Vacxin là chếphẩm sinh học được chếtừvi sinh vật đã bịgiết chết (vacxin chết,
vacxin vô hoạt) hoặc bịgiảm độc (vacxin nhược độc).
- Vacxin nhược độc là chếphẩm sinh học từvi khuẩn hoặc virut đã được làm yếu
đi đến mức không nguy hiểm cho cơthểnhưng vẫn gây miễn dịch tốt, hoặc là từnhững
chủng vi sinh vật vốn có tính gây bệnh thấp đối với động vật được tuyển chọn từtự
nhiên. Người ta có thểlàm giảm độc vi khuẩn hoặc virut bằng nhiều cách nuôi cấy trong
điều kiện bất lợi (nuôi vi khuẩn nhiệt thán ởnhiệt độ42 °C hoặc trong môi trường CO2,
nuôi vi khuẩn lao trong môi trường có mật bò), có thểlàm khô (vacxin dại Pasteur), để
cho vi khuẩn già đi (vacxin tụhuyết trùng của Pasteur), tiếp đời liên tục qua một loại
động vật không cảm thụtựnhiên (vacxin nhược độc dịch tảtrâu bò qua thỏhoặc qua lợn,
vacxin nhược độc dịch tảlợn qua thỏhoặc qua bê), tiếp đời qua thai trứng (vacxin
Newcastle, vacxin dịch tảvịt, vacxin đậu gà). Một sốvacxin được chếtừcác chủng mầm
bệnh nhược độc tựnhiên (vacxin Newcastle V4 chịu nhiệt, vacxin bệnh Marek).
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2239 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phòng chống bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mòn kim loại mạnh (làm hỏng dụng cụ, chuồng trại,...). Có thể
dùng chung với axit phenic hoặc crezol.
- Axit phenic (phenol, C6H5OH): có tác dụng diệt trùng mạnh, vì có khả năng hòa
tan trong lipid nên dễ thấm sâu vào tế bào vi khuẩn. Chất này có tác dụng hủy diệt mạnh
vi khuẩn không có nha bào, ít có tác dụng đối với virut. Dùng dung dịch 3 - 5% như chất
tẩy uế nhưng cũng có thể pha loãng thêm khoảng 100 lần để rửa vết thương (dùng như
một chất khử khuẩn). Tuy nhiên, do rất đắt tiền nên phenol không được dùng rộng rãi
trong tẩy uế. Cũng không dùng phenol để tiêu độc chuồng bò sữa, vì sữa rất dễ hấp thụ
mùi phenol. Có thể dùng giẻ thấm ướt dung dịch phenol lau các dụng cụ bằng da để tiêu
độc. Khi tiếp xúc với phenol cần chú ý đây là chất ăn da mạnh nhưng không gây cảm
giác đau nên tổn thương trầm trọng có thể xảy ra mà không nhận biết được sớm. Ngoài ra
do tan trong lipid nên khi hít vào đường hô hấp phenol dễ được cơ thể hấp thu nên có thể
gây ngộ độc trầm trọng. Phenol có thể dùng chung với chlorur thủy ngân II hoặc axit
sulfuric với mục đích tiêu độc.
- Chlor (Cl2): dùng dưới dạng khí để tiêu độc chuồng có thể đóng kín được (dùng
1,55 g trong 1 m3 không khí). Có thể dùng chlor dưới dạng tan trong nước (sục khí chlor
vào nước).
Cl2 + H2O → HCl + HClO (axit hypochlorid)
HClO → HCl + O
Trong nước, HClO và HCl còn tác dụng lẫn nhau để thải khí ClO. Khí ClO tác
dụng với protein vi khuẩn và tàn phá tế bào vi khuẩn, tạo nên proteinat.
Trong môi trường ẩm ướt, khí chlor có tác dụng diệt trùng cao, vì tạo thành axit
hypochlorid và axit chlorhydric. Axit hypochlorid là chất không bền, phân hủy nhanh
thành axit chlorhydric và ôxy nguyên tử có tác dụng ôxy hóa rất cao, làm phá các chất
hữu cơ.
Chlor dùng để tiêu độc chuồng trại, dụng cụ, nước bẩn. Khi dùng chlor phải có
các phương tiện bảo hộ lao động. Tiêu độc xong phải thông khí chuồng rồi mới cho động
vật vào.
- Clorur vôi (hypochlorid calci, Ca(ClO)2): là một dạng muối chlor được hình
thành khi sục khí chlor vào nước vôi. Thành phần thường gồm có hypochlorid calci
(Ca(ClO)2), chlorur calci (CaCl2) và vôi tôi Ca(OH)2, có tác dụng diệt nhiều loại vi
khuẩn, cả vi khuẩn có nha bào. Dung dịch 5% tiêu diệt nha bào nhiệt thán sau 3 giờ.
Dùng dung dịch 10 - 20% để tiêu độc chuồng trại, đất, phân, phương tiện vận chuyển
động vật. Dạng bột thường dùng tiêu độc nước tiểu, nước phân và chất bẩn dạng lỏng
khác. Có thể dùng dung dịch chlorur vôi trong.
Chlorur vôi phải chứa trên 25% chlor hoạt tính. Cần phải bảo quản tốt như đựng
trong bình kín, để nơi tối, khô ráo, xa nơi ở của người và chuồng động vật. Muốn dùng
phải xác định lượng chlor hoạt tính chứa trong chlorur vôi trước khi dùng.
Tác dụng diệt trùng của chlorur vôi kém nếu đối tượng tiêu độc chứa nhiều chất
hữu cơ, vì vậy trước khi dùng phải tiêu độc cơ giới, quét dọn chuồng trại cho sạch.
Chloramin chứa từ 26 - 29% chlor hoạt tính, là chất kết tinh màu trắng có mùi
chlor nhẹ hòa tan tốt trong nước nóng. Chất này khó mất chlor hơn chlorur vôi, có tác
dụng diệt trùng không kém bichlor thủy ngân và axit phenic. Dung dịch nóng (50 - 60
°C) là chất sát trùng tốt. Dung dịch 4 - 5% diệt được nha bào vi khuẩn. Tác dụng diệt
trùng của chloramin cao là do thải chlor và ôxy.
- Formol (HCHO): là dung dịch trong nước của khí formaldehyd, thường có dạng
thương phẩm là dung dịch 37 - 41% trong nước gọi là formalin. Có tác dụng diệt trùng
cao là do thấm sâu vào tế bào vi khuẩn, tác dụng với protein nên làm biến đổi cấu trúc
phân tử tế bào. Nồng độ cao làm biến tính protein.
Formol có tác dụng diệt trùng mạnh: dung dịch 1% diệt nha bào nhiệt thán sau 24
giờ. Dung dịch formol 2 - 5% dùng để rửa nền chuồng, để phun hoặc ngâm dụng cụ.
Formol còn dùng ở dạng khí (xông formol) bằng cách đun nóng hoặc bổ sung từ từ vào
formol một lượng vôi tôi hoặc thuốc tím (permanganat kali) cho formol bốc hơi. Lượng
dùng cho 1 m3 không khí là 25 ml formalin. Dạng khí dùng để tiêu độc chuồng, tủ ấp
trứng, phòng thí nghiệm vi sinh vật.
- Bichlor thủy ngân (HgCl2): tác dụng diệt trùng cao do làm kết tủa các dung dịch
protein. Dung dịch không bền, dễ bị phân hủy khi tiếp xúc với một số chất hữu cơ và vô
cơ. Muốn tránh chất này bị phân hủy và làm tăng khả năng thấm sâu vào đối tượng tiêu
độc thì cho thêm HCl và NaCl.
Dung dịch bichlor thủy ngân 0,1 - 0,2% trong nước dùng tiêu độc tường, nền gỗ,
rửa tay, trong phòng thí nghiệm dùng ngâm các dụng cụ nhiễm trùng, lau mặt bàn ghế.
Tác dụng tiêu độc kém đối với các dụng cụ bằng kim loại, các chất chứa kiềm và protein.
Tuy nhiên, do thủy ngân là chất độc có thể tích tụ trong môi trường làm liều độc hình
thành sau một thời gian sử dụng liều nhỏ nên đây là hóa chất không nên áp dụng vào mục
đích tiêu độc nhà cửa, chuồng trại, phòng ốc,...
- Iôt (I, iodine): Tác dụng sát trùng rất mạnh, phổ tác dụng rất rộng, diệt được vi
khuẩn kháng cồn, kháng toan, nha bào nhiệt thán, virut, nấm men, mốc. Dung dịch 1 -
2% diệt nấm, ghẻ; dung dịch 2,5% diệt nha bào; dung dịch 0,1% dùng tiêu độc vỏ trứng
(ngâm trứng 30 - 60 giây).
- Cresol, cresyl và lyzol: là những hợp chất hữu cơ không ổn định về thành phần,
được dùng tẩy uế nhiều đối tượng khác nhau ở dạng dung dịch 0,5 - 5%. Lyzol có tác
dụng diệt xoắn khuẩn, tăng cường hiệu lực khi đun nóng. Dùng tiêu độc chuồng, dụng cụ
chăm sóc gia súc, yên cương ngựa,...
Cresol dùng trừ ruồi và nhiều loại động vật chân đốt khác. Cresol có thể đun bốc
hơi để thuốc thấm sâu vào đối tượng tiêu độc.
Ngoài ra, từ các hãng sản xuất thuốc thú y có thể có những hợp chất tiêu độc khác
nhau dưới các tên như Farm Fluid S, Virkon S, Long Life 250 S,...
- Tiêu độc chuồng trại: Hiệu lực tiêu độc phụ thuộc vào cấu tạo chuồng trại.
Tường, nền chuồng, sân chơi bằng phẳng thì hiệu lực tiêu độc cao hơn là gồ ghề. Phải
tiêu độc cơ giới trước khi tiêu độc hóa học.
Các hóa chất thường dùng là sữa vôi 10 - 20%, chlorur vôi 4 - 20%, formol 2 -
5%, NaOH 4 - 5%, cresol 0,5 - 3%, cresyl 3 - 5%, axit phenic 2 - 5%.
Có thể dùng nước sôi dội, hun trấu, rắc vôi bột, quét vôi,... để tiêu độc đối với một
số lớn bệnh truyền nhiễm trong hoàn cảnh nông thôn nước ta.
- Tiêu độc các phương tiện vận chuyển phân động vật (ôtô, toa tàu, xe ba gác,
xích lô,...): phân động vật khỏe mạnh phải thực hiện dọn làm phân bón. Phân, nguyên
liệu động vật bệnh hoặc nghi mắc các bệnh cảm nhiễm vi khuẩn không có nha bào cần
tiêu độc bằng phương pháp nhiệt sinh học. Bên trong và bên ngoài phương tiện vận
chuyển cần phun khí dung hoặc dội dung dịch hóa chất tiêu độc. Sau 2 - 3 giờ dội bằng
nước nóng. Phân và nguyên liệu của động vật bệnh hoặc nghi mắc các bệnh truyền nhiễm
do vi khuẩn có nha bào (bệnh nhiệt thán, ung khí thán,...) cần phải đốt. Dùng chất tiêu
độc mạnh tưới vào các phương tiện vận chuyển.
- Tiêu độc phân: có ba phương pháp tiêu độc phân là đốt, dùng các hóa chất và
phương pháp ủ nhiệt sinh học.
Phân nếu bị đốt thì chất lượng phân bón giảm, mặt khác đốt cháy không hoàn toàn
thường sinh khí độc. Cho nên chỉ đốt khi phân bị nhiễm các loài mầm bệnh có sức đề
kháng cao (như nhiệt thán, ung khí thán, virut thiếu máu truyền nhiễm ngựa). Các hóa
chất cũng ít được dùng tiêu độc phân vì bất tiện, tốn kém, thường không đạt mục đích
tiêu độc, lại gây trở ngại khi dùng phân bón. Có thể dùng một số chất như chlorur vôi
20%, nước chlor, sữa vôi 20%, hỗn hợp axit sulfuric - axit phenic, formol (sau khi trộn
hóa chất cần phủ lên một lớp màng polyethylen để giữ khí tiêu độc). Chất tiêu độc tác
dụng lên lớp phân mỏng trên mặt, rồi ngấm dần vào phân.
Phương pháp ủ nhiệt sinh học là phương pháp tiện lợi dùng để tiêu độc phân động
vật mắc bệnh truyền nhiễm do các vi khuẩn không có nha bào gây nên. Phương pháp này
được dùng để tiêu độc dựa trên cơ sở là các hợp chất hữu cơ trong phân, nước tiểu,... của
khối phân ủ xảy ra quá trình lên men bởi các vi sinh vật, làm nhiệt độ của đống phân tăng
cao nên có thể tiêu diệt được phần lớn vi khuẩn không có nha bào, virut, ấu trùng và
trứng giun sán.
Phân được đánh đống thành hình tháp, lượng phân chừng 1 tấn. Ở dưới được trải
một lớp phân động vật khỏe hoặc rơm rạ dày độ 30 - 40 cm. Nếu phân khô thì tưới thêm
nước cho ẩm. Nếu ướt quá thì phơi cho bớt nước và để có nhiều không khí lọt vào hoặc
cho thêm rơm rác khô trước khi ủ. Trộn thêm vôi bột và lá xanh (vôi bột 50 kg, lá xanh
200 kg cho mỗi tấn phân). Bên ngoài phủ một lớp phân của động vật khỏe rồi trát kín
bằng bùn đất hoặc than bùn. Phân sẽ tăng dần nhiệt độ do các vi sinh vật phân giải các
hợp chất hữu cơ trong đó: ban đầu là do các vi sinh vật ưa lạnh, rồi các vi sinh vật ưa ấm,
và cuối cùng khi nhiệt độ trong đống phân đã cao hơn 45 °C thì các vi khuẩn ưa nóng
chiếm ưu thế, chúng phát triển và làm cho nhiệt độ trong khối phân đến gần 75 - 80 °C. Ở
nhiệt độ đó, các vi sinh vật gây bệnh cho người và động vật, các nguyên trùng cũng như
trứng và ấu trùng giun sán đều bị tiêu diệt. Phân cần ủ nơi xa thôn xóm, trại chăn nuôi,
đường sá và nguồn nước. Sau 5 - 9 tuần mầm bệnh trong phân bị tiêu diệt, phân hoai có
thể dùng bón ruộng.
- Tiêu độc nước: Thực hiện ở các xí nghiệp chế biến thú sản, hải sản, xí nghiệp
chế thuốc sinh vật, nhà máy thuốc lá, các nguồn nước bị ô nhiễm,... Chất hóa học chủ yếu
dùng tiêu độc nước là các chế phẩm chứa chlor. Trước khi dùng chlor phải khử các chất
hữu cơ chứa trong nước như phân, rác, niêm dịch,... Những chất này ngăn cản tác dụng
trực tiếp của chlor đồng thời hấp thụ một lượng lớn chlor nên làm giảm hiệu lực tiêu độc
của chất này. Nước uống hàng ngày có thể tiêu độc bằng khí chlor, Aquatab, Virkon S,...
- Tiêu độc đất: trong đất có quá trình tự tiêu độc vì có những vi khuẩn đối kháng
với vi khuẩn gây bệnh, hoặc có các chất kháng sinh thực vật có khả năng diệt mầm bệnh
mà người ta có thể lợi dụng được bằng cách không chăn thả ở đó một thời gian. Để tiêu
độc đất có thể dùng vôi bột, sữa vôi 20%, xút 5%, chlorur vôi chứa 5% chlor hoạt tính.
- Tiêu độc chuồng gà vịt: Chuồng gà vịt bệnh phải tiêu độc thường xuyên 5 ngày
một lần. Thường dùng dung dịch nóng KOH 2 - 3%, nước chlorur vôi trong chứa 2%
chlor hoạt tính, sữa vôi 2%, tro nóng. Dụng cụ chăn nuôi hàng ngày ngâm từ 5 - 10 phút
trong dung dịch KOH 1%.
- Tiêu độc lò ấp trứng: Hằng ngày sau khi quét dọn cần lau nền bằng giẻ hay bàn
chải thấm dung dịch nóng KOH 1%. Rửa lò bằng dung dịch trên. Trước mùa ấp trứng cần
xông formol tiêu độc lò.
- Tiêu độc dụng cụ: Dụng cụ rẻ tiền (bằng tre, nứa,...), rơm rạ lót chuồng, cỏ, thức
ăn thừa phải đốt. Đồ dùng bằng kim khí phải hơ lửa. Các dụng cụ bằng vải thì đun sôi 30
- 60 phút. Có thể dùng nước sôi dội các đồ dùng chứa thức ăn. Dung dịch xút 4%, sữa vôi
20% ngâm hoặc rửa dụng cụ. Có thể dùng dung dịch nóng natri carbonat 3 - 5% trong
nước hoặc dùng tro thảo mộc mới đốt hòa với nước thành dung dịch 3% đun sôi, để lắng
rồi dùng.
Với các trang trại chăn nuôi tập trung nên áp dụng những trang thiết bị cơ giới
dùng để tiêu độc, vừa làm giảm nhẹ sức lao động của con người tiêu độc, vừa làm tăng
hiệu quả tiêu độc. Có nơi đã dùng phương pháp tiêu độc bằng khí dung. Dung dịch tiêu
độc nhờ một loại thiết bị riêng được phun dưới áp suất cao thành hai dòng ngược hướng
tạo ra dòng các hạt dịch rất nhỏ (5 - 20 μm) bắn vào không khí, rồi liên tục rơi vào đối
tượng tiêu độc.
- Tiêu diệt động vật chân đốt và chuột: Động vật chân đốt có thể vừa là nguồn
bệnh, vừa là nhân tố trung gian truyền bệnh. Trong nhiều bệnh, côn trùng, ve bét và chuột
là nhân tố truyền bệnh duy nhất. Vì vậy, cần phải có biện pháp tiêu diệt chúng hoặc ngăn
cản chúng tiếp xúc với động vật bệnh cũng như động vật khỏe. Nguyên tắc chung trong
công tác tiêu diệt động vật chân đốt và chuột là dựa vào đặc điểm sinh lý của chúng để
tìm cách hạn chế sinh sản kết hợp với việc tiêu diệt chúng ở các giai đoạn sinh trưởng. Để
hạn chế chúng sinh sản, cần giữ chuồng trại sạch sẽ, che đậy kín thức ăn, phân rác, thoát
các vũng nước, phát quang các bụi rậm ở nơi chăn dắt. Đối với từng loại côn trùng và ve
bét cần có các biện pháp tiêu diệt thích hợp. Có thể bắt chúng bằng tay, đập chết, đánh
bẫy, đào bới tìm diệt ấu trùng, dùng chim, gà, bắt động vật chân đốt trên mình gia súc,...
Có thể dùng các yếu tố vật lý như dùng lửa đốt, dùng nước nóng, hoặc tưới nước nóng,
hun khói chuồng trại.
Có thể dùng các hóa chất thích hợp dưới dạng bột, dạng dung dịch hoặc huyền
dịch để bôi, phun hoặc tắm cho động vật.
Các hóa chất dùng tiêu diệt động vật chân đốt và chuột không được gây hại cho
người, gia súc và đồ dùng, không làm chúng sợ hãi hoặc quen thuốc.
Tiêu diệt ruồi nhà với biện pháp chính là tiêu diệt chúng ở nơi sinh đẻ. Cần thực
hiện dọn phân rác trong chuồng, thức ăn thừa thãi, che đậy kín thức ăn, hố phân rác. Có
thể dựa vào các giai đoạn sinh sản có chu kỳ của ruồi như giai đoạn đẻ ra trứng, giai đoạn
trứng biến thái thành giòi, giai đoạn giòi thành nhộng, giai đoạn nhộng thành ruồi trưởng
thành, để tiêu diệt chúng ở những giai đoạn nhất định. Các hóa chất như chlorur vôi, vôi
bột, Solfac WP 10,... có thể dùng diệt giòi. Có thể dùng bẫy hoặc đập ruồi trưởng thành.
Tiêu diệt muỗi cần dựa vào đặc điểm sinh sản mà diệt chúng ở giai đoạn bọ gậy
và giai đoạn muỗi trưởng thành. Muỗi trưởng thành có thể diệt bằng phun hóa chất độc
hoặc dùng vợt điện, bẫy điện. Muốn diệt bọ gậy phải tát khô ao tù, cống rãnh, khơi thông
nơi bùn lầy nước đọng, các hốc cây chứa nước,... để không có nơi cho muỗi sinh đẻ và bọ
gậy không thể sống được. Chú ý rằng các bãi thải rác công nghiệp (lốp xe, chai lọ,...)
cũng là nơi thuận lợi cho việc sinh sản của muỗi. Đối với ao hồ cần thả cá tiêu diệt bọ
gậy. Có thể dùng dầu hỏa trải một lớp mỏng trên mặt ao hồ để làm bọ gậy tắc thở. Cần
lưu ý rằng mặc dù bằng tay tuy không tiêu diệt hết muỗi nhưng, cũng như đối với các
động vật gây hại khác, bằng cách này có thể làm giảm mật độ của chúng nên cũng góp
phần làm giảm tốc độ sinh sản của chúng.
Tiêu diệt ruồi trâu cũng là việc làm cần thiết. Ruồi trâu có rất nhiều loại (ở nước
ta có hơn 50 loài) nên việc tiêu diệt ruồi trâu rất khó; có thể hạn chế ruồi trâu đốt gia súc
bằng cách không chăn dắt ở những nơi ẩm thấp, nơi có nhiều cây cối rậm rạp, dùng lưới
che chuồng. Có thể bôi cresyl, dầu thầu dầu lên mình gia súc. Hạn chế ruồi sinh sản bằng
cách tiêu độc phân động vật, phát quang bụi rậm, khai thông nước đọng, trải một lớp dầu
hỏa mỏng trên mặt nước ao hồ.
Để tiêu diệt rận và ve phải thường xuyên cọ chải cho gia súc. Đối với ve cần phát
quang bụi rậm, quan sát và làm sạch các hốc nhỏ ở chuồng trại, nhà ở,... Có thể bắt ve
bằng tay hoặc, tốt hơn là, nhỏ dầu hỏa lên ve rồi gắp ve ra khỏi da hoặc hốc tường mà
giết chết. Hóa chất dùng để diệt ve có thể là HCN 3 - 6%. Mỗi tuần bôi 1 lần, liên tiếp 3
đến 4 tuần.
Tiêu diệt chuột có thể bằng nhiều phương pháp. Phải kết hợp phòng chuột và tiêu
diệt chuột. Phương pháp cơ học có thể là dùng bẫy, săn bắt, đào hang hay hun khói bắt
chuột. Phương pháp hóa học rẻ tiền và có hiệu quả hơn nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ đối
với sức khỏe người và động vật. Có thể dùng phosphur kẽm, nhưng nhược điểm của
thuốc này là có mùi hắc, nguy hiểm cho người và gia súc. Ngoài ra, có thể dùng các hợp
chất arsen (thạch tín), hợp chất có sắt, muối bari, thuốc chống đông máu tương đối không
độc với người và gia súc (như Racumin TP có thuốc giải độc là vitamin K, thời gian
nhiễm độc không lâu, nhưng nhược điểm là gây quen thuốc). Dùng một số thuốc độc thảo
mộc để đánh bả chuột cũng có hiệu quả.
Có thể sử dụng một số bài thuốc diệt chuột (bả chuột) sau đây: Zn3P2: 1 phần,
cơm rang: 15 phần, hoặc thạch tín (tán nhỏ): 1 phần, cơm rang: 20 phần. Các hóa chất có
thể trộn với mồi có vị thơm hấp dẫn chuột và phải luôn thay mồi mới. Nên đậy kỹ thức ăn
mấy hôm cho chuột đói rồi mới bẫy.
Phương pháp sinh học là dùng kẻ thù tự nhiên của chuột để diệt chúng (như mèo,
rắn, chim, các loài động vật ăn thịt khác) hoặc dùng vi sinh vật gây dịch cho chuột. Bảo
vệ các loài rắn, cú mèo trong tự nhiên cũng như nuôi mèo để phát tán vào các địa bàn
nông thôn là biện pháp hữu hiệu làm giảm số lượng chuột đáng kể, từ đó giảm tốc độ sinh
sản của chúng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý các động vật diệt chuột cũng có thể là tác nhân
truyền lây mầm bệnh, vì vậy chúng cũng là đối tượng cần hạn chế di chuyển và thậm chí
là nguồn bệnh khi có dịch xảy ra.
Ngoài các phương pháp trên, người ta có hướng dùng phương pháp di truyền,
dùng hóa chất hoặc các tia phóng xạ để gây tuyệt giống chuột.
Phòng chuột bằng mọi cách cách ly, xua đuổi chúng đi xa không cho xâm nhập
vào nhà, kho tàng, chuồng trại gia súc, bằng cách phá vỡ các điều kiện thuận lợi để chúng
sống và sinh sản như cất kỹ thức ăn thừa, phân rác, giữ nhà cửa phong quang, kho tàng
kín đáo để chúng không có phương tiện làm tổ.
b. Chăn nuôi khép kín
Chăn nuôi khép kín là biện pháp phòng dịch quần thể bắt đầu từ việc hạn chế
nhập gia súc, do việc thu nhận gia súc từ ngoài vào là con đường chủ yếu đưa vật mang
trùng vào chuồng trại và vì việc phát hiện vật mang trùng không dễ. Xét ở cấp độ quốc
gia hay khu vực thì nhiều nước trên thế giới (New Zealand, Australia, Anh, Nhật Bản,...)
nếu thực hiện triệt để việc quản lý nhập khẩu động vật thì là những hệ thống khép kín
gồm động vật nuôi và động vật hoang bản địa và có thể thực hiện chăn nuôi khép kín.
Tương tự, ở cấp độ nông trại lớn cũng có thể thực hiện chăn nuôi khép kín. Chẳng hạn,
trong chăn nuôi lợn trước đây người ta tiến hành nuôi giống và nuôi vỗ trong các trại
riêng biệt, để nuôi thịt người ta định kỳ nhập gia súc từ các trại khác về. Nhưng hiện nay
hình thức chăn nuôi khép kín nuôi vỗ lợn con được sinh sản tại trại nhà (farrow-to-finish
operation) được áp dụng ngày càng tăng. Chăn nuôi gà thịt cũng được tiến hành khép kín
nghiêm ngặt, mỗi lô gà con nở ra được nuôi thành đàn cách ly hoàn toàn với các đàn
khác.
Điểm khó khăn mà chăn nuôi khép kín gặp phải là nuôi con giống, thường gặp
phải nhất là vấn đề con giống nhập trại liệu có sạch bệnh hay không. Trong chăn nuôi gà
và chăn nuôi lợn, để chọn nuôi những con giống có tính di truyền tốt người ta phải nuôi
tiếp dòng. Các thế hệ giống cụ kị (GGP), giống ông bà (GP) và con giống sản xuất (giống
bố mẹ - PS) được chăn nuôi chuyên biệt trong mỗi trang trại để cung cấp lợn giống nuôi
vỗ thịt. Cơ cấu chăn nuôi như vậy được gọi là cơ cấu hình tháp. Ước tính nếu cần nuôi
1,5 triệu lợn vỗ thịt mỗi năm thì cần phải nuôi 500 con GGP, 6000 con GP và 90.000 con
PS. Nếu đàn giống hạng trên cảm nhiễm thì có nguy cơ toàn bộ đàn giống hạng dưới bị
lây nhiễm. Do đó đàn giống hạng trên phải được phòng dịch nghiêm ngặt, và không bao
giờ được cho di động đàn từ hạng dưới lên hạng trên, đồng thời mỗi hạng giống cũng
được nuôi khép kín nghiêm ngặt. Ngoài ra, còn cần phải ngăn chặn sự xâm nhập của
mầm bệnh từ bên ngoài vào. Con đường xâm nhập mầm bệnh phổ biến nhất cho động vật
là người, cho nên cần phải có quy chế vào ra chuồng trại. Thực hiện tiêu độc và thay
trang phục là bắt buộc.
4. Đối sách với động vật thụ cảm
Các biện pháp phòng bệnh đối với gia súc, gia cầm thụ cảm nhằm làm tăng sức đề
kháng (không đặc hiệu và đặc hiệu) của chúng đối với bệnh.
Các biện pháp đó đã được vạch ra trong Điều lệ phòng chống dịch trước đây,
trong Pháp lệnh thú y sau này và các văn bản thi hành liên quan, bao gồm những biện
pháp áp dụng khi chưa có dịch và khi có dịch.
4.1. Làm tăng miễn dịch quần thể
Đối sách cơ bản đối với ký chủ khi chưa có dịch là làm tăng sức miễn dịch tập
đoàn hay miễn dịch đàn. Để có đàn gia súc có sức đề kháng cao cần thực hiện các biện
pháp sau đây.
a. Vệ sinh phòng bệnh
Cá nhân và tổ chức chăn nuôi, chủ động vật nuôi, người vận chuyển động vật phải
thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh cho động vật, nhằm bảo đảm sức khỏe động
vật, tăng sức đề kháng không đặc hiệu của gia súc, gia cầm. Vệ sinh phòng bệnh bao
gồm: vệ sinh ăn uống, vệ sinh chuồng trại, chăn thả, vệ sinh thân thể, vệ sinh sử dụng,
khai thác, vệ sinh sinh sản,...
Vệ sinh phòng bệnh phải được xây dựng thành quy trình tiêu chuẩn kỹ thuật mà
người chăn nuôi bắt buộc phải tuân theo, và mặt khác phải được gây thành phong trào
quần chúng, thành tập quán trong nhân dân để mọi người tự nguyện tự giác thực hiện.
Phải kết hợp chặt chẽ với phong trào vệ sinh phòng bệnh cho người. Phải dựa vào sự hoạt
động của những tổ chức quần chúng như "hội bảo hiểm nuôi lợn" hoặc "kết ước phòng
toi gà", hoặc quy định pháp lý "đăng ký xây dựng cơ sở và vùng an toàn dịch".
Vệ sinh phòng bệnh có tác dụng chủ động tấn công bệnh ở ngoại cảnh và trên
thân thể động vật, làm cho cơ thể khỏe mạnh, tăng sức chống đỡ bệnh, ngăn chặn mầm
bệnh xâm nhập vào cơ thể. Đối với các bệnh không truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng,
phải lấy vệ sinh phòng bệnh làm biện pháp chính, nếu không phải là duy nhất, còn đối
với bệnh truyền nhiễm và một số bệnh ký sinh trùng thì phải kết hợp vệ sinh phòng bệnh
với tiêm phòng. Nhờ xây dựng và thực hiện tốt nội quy vệ sinh phòng bệnh mới hạn chế
được nhiều dịch bệnh.
b. Cải tiến kỹ thuật chăn nuôi
Thực hiện vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại,... là một khâu trong cải tiến kỹ
thuật chăn nuôi. Phối hợp khẩu phần thích đáng bảo đảm đủ và cân bằng chất dinh
dưỡng, xây dựng chuồng trại hợp lý, cải tiến việc quản lý chăm sóc, dùng công cụ cải tiến
trong chăn nuôi, chọn lọc cải tạo giống, cơ giới hóa chăn nuôi là những nội dung của cải
tiến kỹ thuật chăn nuôi, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về các mặt sinh lý, sinh thái, dinh
dưỡng học, di truyền học, vệ sinh thú y,...
c. Tiêm phòng
Tiêm phòng là biện pháp phòng bệnh tích cực, vì làm cho cơ thể tự sản sinh ra
(tiêm vacxin) hoặc tiếp nhận được (tiêm kháng huyết thanh) những chất tạo sức đề kháng
đặc hiệu chống cảm nhiễm nên giúp cho cơ thể chống đỡ có kết quả với bệnh trong thời
gian nhất định.
Tiêm phòng có ý nghĩa rất to lớn đối với những bệnh mà mầm bệnh tồn tại lâu dài
trong thiên nhiên (bệnh nhiệt thán) hay trong cơ thể động vật khỏe mạnh (bệnh đóng dấu
lợn, tụ huyết trùng), lại càng cần thiết đối với những bệnh có ổ dịch thiên nhiên, có nhiều
vật mang trùng, có nhiều nhân tố trung gian truyền bệnh hoặc những bệnh khó tiêu diệt
nhân tố trung gian truyền bệnh, cũng như đối với những bệnh lây qua đường hô hấp.
Tiêm phòng phải thực hiện khi chưa có dịch là chủ yếu, hoặc khi đã bị dịch uy
hiếp. Thuốc dùng tiêm phòng là vacxin hoặc kháng huyết thanh, hoặc kết hợp cả hai.
Tiêm phòng bằng vacxin là phương pháp đưa kháng nguyên của mầm bệnh vào
cơ thể nhằm tạo miễn dịch chủ động cho động vật. Năm 1876, Jenner (1749 -1823) lấy
vẩy đậu của bò cái chủng cho người thì gây bệnh rất nhẹ cho người. Sau đó, lấy mụn đậu
của người cho tiếp xúc với người đã được chủng virut đậu bò thì người này không mắc
bệnh đậu mùa của người nữa. Từ đó, ở châu Âu người ta đã sử dụng rộng rãi phương
pháp dùng virut đậu bò để phòng bệnh đậu mùa cho người (gọi là chủng đậu -
variollation; hoặc chủng vacxin - vaccination).
Hiện tượng người và động vật không mắc các bệnh sau khi mắc và khỏi bệnh
hoặc sau khi được tiêm chủng gọi là hiện tượng miễn dịch. Nhiều công trình nghiên cứu
của Pasteur sau này về các chế phẩm sinh học phòng một số bệnh truyền nhiễm (tụ huyết
trùng gà, đóng dấu lợn, nhiệt thán, dại) đã giúp ông khẳng định có thể tạo miễn dịch nhân
tạo cho người và động vật để phòng bệnh truyền nhiễm và đã thúc đẩy những công trình
nghiên cứu trong lĩnh vực đó. Pasteur đã đề nghị gọi các chất dùng tiêm chủng tạo miễn
dịch là vacxin (tiếng Pháp là vaccine, do từ bò cái tiếng Latin là vacca) và phương pháp
tiêm chủng gọi là tiêm chủng bằng vacxin (vaccination) để nhớ công Jenner.
Từ Jenner đến Pasteur và các nhà bác học sau hai ông, những công trình nghiên
cứu nối tiếp về vacxin và huyết thanh phòng bệnh đã góp phần to lớn làm giảm dần tai
họa khủng khiếp của dịch bệnh ở người và gia súc, thanh toán được bệnh đậu mùa và tiến
đến thanh toán một số bệnh dịch nguy hiểm khác (dịch tả trâu bò, dịch tả lợn,...). Yêu cầu
về vacxin phòng bệnh ngày càng tăng do nhiều loại đã đáp ứng yêu cầu của thực tế: gây
miễn dịch tốt, an toàn đối với cơ thể được tiêm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bệnh
việc tìm kiếm một vacxin hữu hiệu còn là thách thức lớn đối với nhân loại (vacxin tụ
huyết trùng gia cầm, chẳng hạn).
Ở nước ta hàng năm chế tạo và cung cấp một số lượng lớn các loại vacxin và
kháng huyết thanh. Nhiều loại có hiệu lực miễn dịch chắc chắn, thời gian miễn dịch
tương đối dài. Có loại vacxin đã được cải tiến, có loại mới đang được nghiên cứu chế tạo
cho phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Đó là điều kiện thuận lợi giúp chúng ta thực hiện
"tiêm phòng rộng rãi" để tạo miễn dịch tập đoàn hữu hiệu, góp phần vào kế hoạch khống
chế và tiê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- c4_1578 (1).pdf