nghiệp nông thôn (CNNT) của đài loan và trung quốc- kinh nghiệm đối với việt nam.doc
Tài liệu liên quan