Phát triển kinh tế: từ lý luận đến thực tiễn và sự lựa chọn của Việt Nam

Phát triển với bản chất nêu trên phải là một quá trình lâu dài, diễn ra theo các nấc thang tuần tự và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Trong cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" (the stages of Economic Growth) (1961) của Walter W. Rostow, một nhà lịch sử kinh tế nổi tiếng, đã đưa ra một cách tổng hợp theo lịch sử về những bước (giai đoạn) tuần tự mà mỗi quốc gia phải trải qua trong quá trình phát triển. Theo ông, quá trình phát triển kinh tế trải qua lần lượt 5 giai đoạn: nền kinh tế truyền thống – giai đoạn chuẩn bị cất cánh – giai đoạn cất cánh – giai doạn trưởng thành – và cuối cùng là giai xã hội tiêu dùng. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi cơ cấu ngành kinh tế, tỷ lệ tích luỹ, những đặc trưng của sự phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế, xã hội. Hiện nay cũng có nhiều ý kiến bình luận và phê phán về những khía cạnh không còn phù hợp của 5 giai đoạn trong lý thuyết của Rostow, tuy nhiên, chúng ta vẫn cần nhấn mạnh đến sự vận dụng lý thuyết này trên một số khía cạnh khá hợp lý như sau:

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 20213 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển kinh tế: từ lý luận đến thực tiễn và sự lựa chọn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o bằng đối với người lao động. Trong khi đó những người đại diện cho nhà nước quản lý khối lượng tài sản khá lớn tại các đơn vị kinh tế cũng không quan tâm đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Hậu quả xấu tất yếu nảy sinh, đó là: tăng trưởng và hiệu quả kinh tế có xu hướng giảm đi, những tệ nạn quan liêu, cửa quyền xuất hiện ngày càng nhiều, và “tự nhiên” xuất hiện hình thức phân phối không chính thức nhưng lại chi phối khá lớn đến thu nhập, đó là “phân phối theo quyền lực”, làm cho sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập lại trở nên gia tăng hơn. Chúng ta có thể thấy điều đó qua bảng số liệu minh hoạ dưới đây. Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Liên xô và một số nước ĐôngÂu Nước Tốc độ tăng GDP(%) 1960 1985 Tốc độ tăng NSLĐ(%) 1960 1985 Tốc độ tăng NS vốn(%) 1960 1985 Tốc độ tăng TFP (%) 1960 1985 Liên xô 5,8 3,6 4,6 2,3 3,6 -3,7 2,4 0,8 Tiệp khắc 4,8 2,6 4,1 1,6 1,3 -2,1 3,4 0,5 Ba Lan 4,6 3,3 3,6 1,8 2,0 -1,4 3,2 0,8 Hungari 4,6 2,9 3,6 2,6 1,0 -2,1 2,9 1,2 LX và Đông Âu 5,5 3,0 4,8 2,5 1,0 -2,1 3,5 0,9 Nguồn: các hệ thống kinh tế so sánh, Paul R. Gregory, 1998 2.2. Mô hình tăng trưởng trước, công bằng xã hội sau ( kiểu chữ U ngược) Đây là mô hình được khởi nguồn áp dụng ở Mỹ, Canada, Nhật Bản và phương tây, các nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiếp theo đó là sự lựa chọn của phần lớn các nước khu vực Nam Mỹ như Braxin, Mehico, VeneZuela. Khu vực đông Nam Á có một số nước như Hồng Kông, hay cả Malaysia, Philipines cũng đi theo mô hình này. Sự lựa chọn này phù hợp với giả thuyết mà Simon Kuznets (đưa ra vào năm 1955- khi ông là Chủ tịch Hội đồng kinh tế Mỹ) về mối quan hệ giữa tăng trưởng (phản ánh qua chỉ số GDP/người) và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (phản ánh qua chỉ số GINI) theo dạng chũa U ngược. Các nghiên cứu thực nghiệm trong vòng 20 năm từ 1962 đến 1985 của chính Kuznets và Oshima ở khoảng 70 nước trên thế giới và một số công trình nghiên cứu khác nữa cũng vẫn khẳng định tính đúng đắn cho giả thuyết chữ U ngược (hình dưới). Hình 1: Mô hình chữ U ngược - - - - - - 0,6 0,5 0,4 0,3 0,2 GINI GDP/người Theo mô hình này, các nước thường không quan tâm đến phân phối lại thu nhập trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.Vì vậy, trong giai đoạn này, cùng với quá việc đạt được các thành tựu về tăng trưởng (thu nhập bình quân đầu người tăng lên) thì sự bất bình đẳng có xu hướng tăng lên, kết quả của tăng trưởng sẽ dồn vào một số nhóm người trước. Chỉ khi nền kinh tế đã đạt được một mức độ khởi sắc đáng kể, thu nhập bình quân đầu người cao, lúc đó sự bất bình đẳng mới có xu hướng giảm dần cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế do chính phủ bắt đầu quan tâm đến các chính sách phân phối lại thu nhập làm cho kết quả của tăng trưởng được “thẩm thấu” một cách rộng rãi hơn. Nếu như Kuznets và một số nhà nghiên cứu khác chỉ dựa trên các kết quả thực nghiệm để mô tả mô hình dạng chữ U ngược mà các nước lựa chọn thì A. Lewis, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Zamaica, trong phân tích mô hình lao động dư thừa ( mô hình hai khu vực cổ điển) cũng trong khoảng thời gian nghiên cứu của Kuznets (1955) đã có sự giải thích hay minh hoạ cho cơ chế kết hợp tăng trưởng với công bằng xã hội trong phân phối thu nhập theo kiểu chữ U ngược, và đây cũng được xem như chính là phương thức phát triển mà các nước đi theo mô hình này lựa chọn. Trong giai đoạn đầu, khu vực nông nghiệp không được đầu tư vì đang nằm trong tình trạng dư thừa lao động, thu nhập của khu vực này gần như không đổi và người lao động ở đây hưởng mức tiền công đủ sống . Trong khi đó khu vực công nghiệp và dịch vụ là địa chỉ đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả nhất. Tăng trưởng kinh tế là kết quả của sự gia tăng tích luỹ của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện trước hết chính là giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp, do quy mô thu nhập của khu vực công nghiệp ngày càng lớn trong khi khu vực nông nghiệp lại đang “trì trệ tuyệt đối”. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập còn xuất phát từ một thái cực khác, đó là giữa ông chủ (người sở hữu tài sản) và người lao động trong khu vực công nghiệp. Trong khi đầu tư vào khu vực công nghiệp ngày càng lớn làm cho lợi nhuận tăng lên và thu nhập của những nhà sở hữu vốn trong công nghiệp ngày cang lớn, thì thu nhập của người lao động ở khu vực này vẫn không thay đổi, do đây là những người lao động được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang (đều đang hưởng mức tiền công tối thiểu ở khu vực nông nghiệp) và họ chỉ được trả cùng một mức tiền công như nhau khi chuyển sang làm việc cho khu vực công nghiệp. Như vậy các nước lựa chọn mô hình tăng trưởng trước, phân phối lại sau, thì sự bất bình đẳng không chỉ là hệ quả của tăng trưởng nhanh mà còn là nguyên nhân của sự tăng trưởng nhanh. Khuynh hướng làm tăng sự bất bình đẳng cuối cùng sẽ bị đẩy lùi khi khu vực nông nghiệp không còn dư thừa lao động, lúc đó: (i) mức tiền công trả cho người lao động chuyển từ khu vực nông nghiệp sang làm việc cho khu vực công nghiệp sẽ phải tăng lên (ngày càng cao) theo sự khan hiếm lao động; (ii) Phần lợi nhuận khu vực công nghiệp đạt được sau mỗi chu kỳ phải dành một phần để đầu tư lại cho nông nghiệp, nhằm khắc phục hiện tượng giảm quy mô sản lượng của khu vực nông nghiệp do thiếu hụt lao động. Như vậy trong giai đoạn sau của quá trình phát triển, bất bình đẳng ngày càng giảm đi và sự nghèo khó cũng sẽ bị đẩy lùi. Kết quả đạt được của mô hình này nhìn chung cũng đúng với ý muốn của những người thiết kế ra nó. Thành tựu nổi bật không thể phủ nhận được đối với các nước này là tốc độ tăng trưởng và mức thu nhập bình quân đầu người tăng lên khá nhanh. Tuy vậy, tại đây, bất bình đẳng, phân hoá xã hội và sự nghèo đói kéo dài, thậm chí rất khó cải thiện kể cả khi thu nhập đã đạt đến một mức rất cao. Trừ các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển, hiện nay đã đạt mức công bằng cao trong phân phối thu nhập như Pháp, Anh, Nhật, Úc, Canada v.v.. đang có xu hướng hoàn thiện và đạt được những kết quả nhất định trong sự công bằng xã hội, còn phần lớn các nước theo mô hình này hiện nay vẫn có sự bất bình đẳng cao vào hạng nhất thế giới (xem bảng dưới). Chính những bất bình đẳng ấy trở nên là một rào cản cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong những giai đoạn gần đây. Bảng 2: Chỉ số bất bình đẳng của một số nước Nam mỹ và Đông Á Nước GDP/người ($ - PPP) GINI Thu nhập GINI đất đai % thu nhập của 20% dân số nghèo nhất Achentina 12 460 0,51 0,83 3,2 Braxin 8 020 0,62 0,85 2,6 Vênezuela 5 760 0,47 0,88 4,7 Philipines 4 890 0,46 0,86 4,5 Malaysia 9 630 0,51 0,72 4,4 Nam Phi 10 960 0,58 0,77 3,5 Mexico 9 590 0,51 0,78 4,3 Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007 2.3 Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải quyết đồng thời (phát triển toàn diện) Đã có nhiều nước, trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của mình lựa chọn một mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập và đã dành được sự thành công đáng kể. Trong số các nước đó phải kể đến là các nước phát triển ở khu vực Bắc Âu như Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ, Na uy, Phần Lan, đan mạch; Đức; và một số nước khu vực Đông Á, từ những quốc gia nghèo nhất thế giới vào thập niên 1950,1960 đã nhanh chóng trở thành NIC cũng bằng chính sự lựa chọn mô hình này – đó là Hàn Quốc và Đài Loan. Một nét đặc trưng của mô hình này là, trong quá trình phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với mục tiêu công bằng xã hội. Quá trình tăng trưởng nhanh và công bằng xã hội lớn hơn là những mục tiêu tương hợp và không mâu thuẫn nhau. Kết quả tăng trưỏng nhanh góp phần cải thiện mức độ công bằng, hoặc là không làm gia tăng bất bình đẳng, trường hợp xấu nhất là sự bất bình đẳng có gia tăng nhưng ở một mức độ thấp cho phép. Nội dung chính của mô hình này được thể hiện rất rõ nét qua những chính sách can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự phát triển đồng bộ của cả hai yếu tố này. Một là, chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh, thông qua việc lựa chọn các mô hình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Mô hình mà Hàn Quốc và Đài Loan sử dụng khá thành công là mô hình công nghiệp hoá hướng ngoại nền kinh tế thông qua chính sách nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong những lĩnh vực cần thiết. Hai là, chính sách đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng không gây gia tăng bất bình đẳng. Kể cả Đức và các nước Bắc Âu, đến Hàn Quốc và Đài Loan đều bắt đầu quá trình thực hiện tăng trưởng nhanh bằng phát triển mạnh nông nghiệp, những ngành sản xuất sản phẩm nhiều lao động và các nguồn lực dự trữ ở khu vực nông thôn, quan tâm đặc biệt đến vấn đề mở rộng quy mô, đa dạng hoá sản xuất và tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Sau đó sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn lực của đất nước và theo hướng phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. Sự lựa chọn này vừa đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn dịnh vừa không có nguy cơ gây bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Sự lựa chọn này phù hợp với quan điểm của nhà kinh tế học người Nhật Bản là H. Oshima tổng kết trong cuốn “Tăng trưởng kinh tế ở các nước chau Á gió mùa”. Theo mô hình này, nền kinh tế bắt đầu thời kỳ tăng trưởng nhanh bằng đầu tư cho nông nghiệp, kế theo đó là phát triển với nông nghiệp với công nghiệp và cuối cùng là đầu tư theo chiều sâu cho toàn bộ nền kinh tế khi hiện tượng thiếu lao động và giá cả lao động trở nên ngày càng đắt đỏ. Đây cũng là mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó không sản sinh ra nguyên nhân kinh tế gây sự bất bình đẳng và công bằng xã hội. Thứ ba, chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Điều này được thể hiện trong các chính sách về phân phối lại thu nhập, chính sách trợ cấp xã hội, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đường xá, giao thông cho các vùng khó khăn v.v.... Hệ thống giáo dục bảo đảm cho tất cả trẻ em có trình độ phổ cập giáo dục ngày càng được nâng cao, nạng lưới y tế chăm sóc sưc khoẻ được tổ chức chu đáo. Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện sống có giá trị ngang nhau ở tất cả các thành phần lãnh thổ trong cả nước. Các nước lựa chọn mô hình nhấn mạnh đồng thời phân phối lại với tăng trưởng kinh tế thường đạt được những thành tựu đáng nói kể cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội (xem bảng dưới). Bảng 3: Chỉ số bất bình đẳng của một số nước áp dụng m ô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh t ế Tên nước GDP/người ($ - PPP) Hệ số GINI Thu nhập của 20%dân số nghèo nhất (%) Đan mạch 35 570 0,27 10,3 Phần lan 31 170 0,25 9,6 ThuỵDiển 37 080 0,25 9,1 Na uy 40 420 0,27 9,6 Đức 29 290 0,28 8,5 Hàn Quốc 21 850 0,29 9,7 Đài Loan 23 210 0,24 9,8 Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007 Nếu so sánh các số liệu từ hai bảng số trên chúng ta có thể thấy được khá rõ sự khác biệt trong kết quả về công bằng xã hội giữa hai mô hình lựa chọn khác nhau về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong số các nước trở thành NIC vào thập niên 1980 là Đài Loan, Hàn quốc, Braxin, Mexico, Achentina đều có sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào thập niên 1960,1970 thì nước Hàn Quốc, Đài Loan không những đạt được các chỉ số công bằng xã hội cao hơn nhiều so với các nước còn lại, thậm chí ngang với các nước công nghiệp phát triển, mà mức thu nhập bình quân đầu người phản ánh sự tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn hẳn các nước này. Điều đó trên một mức độ nhất định phản ánh ưu điểm của mô hình mà họ đã lựa chọn. 3. LỰA CHỌN MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Mô hình phát triển toàn diện – sự lựa chọn của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới kinh tế Mặc dù Việt Nam đã dành được những thành tựu nhất định trong nhiều lĩnh vực từ thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tuy vậy, bước vào thời kỳ chiến lược 2001-2010, chúng ta vẫn bị đánh giá là có nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nếu so sánh với sự phát triển vượt trội của các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình quân trên đầu người của Việt nam ngày càng xa so với họ. Vì vậy, yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đã trở thành bức xúc, hàng đầu để thực hiện mục tiêu phát triển. Thực hiện tăng trưởng nhanh mới có thể kéo nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo, kém phát triển, và chống tụt hậu xa hơn, thu hẹp dần khoảng cách phát triển so với các nước xung quanh. Hơn thế nữa, thế kỷ 21, tình hình về kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi, mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng rộng rãi đã cho phép chúng ta có thể sử dụng được những lợi thế của các nước đi sau để khắc phục những rào cản thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh trong nhiều năm qua như sự thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu lao động tay nghề và thiếu thị trường tiêu thụ cũng như cung cấp sản phẩm. Mặt khác, con đường mà Việt nam lựa chọn trong thời kỳ đổi mới kinh tế là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khía cạnh “xã hội chủ nghĩa” đặt yêu cầu tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Quan tâm đến tiến bộ và công bằng xã hội chính là mặt văn hóa của của sự phát triển mà chúng ta theo đuổi phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa và nó chính là một phần của mô hình phát triển đất nước. Những luận cứ nói trên cho thấy mô hình phát triển kinh tế việt nam lựa chọn hiện nay là mô hình phát triển toàn diện. Nội dung chính của mô hình này là thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển. Sự lựa chọn con đường phát triển toàn diện đã thể hiện khá rõ trước hết trong mục tiêuquan điểm phát triển đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giầu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. Tiếp theo, nhiều chiến lược và các văn kiện khác đã cụ thể hóa, hoàn thiện và bổ sung cho nội dung của mô hình phát triển toàn diện mà chúng ta lựa chọn. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRGS) được Chính phủ phê duyệt tháng 5 năm 2002, đã nhấn mạnh việc xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để bảo đảm công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, và ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ người nghèo vươn lên. CPRGS đã đưa ra cụ thể mục tiêu, cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện sự kết hợp hai nội dung kinh tế và xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Một văn kiện mang tính cụ thể hóa và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 thể hiện sự lựa chọn mô hình phát triển toàn diện của Việt Nam là Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình nghị sự 21 Việt Nam – Agenda 21 – VN) do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/2004. Theo tài liệu này, phát triển kinh tế của Việt Nam là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa cả ba mặt là kinh tế, xã hội và môi trường. Mục tiêu về kinh tế đạt được đó là sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ tong tương lai, tránh để lại gánh năng nợ nần lớn cho thế hệ mai sau. Mục tiêu về xã hội là đạt được kết quả cao tong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng nghèo đói và hạn chế khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội, nâng cao mức công bằng về quyền lợi vàng nghĩa vụ giữa các thành viên và các thế hệ , duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần . Mục tiêu về môi trường là khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, thực hiện viẹc tái sinh tài nguyên và chống ô nhiễm môi trường. 3.2 Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam theo mục tiêu phát triển toàn diện Sau một khoảng thời gian khá dài thực hiện mục tiêu và quan điểm phát triển kinh tế toàn diện xác định trong chiến lược 2001 – 2010, chúng ta đã đạt được những kết quả mà ai cũng đều phải thừa nhận: Thứ nhất, Việt Nam trở thành điểm sáng về tăng trưởng kinh tế nhanh Hình 2: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam, 2000 - 2007 Nguồn: tổng hợp từ niên giám thống kê và báo cáo KH 2008 của Bộ KH &ĐT Chúng ta có thể tự hào về tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước đã đạt được trong thời gian qua: thời gian tăng trưởng liên tục của Việt nam đã đạt đến con số 30 năm26 năm (1977-20067), vượt qua kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc tính đến năm 1997; quy mô GDP năm 2006 dự kiến đạt được đã gấp gần 4 lần so với năm 1985, bình quân năm trong 20 năm đổi mới đạt gần 7%, riêng thời kỳ 1991-2006 (15 năm) đạt 7,6%, cao hơn nhiều so với thời kỳ trước, đó là tốc độ tăng thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2007 - năm đầu tiên gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng đã đạt cao nhất kể từ năm 2000 đến nay. GDP năm 2007 đạt 71,3 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người đạt 835 USD, tăng 14,5% so với năm 2006. Theo số liệu của Báo cáo phát triển con người (Liên Hiệp Quốc) năm 2007, Việt Nam hiện nay đứng thứ 122/177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người (năm 2005 xếp thứ 140), điều đó thể hiện sự thành công trong chiến lược tăng trưởng nhanh . Với kết quả đó, đời sống kinh tế của Việt nam đã thực sự được khởi sắc, từ chỗ sản xuất chưa đủ tiêu dùng ở mức độ thấp trong nước, nhập siêu, vay nợ còn lớn đến chỗ sản xuất không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đã lên cao, mà còn có tích lũy nội địa khá cao. Những kết quả đạt được cộng hưởng với việc chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang cải thiện mạnh mẽ vị thế của mình với tư cách là "điểm đến" của vốn và công nghệ đối với các nhà đầu tư, và "điểm bùng nổ" tăng trưởng. Thứ hai, những tiến bộ đáng kể trong chỉ tiêu phát triển con người Thực thi chiến lược phát triển toàn diện, cùng với việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức., các chỉ tiêu xã hội có xu hướứong được cải thiện rõ rệt. Chỉ số HDI đo sự tiến bộ trung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người của Việt Nam năm 2007 đã lên tới 0,733, tăng hơn so với năm 2006 (đạt 0,709) và thứ hạng HDI của Việt Nam được cải thiện 4 bậc (từ thứ 109/177 lên 105). Tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đến cuối năm 2007 chỉ còn 14,7% . So với nhiều nước có thu nhập thấp khác, Việt nam hiện nay đang đi đầu về các chỉ số về tuổi thọ và tỷ lệ biết chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt Nam ở hai chỉ tiêu này năm 2007 là 56 và 57. Nếu sử dụng chỉ số nghèo khổ con người (HPI) nhằm tập trung vào tỷ lệ người sống dưới ngưỡng về các phương diện phát triển toàn diện con người, sống một cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài, đựoc tiếp cận giáo dục và mức sống hợp lý thì Việt Nam được xếp thứ 36 (theo số liệu của UNDP). Cũng theo báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc năm 2007, Việt nam có nhiều tiến bộ trong cải thiện công bằng giới, thông qua chỉ số phát triển giới (GDI) và chỉ số đo vị thế giới (GEM). Năm 2007, chỉ số GDI của Việt Nam là 0,732 so với HDI là 0,733. Chênh lệch giữa chỉ số GDI càng thấp so với HDI chứng tỏ sự bình đẳng giới càng cao. Trong số 156 có chỉ số này thì chỉ có 8 nước có tỷ số cao hơn Việt Nam. Trong số 93 nước có chỉ số GEM thì Việt Nam đứng thứ 52 với giá trị là 0,561. Đây là những kết quả khá khả quan về phát triển xã hội mà chúng ta thực hiện được trong những năm qua. Tuy vậy mặt trái của vấn đề vẫn còn thể hiện rõ trên các phân tích sau đây: Một là, tăng trưởng chưa bao giờ đạt mức tiềm năng và những báo động về nguy cơ suy giảm tốc độ tăng trưởng trong tương lai do chất lượng tăng trưởng còn ở trình độ rất thấp. Theo đánh giá, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua vẫn chủ yếu là theo chiều rộng, tính hợp lý trong sử dụng các yếu tố tăng trưởng thực chiều rộng cũng chưa cao. Để thực hiện tăng trưởng nhanh, chúng ta đã phải dốc sức vào đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước và nỗ lực kiềm chế giá cả bằng các biện pháp kể cả hành chính, không chú ý đến hiệu quả đầu tư. Tăng trưởng đạt được tốc độ cao nhưng cách đi của chúng ta là dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên hoặc gia công chế biến, mang tính chất chạy đua ngắn hạn với hiệu quả năng lực cạnh tranh tăng trưởng có biểu hiện giảm sút. Với những bất cập nói trên, nên mặc dù giai đoạn 2001-2007 nền kinh tế của chúng ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên nếu so sánh liên tục chuỗi thời gian từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay cho thấy, tốc độ tăng trưởng của Việt nam vẫn giảm tương đối. Thời kỳ 2001-2007, chưa năm nào đạt được tốc độ tăng trưởng như của những năm 1995, 1996 (năm 1995 là 9,54% và năm 1996 đạt 9,34%), trong khi đó chúng ta đã phải để lại tích lũy nhiều hơn, dành vốn cho đầu tư nhiều hơn, đời sống kinh tế trong nước và thế giới sôi động hơn, điều đó cho thấy nếu tiếp tục con đường phát triển theo chiều rộng, chỉ chú ý đến ngắn hạn, trong điều kiện gia nhập WTO với nhiều thách thức chúng ta sẽ phải đổi lấy những hậu quả có hại cho mục tiêu tăng trưởng dài hạn, đó là sự suy yếu các cơ sở của sự ốn định vĩ mô vững chắc, không đáp ứng được những yêu cầu cải thiện nhanh chóng hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nền kinh tế trong thời gian qua và kể cả những năm tiếp theo tiếp tục tăng trưởng dưới mức tiềm năng và không có triển vọng thóat khỏi tình trạng tụt hậu xa hơn. Thứ hạng của Việt Nam về thu nhập bình quân đầu người nói chung không có sự thay đổi so với các nước trong khu vực và trong các khối mà VN tham gia ( đứng khoảng thứ 122/176 toàn cầu; đứng thứ 21/21 nước khối APEC từ năm 1995 đến nay; đứng thứ 9/11 nước khối ASEAN), và vẫn nằm trong 50 nước có mức thu nhập thấp (dưới 875 $/người). Đó cũng là những luận chứng cho dự báo về sự giảm sút rất nhanh về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam trong thời sau năm 2010, và nếu những dự báo này trở thành sự thật thì đó là sự cảnh báo về sự không hoàn thành các mục tiêu trong chiến lược công nghiệp hóa đất nước đến năm 2020. Hai là, Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch chậm chạp và thể hiện trình độ phát triển thấp của nền kinh tế Trình độ phát triển của nền kinh tế thể hiện ở cơ cấu ngành vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của chất lượng tăng trưởng thấp.Trong thời gian qua, cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam tuy có chuyển dịch theo hướng tích cực hơn, nhưng rất chậm chạp so với yêu cầu của một đất nước đang thực hiện giai đoạn hai của quá trình công nghiệp hóa. Sự chuyển dịch chậm chạp đã làm cho thực trạng cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta đang dừng lại ở một trình độ thấp so với nhiều nước trong khu vực và so với yêu cầu chuyển đổi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hình 3: So sánh cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam với các nước trong khu vực Nguồn: Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế – xã hội của VN2006-2010 và sổ tay KH 2007 (Bộ KH&ĐT) (1) Số liệu của các nước là của năm 2003 Ghi chú : CHN = Trung Quốc; PHI = Philipines; IND = Indonesia; MAL = Malaysia; THA = Thái Lan; KOR = Hàn Quốc; SIN = Singapore; VN05 = Việt Nam (2005); VN06 = Việt Nam ( 2006) Nếu xem cơ cấu ngành là dấu hiệu đánh giá trình độ phát triển kinh tế thì, các số liệu so sánh trên đã minh chứng về trình độ phát triển kinh tế thấp của nước ta, so với các nước trong khu vực. Nhiều nhà kinh tế đã cho rằng trình độ phát triển kinh tế của Việt nam hiện nay là tương đương với Thái Lan ở thập niên 80 của thế kỷ trước và đưa ra những dự đoán khá bi quan về quá trình đuổi kịp của Việt nam so với các nước trong khu vực. Ba là, tTác động của tăng trưởng đến xóa đói giảm nghèo có xu hướng giảm. Phải khẳng định rằng nhờ vào tăng trưởng kinh tế, trong những năm qua, mức sống dân cư ở nước ta có xu hướng nâng cao rõ rệt, tỷ lệ nghèo đói giảm đi, các chỉ tiêu phản ánh phát triển xã hội đều có dấu hiệu tốt. Tuy vậy, nếu so sánh kết quả tăng trưởng đạt được hàng năm với những thành tựu về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời gian qua cho thấy những những khía cạnh chưa tương xứng sau đây: Một là, hiệu ứng của tăng trưởng tới giảm nghèo có xu hướng giảm Bảng 4: So sánh tăng trưởng và giảm nghèo 2001 2002 2003 2004 2005 1. Tăng trưởng: - Tốc độ tăng trưởng (%) - Số điểm % tăng trưởng gia tăng so với năm trước 2. Giảm nghèo - Tỷ lệ nghèo đói (%) - Số điểm % giảm nghèo giảm xuống so với năm trước. 6,89 17,5 7,08 0,22 14,5 3 7,34 0,26 11 3,5 7,79 0,45 8,31 2,96 8,4 0,61 7 1,31 Nguồn: Tính toán từ số liệu của bản Kế hoạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclua_chon_con_duong_phat_trien_2626.doc