Phát triển kỹ thuật và công nghệ tiên tiến là yếu tố đảm bảo mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; hướng tới đưa công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại
vào sản xuất công nghiệp. Cho nên các cơ sở doanh nghiệp cần có kế hoạch
đổi mới công nghệ và thiết bị hàng năm.
Phổ biến và hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện đăng ký chất lượng sản
phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế (HACCP, ISO, TQM), đăng ký bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp, đăng ký thương hiệu
Hỗ trợ tín dụng giúp các cơ sở, doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch nâng cao
chất lượng sản phẩm; nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường,
đặc biệt là các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu cần phải liê tục nâng cao chất
lượng sản phẩm, từng bước bắt kịp trình độ khu vực và thế giới, bằng cách triển
khai áp dụng các mô hình sả xuất tiên tiến.
174 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển công nghiệp nông thôn và cơ sở hạ tầng nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ quản lý đất đai.
1.1.3. Những mối quan hệ chủ yếu cần quan tâm khi quy hoạch phát triển nông
thôn:
Quy hoạch phát triển nông thôn phải dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, vào chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng
vùng, từng địa phương.
Sự kết hợp gắn bó giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng lãnh thổ trong sản
xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm phải khai thác được
các lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương trên từng ngành sản xuất
và lĩnh vực quản lý.
Quy mô cơ cấu vùng nguyên liệu phải cân đối với quy mô và cơ cấu các cơ sở
chế biến nông sản phẩm để tránh tình trạng thừa hay thiếu nguyên liệu cung
cấp cho nhà máy.
Trong quy hoạch vùng phát sinh nhiều mối liên hệ giữa các ngành, cần được
giải quyết một cách có hiệu quả, tránh tình trạng mâu thuẫn giữa các ngành trên
cùng địa bàn.
Trong mỗi vùng nông thôn, các kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội (giao thông,
thuỷ lợi, điện, cơ sở chế biến, y tế, giáo dục…) có nhiều mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, cần có sự kết hợp một cách phù hợp các điều kiện kinh tế xã hội tại
vùng đó.
Trên lãnh thổ của đất nước thường chia ra nhiều vùng có điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội khác nhau cho nên cần có sự hỗ trợ nhau cùng phát triển, thể
hiện trên sự quy hoạch mạng lưới đường sá giao thông, kênh thuỷ lợi, hệ thống
điện, hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở chế biến nông sản phẩm mang tính liên
vùng.
Sự liên hệ và kết hợp nhiều vùng trong quy hoạch có tầm quan trọng đặc biệt để
tiết kiệm vốn đầu tư, cơ sở vật chất – kỹ thuật, đồng thời nâng cao hiệu quả
trong xây dựng và phát triển nông thôn.
Có sự quan hệ và phân cấp đầu tư cho các cấp chính quyền và nhân dân, các
tổ chức xã hội và tổ chức kinh tế, giữa Trung ương và địa phương trong quy
hoạch, tổ chức xây dựng, tổ chức quản lý các công trình, từ khâu sử dụng đến
khâu bảo vệ các công trình. Việc đảm bảo thực hiện các luật lệ, các quy định
cần thiết trong quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển nông thôn cũng đòi
hỏi có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các cơ sở.
Sự kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân, giữa Trung ương và địa phương phải
xuyên suốt toàn bộ các khâu từ chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến quy
hoạch tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn và các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn. Ngay cả khi điều chỉnh quy hoạch cũng phải có sự thống nhất giữa
Trung ương và địa phương và thể hiện trong luật, pháp lệnh.
1.1.4. Trình tự và phương pháp xây dựng quy hoạch phát triển nông thôn
Đánh giá thực trạng tình hình nông thôn một cách khách quan, chính xác, toàn
diện trên các mặt tự nhiên, kinh tế xã hội theo từng vùng, từng địa phương tỉnh,
huyện, xã, doanh nghiệp. Từ đó có thể thấy được những khó khăn và thuận lợi
của điều kiện tự nhiên để phát triển cây trồng, vật nuôi hay ngành nghề sản xuất
thích hợp; thấy được những điều kiện, các nguồn lực về kinh tế, trình độ phát
triển của xã hội trên các mặt, làm rõ mức độ ô nhiễm về môi trường và có biện
pháp bảo vệ môi trường ở nông thôn.
Dựa trên sự phân tích đánh giá tình hình nông thôn như trên và những quan
điểm cơ bản để xây dựng phương hướng, xây dựng quy hoạch phát triển nông
thôn; những quan điểm chủ yếu khi quy hoạch phát triển nông thôn là:
+ Quy hoạch phát triển nông thôn nhất thiết phải có hiệu quả kinh tế - xã hội và
môi trường, phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá,
+ Phải dựa vào điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng và có tính đến lợi
thế của từng vùng.
+ Quy hoạch phát triển nông thôn theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Từ đó xây dựng phương hướng phát triển nông thôn một cách toàn diện, giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, được cụ thể hoá bằng các chỉ
tiêu về mặt kinh tế, về mặt xã hội, về mặt môi trường; đề ra một hệ thống các
giải pháp đồng bộ để thực hiện mục tiêu và phương hướng.
1.2. Quy hoạch công nghiệp nông thôn.
1.2.1. Ý nghĩa của việc quy hoạch công nghiệp nông thôn
Quy hoạch công nghiệp nông thôn là phân bố các ngành công nghiệp chế biến
nông sản phẩm, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,
các ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn nông thôn.
Quy hoạch công nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ quy
hoạch phát triển nông thôn. Nông nghiệp, công nghiệp và thương mại dịch vụ ở
nông thôn muốn phát triển một cách ổn định và bền vững phải có quy hoạch
phù hợp, tạo một thể thống nhất và đồng bộ. Ví dụ, quy hoạch công nghiệp chế
biến phải gắn với vùng nguyên liệu nông thuỷ sản và ngược lại quy hoạch vùng
nguyên liệu nông thuỷ sản không thể tách rời công nghiệp chế biến.
Nếu trong quy hoạch phát triển nông thôn mà bỏ qua hay xem nhẹ quy hoạch
công nghiệp nông thôn thì không những kinh tế nông thôn mà từng ngành nông
nghiệp và dịch vụ cũng không thể phát triển được.
1.2.2. Những căn cứ quy hoạch công nghiệp nông thôn
Phải dựa vào những căn cứ chủ yếu sau đây:
Nguyên liệu: cần quan tâm về số lượng và chất lượng vùng nguyên liệu.
Nguyên liệu ở gần các cơ sở công nghiệp cho phép giảm được chi phí vận
chuyển và giữ được chất lượng nguyên liệu, thuận tiện việc thu mua, sơ chế và
tồn trữ. Quy hoạch và bố trí sản xuất công nghiệp phải gắn với nguồn nguyên
liệu của nó và quy mô phù hợp. Việc chế biến gạo với quy mô bao nhiêu phải
dựa vào sản lượng lúa ở từng vùng sản xuất lúa. Để có nhiều nguyên liệu nông
sản chất lượng tốt, giá thành hạ; cần quy hoạch, đầu tư những vùng nguyên
liệu nông sản tập trung, chuyên môn hoá và hình thành các loại cơ sở công
nghiệp chế biến có thể sử dụng nguyên liệu và tận dụng các phế phẩm. Chẳng
hạn như cùng với quy hoạch vùng nguyên liệu trồng mía đường là việc đầu tư
nhà máy đường, cơ sở làm rượu từ mật đường và chế tạo ván ép từ xác bã
mía… Sử dụng, khai thác các nguyên liệu tại chỗ cho sản xuất, chế biến vật liệu
xây dựng như đá sỏi, nung vôi, làm gạch ngói…
Truyền thống sản xuất: là nhân tố quan trọng ban đầu để phát triển công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn nước ta. Ở mỗi vùng đều có những ngành
nghề đặc biệt như nghề dệt, may mặc, thêu ren, đóng đồ gỗ cao cấp, chạm
khắc gỗ, khảm trai, sơn mài, gốm sứ, đan tre, mây cói, làm giấy, chế tạo công
cụ cầm tay… Những kinh nghiệm sản xuất, lựa chọn các nguyên liệu chất lượng
cao, tài khéo léo, óc thẩm mỹ tạo nhiều mẫu mã đa dạng phong phú, kết hợp
với khoa học và công nghệ hiện đại là các nhân tố hết sức quan trọng để phát
triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn nước ta.
Vốn: là điều kiện quan trọng để phát triển công nghiệp nông thôn. Muốn đủ vốn
cần có nhiều giải pháp huy động các nguồn vốn từ cá nhân, các tổ chức tài trợ,
các doanh nghiệp đối tác, tổ chức phi chính phủ, các chính sách cho vay của
Nhà nước…
Kết cấu hạ tầng: bao gồm giao thông, điện, nước, mặt bằng sản xuất, chợ nông
thôn, hệ thống cung cấp nước sạch, thoát nước và công nghệ xử lý chất thải…
trong đó đặc biệt chú ý các vùng xa, vùng cao để có chính sách khuyến khích,
ưu đãi thích hợp.
Thị trường: là căn cứ then chốt trong việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp. Sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao, tiêu thụ ở đâu là
vấn đề đầu tiên cần giải đáp trước khi đi vào bố trí sản xuất công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp.
Cơ chế chính sách của Nhà nước: có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển
công nghiệp nông thôn. Nhà nước có quy hoạch định hướng về phát triển công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn chung cả nước và riêng cho từng
vùng, từng địa phương, trong đó xác định những sản phẩm hàng hoá quan
trọng có thể phát triển thu hút nhiều lao động, khai thác nguyên liệu tại chỗ và
xuất khẩu của từng vùng, từng thời điểm. Từ đó định hướng các ngành hàng,
các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá, định hướng phát huy kỹ thuật
truyền thống kết hợp với công nghệ sản xuất hiện đại. Dựa vào đó Nhà nước có
quy hoạch kết cấu hạ tầng (giao thông, điện nước, khu cụm công nghiệp..) và
thực hiện các chính sách kinh tế, cơ chế tài chính tín dụng và chính sách thuế
thích hợp, khuyến khích cho các làng nghề truyền thống phát triển. Sự giúp đỡ,
hỗ trợ của Nhà nước trong tổ chức, mở lớp đào tạo, chính sách đối với người
dạy, người học sao cho phù hợp với việc phát triển các làng nghề và cụm công
nghiệp nông thôn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp nông thôn phát triển.
1.2.3. Nội dung của quy hoạch công nghiệp nông thôn
CNNT rất phong phú, đa dạng về ngành nghề, hình thức, quy mô và trình độ.
Trong quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn, việc bố trí thế nào, quy mô
sản xuất bao nhiêu, trình độ phát triển ra sao phải dựa vào đặc điểm từng
ngành nghề, thị trường tiêu thụ, điều kiện của từng vùng, cơ chế chính sách của
Nhà nước trong từng thời kỳ và khả năng của từng địa phương, từng doanh
nghiệp.
Công nghiệp nông thôn gồm các ngành chủ yếu sau:
Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản bao gồm: chế biến lương thực, nông
sản, lâm sản, thuỷ sản với các cơ sở có quy mô vừa và nhỏ, trình độ sản xuất
có khác nhau với nhiều chủng loại đa dạng và yêu cầu chất lượng sản phẩm
phù hợp.
Công nghiệp cơ khí nông thôn bao gồm cơ khí chế tạo máy móc công cụ, thiết
bị cho sản xuất nông nghiệp, cơ khí chế tạo các dụng cụ sinh hoạt, sửa chữa
các máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp. Quy mô và trình độ của cơ khí nông
thôn phụ thuộc vào hàng loạt các điều kiện như trình độ tay nghề, tình hình cơ
giới hoá, phát triển năng lượng (điện, than,..) và các dạng máy móc thiết bị
trang bị tại mỗi vùng nông thôn. Hiện nay các thành phần kinh tế tham gia vào
mở mang các cơ sở cơ khí chế tạo, cơ khí sửa chữa và cơ khí sử dụng máy
làm cho có sự cạnh tranh; phát triển, nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của việc sử dụng, sửa chữa máy móc thiết bị ở nông thôn.
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp sản phẩm chủ yếu phục vụ
nhu cầu trong vùng, địa phương và một phần để bán ra các địa phương khác.
Các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng thường sử dụng nguyên liệu tại địa
phương như cát đá, vôi, đất sét, tre, gỗ.. và gần nguồn năng lượng, chất đốt
như trấu, gỗ… ; bên cạnh cần điều kiện vận chuyển dễ dàng, sử dụng lao động
thủ công có kết hợp công nghệ hiện đại để nâng dần chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm.
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống thường tồn tại từ lâu đời, được
truyền nghề từ đời nghệ nhân sang đời con cháu, mang tính mỹ thuật và kỹ
thuật cao, mẫu mã rất đa dạng và có giá trị xuất khẩu, thường tập trung ở một
số làng nghề nổi tiếng. Một số ngành nghề chủ yếu như: nghề gốm sứ, nghề đồ
gỗ cao cấp, nghề đan mây tre chiếu cói, nghề dệt, may mặc, thêu ren, dệt lụa…
2.Chủ trương, pháp luật, chính sách về phương hướng phát triển CNNT
2.1. Chủ trương của Đảng ta về phát triển công nghiệp nông thôn
Theo Báo cáo chính trị được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng Cộng sản Việt Nam thì một trong những nội dung của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là: “Bảo đảm vững chắc an toàn
lương thực quốc gia,… Khuyến khích phát triển chăn nuôi hàng hoá…, công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, cơ khí sửa chữa và chế tạo ở trình độ
thích hợp, sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển các ngành nghề truyền thống
kết hợp với ngành nghề mới; đẩy mạnh công nghiệp làm hàng xuất khẩu, vệ
tinh gia công cho các trung tâm công nghiệp; phát triển tổng hợp các ngành dịch
vụ. Chuyển bớt lao động nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp tại chỗ,
giảm bớt sức ép về lao động và dân số đối với các đô thị lớn”.
Đặc biệt, đối với các vùng nông thôn miền núi, Nhà nước chủ trương “phát triển
công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp ở những vùng sâu, vùng xa, khuyến khích
các nghề thủ công truyền thống”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lại
một lần nữa: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là:…phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài… để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững…”. Đường lối này không chỉ được triển khai đối với nền kinh tế nói chung,
mà cả cho nông thôn, trong đó có công nghiệp nông thôn.
Để triển khai đường lối này, trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-
2010 mà Đại hội thông qua có ghi rõ:”Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công
nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất
khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da-giầy…) và chế
biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu
tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn”. Đại hội cũng chủ trương: “Chuyển nhiều lao động sang khu vực công
nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, mạng
lưới công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các dịch vụ”.
Như vậy, việc phát triển công nghiệp nông thôn ngày càng được khẳng định là
một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nói chung; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nói riêng. Sự
phát triển của CNNT không chỉ phục vụ phát triển của công nghiệp, mà cũng
chính là phục vụ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Đảng và Nhà nước
còn khẳng định rõ chủ trương hình thành mối quan hệ hữu cơ, “hình thành sự
liên kết nông –công nghiệp- dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn”.
Vai trò này của công nghiệp nông thôn cũng được Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng ghi nhận: ”Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động nông
nghiệp sang các ngành nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi
lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho
dân cư nông thôn”.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX “về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001-2010” cũng nhấn mạnh: Một trong những quan điểm chi phối quá trình đẩy
nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là “Dựa vào nội
lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển
mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn”.
Mục tiêu chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến năm 2010 theo giá so
sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng
GDP 7,5 - 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người
năm 2010 theo giá hiện hành đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD.
Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%;
công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%.
Tốc độ phát triển công công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn tốc
độ bình quân cả nước. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp
phần giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những ngành
nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm
mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Phát triển mạnh công nghệ
bảo quản, chế biến, giảm nhanh tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao
nhanh giá trị gia tăng cho các loại nông, lâm, thuỉy sản, nhất là sản phẩm xuất
khẩu chủ lực.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn để giúp nông dân chuyển sang làm ngành nghề và
dịch vụ. Tiếp tục điều chỉnh chính sách khuyến khích để các doanh nghiệp và
hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhất là công nghiệp chế
biến nông, lâm, thuỷ sản; giảm nhanh và hết sức hạn chế việc xuất khẩu nông,
lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến.
Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh
việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý các nông, lâm trường; phát triển mạnh các
loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn; phát triển các làng nghề.
2.2. Pháp luật, chính sách của Nhà nước và chương trình Khuyến Công
2.2.1. Những quy định pháp luật về khuyến khích phát triển công nghiệp nông
thôn
* Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về
khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn; đã được triển khai thực
hiệnbằng Thông tư số 03/2005/TT=BCN dưới đây:
* Thông tư số : 03/2005/TT-BCN hướng dẫn thực hiện một số nội dung của
Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về
khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Thông tư này hướng dẫn việc
triển khai thực hiện các hoạt động khuyến công, một số nội dung của chính
sách khuyến công và công tác kế hoạch hóa trong hoạt động khuyến công.
Việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế do ngân sách nhà nước cấp
cho hoạt động khuyến công thực hiện theo Thông tư liên tịch số 36/2005/TTLT-
BTC-BCN ngày 16/5/2005 của Bộ Tài chính và Bộ Công nghiệp.
Thông tư này áp dụng đối với:
a/ Các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư sản xuất công nghiệp tại huyện, thị xã,
thị trấn và xã (dưới đây gọi là cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn), bao gồm:
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa (có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động bình quân không quá 300 người) thành lập, hoạt động theo luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp;
- Hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã;
- Hộ kinh doanh cá thể theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000
(trước đây), nay là Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 của Chính
phủ về đăng ký kinh doanh.
b/ Tổ chức dịch vụ khuyến công.
c/ Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khuyến công theo quy định tại Điều
15 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.
Đề án khuyến công là đề án được lập để triển khai một hoặc một số nội dung
hoạt động khuyến công quy định tại Điều 3 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP. Đề
án khuyến công có mục tiêu và đối tượng thụ hưởng cụ thể, có thời gian thực
hiện và kinh phí xác định.
Đề án khuyến công quốc gia là đề an khuyến công do Cục Công nghiệp địa
phương thuộc Bộ Công nghiệp (đối với trường hợp sử dụng kinh phí khuyến
công do Bộ Công nghiệp trực tiếp quản lý) hoặc do Sở Công nghiệp (đối với
trường hợp sử dụng kinh phí ngân sách Trung ương hỗ trợ hoạt động khuyến
công địa phương) quản lý, tổ chức thực hiện để triển khai các hoạt động khuyến
công quốc gia theo chương trình do Thủ tướng Chính phủ, kế hoạch do Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp phê duyệt.
Đề án khuyến công địa phương là đề án khuyến công do Sở Công nghiệp quản
lý, tổ chức thực hiện từ nguồn kinh phí khuyến công địa phương để triển khai
các hoạt động khuyến công của địa phương theo chương trình, kế hoạch được
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.
Tổ chức dịch vụ khuyến công được các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật (Trung tâm khuyến công, cơ sở
nghiên cứu khoa học - công nghệ, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp...), là tổ chức
thực hiện các hoạt động dịch vụ khuyến công như tư vấn, đào tạo, chuyển giao
công nghệ, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác có
liên quan đến đầu tư sản xuất công nghiệp nông thôn.
Tùy thuộc vào nội dung hoạt động khuyến công, đề án khuyến công được lập và
thực hiện dưới các hình thức sau:
a/ Tổ chức các lớp, khóa đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, truyền nghề.
b/ Tổ chức các điểm tư vấn hoặc tiến hành tư vấn trực tiếp tại cơ sở sản xuất
công nghiệp nông thôn.
c/ Trực tiếp hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn lập dự án khởi sự
doanh nghiệp, đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư sản xuất sản phẩm mới, đổi mới
và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý
chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
d/ Hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ có kèm theo đào tạo cho cơ sở sản xuất
công nghiệp nông thôn.
đ/ Xây dựng mô hình trình diễn và tổ chức trình diễn kỹ thuật để phổ biến công
nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới và nhân rộng các mô hình tốt đã có.
e/ Tổ chức, hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn tham gia hội chợ, triển
lãm; tham quan khảo sát, học tập - trao đổi kinh nghiệm, liên doanh liên kết, hợp
tác kinh tế và tham gia các hiệp hội ngành nghề.
g/ Hỗ trợ cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh.
h/ Các hình thức khuyến công khác phù hợp với các hoạt động quy định định tại
Điều 3 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.
Các hoạt động khuyến công địa phương cần tập trung phục vụ cho việc triển
khai thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp của địa phương, trong đó đặc
biệt ưu tiên việc hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy-hải sản, công nghiệp cơ khí - hóa chất phục vụ nông nghiệp - nông thôn,
công nghiệp hàng tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp; phát triển các sản phẩm có
thị trường, có thể tạo nhiều việc làm và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao
cho địa phương.
* Cở sở sản xuất công nghiệp nông thôn đầu tư vào những ngành, nghề quy
định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP và hướng dẫn của Liên
Bộ Công nghiệp - Tài chính tại Mục 2 Phần II Thông tư liên tịch số
36/2005/TTLT-BTC-BCN ngày 16/5/2005 hướng dẫn việc quản lý và sử dụng
kinh phí sự nghiêp kinh tế đối với hoạt động khuyến công, được hưởng các
chính sách khuyến công cụ thể như sau:
1. Được tham gia và thụ hưởng kết quả của các hoạt động khuyến công do Cục
Công nghiệp địa phương, Sở Công nghiệp và các tổ chức dịch vụ khuyến công
thực hiện.
2. Được hỗ trợ trực tiếp từ nguồn kinh phí khuyến công để chi phí cho việc lập
dự án đầu tư, đào tạo, xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công
nghệ sản xuất, tham gia hôi chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm ở trong nước.
3. Được hỗ trợ trong lĩnh vực thông tin, thị trường như sau:
a/ Được các tổ chức dịch vụ khuyến công hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, tìm
kiếm thị trường, đối tác kinh doanh, tổ chức triển lãm, hội chợ;
b/ Được giới thiệu miễn phí trên trang Web của Bộ Công nghiệp về năng lực
sản xuất, sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng và các thông tin khác cần thiết cho việc
phát triển sản xuất;
c/ Được các Tổng Công ty, doanh nghiệp của Bộ Công nghiệp hỗ trợ trong việc
tìm kiếm thị trường, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm (thông qua hình thức hợp tác liên
kết trong sản xuất - kinh doanh);
d/ Được Báo Công nghiệp, Tạp chí Công nghiệp giúp tuyên truyền, giới thiệu,
quảng bá về cơ sở sản xuất, sản phẩm.
Cục Công nghiệp địa phương, các Sở Công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ các
cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn trong việc tiếp cận các hoạt động hỗ trợ
nêu trên.
4. Được hỗ trợ về khoa học - công nghệ như sau:
a/ Được các Chương trình kỹ thuật - kinh tế về tự động hóa, về công nghệ vật
liệu và tiết kiệm năng lượng do Bộ Công nghiệp quản lý hỗ trợ vốn cho các dự
án đầu tư (bao gồm cả đầu tư mới và đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ) nếu
dự án đáp ứng các điều kiện, tiêu chí của Chương trình.
Văn phòng các Chương trình phối hợp với Cục Công nghiệp địa phương hướng
dẫn cụ thể trình tự lập, đăng ký, thẩm định dự án đầu tư có sử dụng vốn hỗ trợ
của các Chương trình để các Sở Công nghiệp và các cơ sở sản xuất công
nghiệp nông thôn thực hiện.
b/ Được tham gia thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu - triển khai phù hợp với
mục tiêu phát triển công nghiệp nông thôn theo khả năng cân đối nguồn kinh phí
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ hàng năm của Bộ Công nghiệp;
đồng thời, được sử dụng các kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học - công
nghệ cấp Bộ phù hợp.
Vụ Khoa học - Công nghệ (Bộ Công nghiệp) phối hợp với Cục Công nghiệp địa
phương hướng dẫn cụ thể trình tự xây dựng, đăng ký, tham gia thực hiện, tổ
chức triển khai sau khi được phê duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học -
công nghệ và việc đăng ký sử dụng kết quả của các đề tài nghiên cứu khoa học
- công nghệ cấp Bộ để các Sở Công nghiệp và các cơ sở sản xuất công nghiệp
nông thôn thực hiện.
5. Được hưởng các chính sách ưu đãi khác về đất đai, đầu tư, khoa học công
nghệ quy định tại các Điều 11, 12 và 14 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.
Cục Công nghiệp địa phương là cơ quan đầu mối giúp việc Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động khuyến công quy
định tại Điều 15 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP.
Sở Công nghiệp là cơ quan giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về hoạt động khuyến công và kinh phí khuyến công tại địa phương theo
quy định tại Khoản 4 Điều 15 Nghị định số 134/2004/NĐ-CP,
* Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX, Bộ Công nghiệp đã xây dựng Đề án phát triển các ngành
công nghiệp đến năm 2010 phục vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn. Theo đó sẽ phát triển các ngành:
Ngành điện: Đẩy nhanh việc thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10AG.pdf