Kiểu quản lý dân chủ được đặc trưng bằng việc người quản lý
biết phân chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ ý kiến cấp
dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo các quyết định. Kiểu
quản lý này còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho những
người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập
kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí
tâm lý tích cực trong quá trình quản lý.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8268 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong cách lãnh đạo nào cho Doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phong cách lãnh đạo nào cho
Doanh nghiệp Việt Nam?
Ngày nay, trong hoạt động kinh doanh không
còn đất cho sự tồn tại của một ông giám đốc
chỉ biết ngồi chờ đợi khách hàng tới mua bán
mà không cần tính đến nhu cầu, nguyện vọng của họ. Và cũng
không còn những ông giám đốc chỉ biết ngồi ra lệnh và chờ đợi
cấp dưới tuân thủ. Bối cảnh mới của sự phát triển đất nước, nền
kinh tế thị trường đã đặt ra những yêu cầu mới đối với các doanh
nghiệp muốn thành công trong kinh doanh.
Bên cạnh việc thay đổi về kỹ thuật, công nghệ, đào tạo cần phải
có những tư duy mới trong công tác lãnh đạo - quản lý. Điều đó
có nghĩa là người lãnh đạo - quản lý phải là người hoàn toàn
khác với những ông chủ tư bản trước kia điều khiển xí nghiệp
bằng roi vọt, ra những quyết định từ chiếc ghế phô tơi, hay những
vị giám đốc không dám nghĩ, dám làm chỉ thụ động làm theo
những quy định cứng nhắc của cơ chế cũ dưới thời bao cấp.
Những nhà lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay phải là người có
những cái nhìn thực tế hơn về giá trị của họ đối với tổ chức mà
họ quản lý. Họ phải có một phong cách quản lý mới, hợp lý.
Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong cách mà ở đó người lãnh
đạo vừa đáp ùng được các nhu cầu khác nhau của người lao
động, vừa phát huy được sức mạnh cá nhân và tập thể người lao
động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có thể khẳng định
rằng, phong cách lãnh đạo sẽ là một yếu tố quan trọng trong
những yếu tố làm nên sự thành công trong làm ăn của một doanh
nghiệp.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề
phong cách lãnh đạo và lựa chọn phong cách lãnh đạo phù hợp
nhất trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn tâm lý học, vấn đề quản lý,
trong đó nổi bật là phong cách lãnh đạo, đã được bàn nhiều trong
các công trình khoa học. Khái niệm phong cách lãnh đạo thường
được hiểu theo các góc độ sau:
Được coi là một nhân tố quan trọng của người quản lý, lãnh đạo,
nó gắn liền với kiểu người lãnh đạo và nghệ thuật lãnh đạo, quản
lý con người.
Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện về mặt khoa học và tổ
chức lãnh đạo, quản lý mà còn thể hiện tài năng, chí hướng,
nghệ thuật điều khiển, tác động người khác của người lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là hệ thống các đấu hiệu đặc trưng của hoạt
và động quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc
điểm nhân cách của họ.
Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và
sự kiện, và được biểu hiện bằng công thức: Phong cách lãnh đạo
= Cá tính x Môi trường.
Nhìn chung, những định nghĩa trên đã đề cập và phản ánh khá rõ
nhiều mặt, nhiều đặc trưng khác nhau của phong cách lãnh đạo.
Tuy nhiên, phần lớn các định nghĩa chỉ nhấn mạnh đến mặt chủ
quan, mặt cá tính của chủ thể lãnh đạo chứ chưa đề cập, xem xét
phong cách lãnh đạo như một kiểu hoạt động. Kiểu hoạt động đó
được diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường
xã hội, trong đó có sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng, của nền văn
hoá... Như vậy, chúng ta có thể đính nghĩa như sau: Phong cách
lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của người lãnh đạo được hình
thành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng
giữa yếu tố tâm lý chủ quan của người lãnh đạo và yêu tố môi
trường xã hội trong hệ thống quản lý. Để hiểu rõ hơn, chúng ta
lần lượt nghiên cứu các kiểu phong cách lãnh đạo qua những
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học phương Tây và
phương Đông.
Trong những công trình của các tác giả phương Tây, thường nêu
lên hai kiểu quản lý (phong cách lãnh đạo) cơ bản. Đó là kiểu
quản lý dân chủ và kiếu quản lý mệnh lệnh.
Kiểu quản lý dân chủ được đặc trưng bằng việc người quản lý
biết phân chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ ý kiến cấp
dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo các quyết định. Kiểu
quản lý này còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho những
người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập
kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí
tâm lý tích cực trong quá trình quản lý.
Kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán được đặc trưng bằng việc tập
trung mọi quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh
đạo - quản lý bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của
mọi thành viên trong tập thể.
K. Lêvin, nhà tâm lý học người Mỹ, là người đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống các phong cách quản lý. Theo ông, ngoài 2
phong cách quản lý trên còn có một kiểu thứ 3. Đó là kiểu quản lý
hình thức (hay phong cách quản lý tự do). Theo kiểu này, người
quản lý chỉ vạch ra kế hoạch chung, ít tham gia trực tiếp chỉ đạo,
thường giao khoán cho cấp dưới và làm các việc khác ở văn
phòng. Chỉ làm việc trực tiếp với người bị quản lý hay tập thể
trong những trường hợp đặc biệt.
Sau này, bằng những kết quả nghiên cứu về các phong cách lãnh
đạo trong các tập thể, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng: ở mỗi
phong cách lãnh đạo (dân chủ, độc đoán, tự do) đều có những
điểm mạnh, điểm yếu. Tuy nhiên, phong cách lãnh đạo dân chủ
sẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn.
Nói điều này không đồng nghĩa với việc phủ nhận hiệu quả của
phong cách lãnh đạo độc đoán và phong cách lãnh đạo tự do.
Điều quan trọng nhất đối với nhà quản lý đó là phải biết vận dụng
một cách linh hoạt phong cách lãnh đạo của mình trong các tình
huống quản lý cụ thể. Điều này đã được khẳng định qua các công
trình nghiên cứu. Người ta thấy rằng, kiểu quản lý mệnh lệnh độc
đoán sẽ đạt hiệu quả khi nhà quản lý cần đề ra những yêu cầu
cứng rắn, những tình huống cần phải giải quyết ngay trong một
thời gian ngắn. Sẽ là không tưởng nếu vị chỉ huy trong một trận
đánh khí ra quyết đính tấn công hay rút lui lại phải họp toàn thể
quân lính để hỏi ý kiến. Hay người quản lý một tập thể các nhà
khoa học có thể sử dụng phong cách lãnh đạo tự do để khuyến
khích các nhà khoa học đó được tự do trong việc triển khai các
công trình nghiên cứu, thí nghiệm...
Kế thừa các tư tưởng nghiên cứu về phong cách lãnh đạo - quản
lý, Rensis Likert, một nhà tâm lý học người Mỹ đã nghiên cứu các
kiểu mẫu và phong cách lãnh đạo của các nhà lãnh đạo quản lý
trong 3 thập kỷ (1930 - 1960). Likert đã đưa ra ý tưởng và những
cách tiếp cận mới đối với việc hiểu biết các hành vi lãnh đạo.
Theo Likeđ có 4 kiểu phong cách lãnh đạo - quản lý:
Thứ nhất, phong cách quản lý "quyết đoán - áp chế”. Ở phong
cách này các nhà quản lý chuyên quyền cao độ ít có lòng tin với
cấp dưới, thúc đẩy người ta bằng đe doạ và thưởng phạt bằng
những phần thưởng hiếm hoi, tiến hành thông tin từ trên xuống
và giới hạn ở việc ra quyết định ở cấp cao nhất.
Thứ hai, phong cách lãnh đạo quyết đoán - nhân từ, các nhà
quản lý loại này có lòng tin của cấp trên và tin vào cấp dưới. Thúc
đẩy người cấp dưới bằng khen thưởng và bằng một ít đe doạ,
trừng phạt, cho phép có ít nhiều thông tin lên trên, tiếp thu một số
tư tưởng phía dưới và cho phép phần nào sự giao quyền ra quyết
định nhưng kiểm tra chặt chẽ về mặt chính sách.
Thứ ba, phong cách quản lý tham vấn: Các nhà quản lý có sự tin
tưởng và hy vọng lớn nhưng không hoàn toàn vào cấp dưới,
dùng các phần thưởng để thúc đẩy, các luồng thông tin từ trên
xuống hoặc từ dưới lên trong quá trình điều hành và hoạch định
các chính sách chiến lược của Công ty. Các nhà quản lý có
phong cách lãnh đạo tham vấn thường xuyên tham khảo những ý
kiến khác nhau từ phía cấp dưới.
Thứ tư, phong cách quản lý "tham gia - theo 'nhóm". Các nhà
quản lý có phong cách này là người có lòng tin và sự hy vọng
hoàn toàn vào cấp dưới ở mọi vấn đề, luôn thu nhận các tư
tưởng, ý kiến của cấp dưới và sử dụng chúng một cách xây
dựng. Các nhà quản lý loại này thường sử dụng các phần thưởng
về mặt kinh tế để khuyến khích cấp dưới khi đạt được các mục
tiêu mà họ đề ra. Quá trình thông tin quản lý được thực hiện
thông suốt theo cả 3 chiều: lên trên, xuống dưới và với những
người cùng cấp. Họ thường xuyên khuyến khích cấp dưới trong
việc đề ra những quyết định trong những tình huống khó khăn khi
không có mặt của họ. Mặt khác, các nhà quản lý có phong cách
này thường coi họ và cấp dưới như là một nhóm.
Trong 4 kiểu phong cách nói trên, qua những kết quả nghiên cứu
đã chỉ ra rằng, các nhà quản lý áp dụng phong cách quản lý theo
kiều "tham gia theo nhóm" vào các hoạt động quản lý của mình
đã thu được thành công lớn nhất với tư cách là một người lãnh
đạo.
Một tác giả khác, F.E. Fiedler (nhà tâm lý học Mỹ), có một cách
tiếp cận khác khi nghiên cứu về phong cách lãnh đạo. Theo F.E.
Fiedler, khì việc trở thành các nhà lãnh đạo không chỉ vì các
thuộc tính nhân cách của họ mà còn là vì các yếu tố tình huống
khác và sự tác động tương hỗ giữa những người lãnh đạo và tình
huống. Theo quan điểm của mình, ông đưa ra hai phong cách
lãnh đạo chính. Phong cách lãnh đạo thứ nhất chủ yếu hướng
vào nhiệm vụ, người lãnh đạo sẽ thoả mãn khi nhìn thấy nhiệm
vụ được thực hiện. Phong cách còn lại chủ yếu hướng vào việc
đạt được những mối quan hệ tết giữa các cá nhân nhằm thu
được một địa vị cá nhân nổi bật.
Việc điểm qua một số nghiên cứu của các nhà tâm lý học phương
Tây về phong cách lãnh đạo cho thấy, không có một phong cách
lãnh đạo tuyệt đối nào có hiệu quả hoặc bất cứ một tình huống
quản lý cụ thể nào. Một phong cách lãnh đạo tốt nhất chỉ có được
khi nhà quản lý biết vận dụng một cách mềm dẻo (theo A.L.
Svenciskif và A.G. Kôvaliốp - 2 nhà tâm lý học Liên Xô) có nghĩa
người quản lý phải biết vận dụng các ưu thế của từng kiểu phong
cách quản lý tuỳ theo đặc trưng của hoàn cảnh, biết sửa đổi lề lối
của mình theo sự phát triển của tập thể, và mục đích quản lý
hướng vào con người, vào các mối quan hệ người - người và
mang tính nhân bản.
Bên cạnh những phong cách lãnh đạo đã và đang được áp dụng
ở các tước phương Tây, thì trong công trình nghíên cứu của GS.
Hiroshi Mannari đã lựa ra một kiểu phong cách quản lý phù hợp
với nền văn hoá phương Đông, mà đặc trưng của phong cách
này là phong cách quản lý của các nhà quản trị kinh doanh Nhật
Bản đang áp dụng.
Phong cách quản lý của những nhà lãnh đạo các công ty ở Nhật
Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Khổng giáo và các yếu
tố thuộc truyền thống dân tộc. Do vậy, đặc điểm nổi bật nhất của
nó khác với phong cách quản lý của các nhà lãnh đạo phương
Tây là việc xây dựng và duy trì những mối quan hệ tết đẹp, hài
hoà giữa những người dưới quyền và phát huy tinh thần đoàn kết
thân ái với nhau. Chức năng hàng đầu của người quản lý doanh
nghiệp là phải tạo điều kiện và giúp đỡ các nhóm, ca kíp, các tổ,
đội sản xuất hoàn thành tết nhiệm vụ của mình, thể hiện ở năng
suất, chất lượng và hiệu quả công việc, bằng cách loại trừ các
xung đột, phát huy ý thức đoàn kết, thống nhất. Trong xã hội Nhật
Bản truyền thống, vai trò và vị trí của nhóm được đặc biệt coi
trọng. Tiếp tục truyền thống ấy, người đứng đầu mỗi nhóm phải
tạo đựng cho được một bầu không khí thuận lợi để đạt được mục
tiêu mà cả nhóm đã xác định. Như vậy, người lãnh đạo nhóm
phải làm sao giữ được sự "cân bằng", tạo ra cảm giác trong
những người dưới quyền rằng, giữa họ không có sự khác biệt
nhau là mấy.
Người lãnh đạo, người quản lý chỉ thực sự được đánh giá là có
tài năng, có bản lĩnh khì người đó thiết lập và duy trì được quan
hệ tốt đẹp giữa người này với người khác trong nhóm, giữa nhóm
này và nhóm khác trong doanh nghiệp.
Phong cách quản lý Nhật Bản được thừa nhận là độc đáo ở chỗ:
Người lãnh đạo luôn ý thức rằng, họ phải thiết lập các quan hệ
không chính thức với những người dưới quyền bằng thái độ ứng
xử chân tình, gần gũi, chan hoà, sự thiện cảm và đồng cảm ở
người dưới quyền. Đối với các nhà quản lý Nhật Bản, quan hệ
gần gũi, thân mật với người dưới quyền không phải là mục đích
tự thân mà là một nhiệm vụ để qua đó tạo được bầu không khí
cởi mở, chân tình, tin cậy lẫn nhau trong tập thể. Hơn thế nữa, nó
là động lực khuyến khích mọi người đóng góp trí tuệ, tài năng,
sức lực vào công việc chung. Phong cách quản lý Nhật Bản còn
độc đáo ở cách thức khen thưởng và kỷ luật. Khen thưởng không
chỉ dành cho những ai có sáng kiến, đạt năng suất lao động cao,
mà cả những người làm việc chăm chỉ, cần mẫn, dù năng lực của
họ như thế nào. Khen thưởng phải có tác dụng khích lệ những
người dưới quyền dám làm những gì họ cho là đúng và hợp lý,
không ngồi chờ thụ động chỉ thị cấp trên. Nếu có điều gì không tốt
xảy ra thì ban quản trị cũng không mất công truy tìm, điều tra
người phạm lỗi (điều này khác hẳn so với phương pháp quản lý
theo phương Tây). Điều quan trọng của việc thực hiện các biện
pháp kỷ luật của người lãnh đạo với người dưới quyền không
phải là tìm cho ra thủ phạm rồi thi hành kỷ luật bằng phạt tiền,
đuổi việc mà là tìm ra và làm rõ cho mọi người hiểu rõ nguyên
nhân sai lầm để rút ra kinh nghiệm. Khi phê bình, người lãnh đạo
Nhật Bản không bao giờ làm cho người mắc khuyết điểm bị mất
thể diện, phải lúng túng trước tập thể, trước :tổ đội sản xuất... Họ
thường trao đổi riêng với người phạm sai lầm theo tình thần hai
bên cùng chịu trách nhiệm, cùng nhau tìm cách tháo gỡ những
vướng mắc, những hậu quả nào đó. Vì vậy mà người mắc lỗi sẽ
không phải mặc cảm về mình như là "đồ bỏ đi", "vô dụng" chừng
nào người đó còn cố gắng vươn lên.
Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thay rằng việc áp dụng một
kiểu phong cách lãnh đạo nào đó trong hoạt động quản trị kinh
doanh không đơn giản là áp dụng nguyên bản một kiểu phong
cách nào đó trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh mà đòi hỏi
người quản trì phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để tìm
ra kiểu phong cách lãnh đạo thích hợp, tuỳ vào những điều kiện,
tình huống cụ thể của doanh nghiệp. Như vậy, áp dụng phong
cách quản lý của những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp Việt
Nam trong hoạt động quản trị kinh doanh cũng phải tuân theo
cách làm trên.
Theo đề xuất của chúng tôi thì một phong cách lãnh đạo phù hợp
với các đặc điểm đặc thù của Việt Nam sẽ là phong cách lãnh
đạo mà ở đó người lãnh đạo phải có tính quyết đoán thể hiện qua
các phẩm chất dám nghe dám làm, dám chịu trách nhiệm, tự tin,
ra được những quyết đính kịp thời trong những tình huống khó
khăn. Bên cạnh đó, người lãnh đạo tạo ra được nhiều điều kiện
thuận lợi để cấp dưới phát huy hết năng lực, trí lực, óc sáng tạo,
lòng nhiệt tình vào công việc, có hệ thống chế độ đãi ngộ, khen
thưởng, kỷ luật kịp thời, thích đáng nhằm động viên người lao
động phát huy mọi tiềm năng, ổn định tinh thần và đảm bảo được
cuộc sống.
Các luồng thông tin trong quản lý phải luôn được đảm bảo theo
các kênh từ trên xuống dưới, từ cấp dưới lên trên. Và một đặc
điểm quan trọng trong phong cách quản lý này đó là phải tính tới
những đặc điểm dân tộc, đạo đức, văn hoá của người Việt Nam.
Như vậy, có thể nói rằng, một phong cách lãnh đạo tốt là một sản
phẩm mang tính trí tuệ cao của người lãnh đạo, thể hiện sự
nhuần nhuyễn trong cách sử dụng các phong cách lãnh đạo khác
nhau vào các tình huống khác nhau, đồng thời phù hợp với các
đặc điểm văn hóa Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phong_cach_lanh_dao_nao_cho_doanh_nghiep_viet_nam_2351.pdf