a. Mô hình hoá. Hệ thống Núi cốc hiện đang phụ trách 4 khu tưới: Kênh chính,
Kênh giữa, Kênh Đông, và Kênh Tây. Ngoài ra, hệ thống còn có thể phục vụ cung
cấp nước tưới bổ sung cho Hiệp hoà - Bắc giang, và phục vụ một số hoạt động
kinh tế khác như cung cấp nước sinh hoạt, chăn nuôi thuỷ sản, sản xuất điện năng,
góp phần phòng lũ, phụ vụ du lịch, . Tuy nhiên, trong khoảng thời gian gần đây,
nhiệm vụ chủ yếu của Núi cốc là tưới, để minh hoạ phương pháp tính toán WTP,
mô hình của của chúng tôi cũng sẽ chủ yếu tập trung vào tính toán WTP của tưới.
Mặt khác, vì tính toán giá trị của nước tưới có tầm quan trọng lớn nhất (vì tưới
được xem như ngành lãng phí nước nhất) và cũng là loại tính toán khó nhất (vì
không có thị trường) trong số các sử dụng nước khác nhau, cho nên có thể coi tính
toán giá trị tưới là điển hình cho các tính toán giá trị khác của nước. Nước sinh
hoạt cũng có một vai trò tương tự, nhưng vì phạm vi bài viết có hạn, cho nên
chúng tôi sẽ trình bày mô hình tính toán giá trị nước sinh hoạt trong một dịp khác.
b. Tính cầu nước tưới. Theo định nghĩa, cầu tưới là quan hệ giữa lượng dịch vụ
tưới và giá kinh tế của dịch vụ tưới và một số biến số khác như giá của các hàng
hoá (hoặc tài nguyên) có liên quan. Tuy nhiên, vì đặc tính khó thay thế của mình
nên cầu nước tưới chủ yếu chỉ phụ thuộc vào giá của chính nó mà thôi. Tức là
chúng ta có quan hệ hàm số qw d( pw ) trong đó qw là lượng nước tưới, pw là giá
kinh tế của nước tưới, và d là hàm cầu.
8 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 426 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp luận đo lường giá trị tài nguyên nước tưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHƯƠNG PHÁP LUẬN
ĐO LƯỜNG GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN NƯỚC TƯỚI
Đào Văn Khiêm
Khoa Kinh tế - Đại học Thuỷ lợi
Tóm tắt:
Đo lường giá trị kinh tế của tài nguyên nước là một trong những mối quan tâm
đặc biệt của các chuyên gia kinh tế tài nguyên nước khắp nơi trên thế giới. Tuy
nhiên, ở Việt nam, vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ tương xứng
với tầm quan trọng của bài toán này trong việc trợ giúp công tác phát triển và
quản lý tài nguyên nước. Nội dung bài báo đề cập tới cơ sở khoa học của các
thước đo lợi ích của nước, phân tích và lựa chọn mô hình tính toán giá trị kinh tế
của nước, và ứng dụng thực tế của mô hình tại Hệ thống tưới Núi cốc, tỉnh Thái
nguyên. Tác giả cũng đã thực hiện so sánh các kết quả của một số mô hình đánh
giá giá trị của nước khác nhau để minh hoạ cho kết quả tính toán cho thấy ưu thế
của phương pháp mô hình quy hoạch phi tuyến.
***
Trong Tuyên bố Dublin (Ireland, 1992) tài nguyên nước có giá trị kinh tế và phải
được coi là một hàng hoá kinh tế. Tuy nhiên, “giá trị kinh tế” (gọi tắt là giá trị)
không phải là một khái niệm đơn giản, đặc biệt trong các ứng dụng tính toán kinh
tế tài nguyên nước ở nước ta, cụ thể là, đại lượng này hầu như chưa được đề cập
tới trong hầu hết các đề tài nghiên cứu khoa học của các chuyên gia ngành nước
của chúng ta. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới các kết quả khoa học cũng như ứng
dụng lớn của ngành nước, ví dụ như lĩnh vực quy hoạch tài nguyên nước. Mục tiêu
của bài viết này nhằm giới thiệu một trong số những thước đo giá trị như vậy, cụ
thể là ý muốn thanh toán (WTP) dựa vào đường cầu Marshall và ứng dụng của nó
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tưới cho lúa tại một số hệ thống nước ở Việt nam.
1. GIỚI THIỆU VỀ ĐO LƯỜNG GIÁ TRỊ CỦA NƯỚC
Trong đại đa số các dự án tài nguyên nước, các nhà phân tích Lợi ích – Chi phí
của chúng ta thường tính tt CB , (Lợi ích năm t và Chi phí năm t) một cách đơn
giản thái quá: kkt qpB , trong đó kk qp , là giá và khối lượng sản phẩm thứ k tại
năm thứ t (công thức tính tC cũng tương tự cho các đầu vào của dự án). Công thức
trên chỉ dùng được cho những dự án nhỏ lẻ vì một lý do đơn giản là nếu quy mô
của dự án chiếm một tỷ phần đáng kể của thị trường thì )( kkk qpp , tức là giá và
khối lượng sản phẩm có quan hệ với nhau, và quan hệ này chính là quan hệ cầu
của thị trường. Việc bỏ qua quan hệ này, chưa kể tới một số hàng hoá (hoặc tài
nguyên) không có giá cả thị trường vì các “thất bại thị trường” cho nên việc tính
toán còn phức tạp hơn nhiều, dẫn tới việc phân tích Lợi ích – Chi phí không còn
chính xác, mặc dù còn chưa xét đến những biến động trong tỷ lệ chiết khấu.
Vì vậy, từ lâu các nhà kinh tế khắp nơi trên toàn thế giới đã không coi trọng
phương pháp phân tích Lợi ích – Chi phí này nữa, và thực sự đã tiến hành nhiều
nghiên cứu để đổi mới phương pháp này về bản chất. Một trong những thay đổi là:
để lựa chọn một thước đo về giá trị của nước, chúng ta cần phải xem xét một số
điểm cơ bản của lý thuyết đo lường giá trị tài nguyên – môi trường nói chung và
giá trị tài nguyên nước nói riêng. Trước hết chúng ta nhắc lại khái niệm ý muốn
thanh toán (WTP) và ý muốn chấp nhận đền bù (WAC). Theo định nghĩa WTP là
khối lượng lợi ích tối đa (thường tính qua tiền) mà cá nhân muốn bỏ ra để có được
một loại hàng hoá nào đó, ví dụ như các sử dụng nước (nước tưới, nước sinh hoạt,
nước công nghiệp, ); còn WAC là khối lượng lợi ích tối thiểu mà cá nhân sẽ yêu
cầu để từ bỏ sử dụng một hàng hoá nào đó. Về nguyên tắc, WTP và WAC là
không trùng nhau, WTP bị phụ thuộc vào thu nhập còn WAC thì không.
WTP và WAC có thể được phân loại theo kiểu tác động vật lý như (i) tác động
trực tiếp lên con người (sức khoẻ, hương vị, tầm nhìn, sắc đẹp); (ii) tác động lên
hệ sinh thái (năng suất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, đa dạng sinh thái,
); (iii) tác động lên các hệ vô sinh (huỷ hoại nguyên vật liệu, đất trồng, chi phí
sản xuất, thời tiết, khí hậu, ), và kiểu tác động kinh tế như: (i) các tác động làm
thay đổi thu nhập, cung, cầu, và giá cả hàng hoá đối với người tiêu dùng; và (ii)
các tác động tới các hàng hoá không được mua bán một cách bình thường qua hệ
thống thị trường (nước tưới, nước sinh hoạt, phòng chống ô nhiễm nước, )
Theo mô hình kinh tế vi mô, chúng ta có bài toán tối ưu sau:
),,(max drxuu
với các ràng buộc : 0),,( dryf , ràng buộc hàm sản xuất
0 xys , ràng buộc cung - cầu
*rr , ràng buộc về tài nguyên
trong đó u là lợi ích cá nhân, x là véc tơ hàng hoá (hoặc tài nguyên) do cá nhân
tiêu dùng, y là véc tơ hàng hoá (hoặc tài nguyên) do xí nghiệp sản xuất, s là véc
tơ hàng hoá (hoặc tài nguyên) sẵn có, r là véc tơ hàng công cộng, d là véc tơ giá
trị mà cá nhân nhận được do giảm chất thải từ các xí nghiệp.
Sử dụng phương pháp nhân tử Lagrange để phân tích bài toán trên, chúng ta nhận
được một số kết luận như sau: ngoài những điều kiện bậc nhất về các chi phí và lợi
ích cận biên như các hàng hoá thị trường thường phải thoả mãn, ta còn có được kết
quả: (i) nhân tử Lagrange là giá bóng của *r _ tức là ta có thể tính được giá của
việc hạn chế tài nguyên – môi trường, và (ii) các quan hệ hàm số giữa WTP cận
biên và WAC cận biên của các luồng hàng hoá (hoặc tài nguyên) và khối lượng
hàng hoá được cung cấp. Nói một cách khác, thông qua phân tích toán học, chúng
ta có thể thấy, về nguyên tắc, chúng ta có thể tính toán được giá trị kinh tế của
những hàng hoá (hoặc tài nguyên – môi trường), kể cả những hàng hoá (hoặc tài
nguyên) không xuất hiện trên các thị trường trao đổi truyền thống.
2. THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ CỦA NƯỚC
Như trên đã nói, về nguyên tắc, mô hình toán học của bài toán tối ưu lợi ích điển
hình của kinh tế học vi mô cho thấy hoàn toàn có thể xác định được giá (chính xác
hơn là giá bóng _ là giá, mặc dù không quan sát được trên thị trường, phản ánh
hành vi của thị trường theo một cách thức tương tự như giá thị trường) và các quan
hệ đo lường lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, trong thực hành vẫn còn một số vấn đề cần
lựa chọn, cân nhắc. Vấn đề thứ nhất ở đây là nên sử dụng đường cầu Marshall hay
đường cầu Hicks để tính WTP và WAC?
Vấn đề là ở chỗ, nếu sử dụng đường cầu Marshall, chúng ta có thể đưa ra một lời
giải thích tương đối dễ hiểu về lợi ích và biến đổi lợi ích, được thể hiện bằng các
phần diện tích nằm bên dưới đường cầu Marshall và trên đường chi phí cận biên
của thị trường này. Tuy nhiên, lô gíc toán học cho thấy, điều nói trên chỉ đúng khi
thay đổi trong thu nhập là tương đối nhỏ. Tức là, thước đo lợi ích theo hàm cầu
Marshall, tuy có nhiều ưu điểm, nhưng về bản chất, không tương thích với một
thước đo lợi ích như WTP và WAC chẳng hạn.
Đường cầu Hicks lại có đủ ưu thế để giải quyết vấn đề lô gíc nói trên, tuy nhiên,
việc tính toán hàm cầu Hicks, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn nằm ngoài khả
năng của nhiều chuyên gia kinh tế tài nguyên – môi trường. Vào năm 1976, Willig
đã đưa ra bài báo nổi tiếng biện hộ cho việc sử dụng đường cầu Marshall như một
xấp xỉ cho thước đo lợi ích trong những điều kiện biến động thu nhập là nhỏ. Theo
Willig, trong tình huống điển hình, biến động thu nhập lên tới 20% thì sai số trong
tính toán lợi ích dựa vào đường cầu Marshall vẫn không ảnh hưởng lớn đến các
kết quả tính toán giá trị của tài nguyên – môi trường thực tế.
Vấn đề thứ hai là vấn đề số liệu dùng cho tính toán giá trị. Đối với việc tính toán
giá trị của hàng hoá (hoặc tài nguyên), nói chung chúng ta cần phải có được các số
liệu về khối lượng cũng như về giá cả của các hàng hoá đó và các hàng hoá có liên
quan. Có một số số liệu có thể quan sát được trên thị trường như các hàng hoá
(hoặc tài nguyên) được trao đổi trên các thị trường cạnh tranh. Trong điều kiện
này, tính cạnh tranh làm cho các thông tin này không bị “bóp méo” và hoàn toàn
có thể xử lý bởi các công cụ của khoa học thống kê một cách đáng tin cậy.
Tuy nhiên, đối với các hàng hoá liên quan đến vấn đề tài nguyên – môi trường thì
tình hình không phải như vậy, vì khi này có nhiều thất bại thị trường, cho nên tính
cạnh tranh bị phá huỷ, dẫn tới việc các số liệu cần thiết cho tính toán giá trị trở nên
không thể quan sát thấy một cách khách quan qua các giao dịch thị trường. Một
trong những giải pháp cho vấn đề này là phương pháp CVM, là phương pháp lấy
thông tin, số liệu cần thiết về hành vi thị trường thông qua phương pháp điều tra,
xét hỏi. Tuy nhiên, để đạt được độ chính xác cần thiết, việc áp dụng phương pháp
này đòi hỏi phải có những hiểu biết sâu sắc và khả năng thực hành có kinh
nghiệm, nếu không chúng ta sẽ nhận được những kết quả phản tác dụng.
Để minh hoạ cho việc áp dụng phương pháp tính toán giá trị nói trên, chúng tôi sẽ
trình bày một ví dụ ứng dụng mà chúng tôi đã thực hiện cho hệ thống Quản lý và
Khai thác Công trình Thuỷ lợi Núi Cốc thuộc tình Thái nguyên. Đây là một hệ
thống tự chảy chủ yếu phục vụ dịch vụ tưới cho lúa, do vậy giá trị chính là giá trị
của dịch vụ tưới lúa. Để tính giá trị của nước tưới cho lúa, chúng tôi đã lựa chọn
thước đo lợi ích WTP dựa vào đường cầu Marshall đối với tưới, vì điều kiện
Willig nói chung được thoả mãn. Hơn nữa, chúng tôi có đối chiếu với một số kết
quả tính toán giá trị khác trong cùng một điều kiện số liệu để đưa ra những so sánh
cần thiết.
3. ĐO LƯỜNG GIÁ TRị KINH TẾ CỦA NƯỚC TƯỚI TẠI HỆ THỐNG
NÚI CỐC – THÁI NGUYÊN
a. Mô hình hoá. Hệ thống Núi cốc hiện đang phụ trách 4 khu tưới: Kênh chính,
Kênh giữa, Kênh Đông, và Kênh Tây. Ngoài ra, hệ thống còn có thể phục vụ cung
cấp nước tưới bổ sung cho Hiệp hoà - Bắc giang, và phục vụ một số hoạt động
kinh tế khác như cung cấp nước sinh hoạt, chăn nuôi thuỷ sản, sản xuất điện năng,
góp phần phòng lũ, phụ vụ du lịch, . Tuy nhiên, trong khoảng thời gian gần đây,
nhiệm vụ chủ yếu của Núi cốc là tưới, để minh hoạ phương pháp tính toán WTP,
mô hình của của chúng tôi cũng sẽ chủ yếu tập trung vào tính toán WTP của tưới.
Mặt khác, vì tính toán giá trị của nước tưới có tầm quan trọng lớn nhất (vì tưới
được xem như ngành lãng phí nước nhất) và cũng là loại tính toán khó nhất (vì
không có thị trường) trong số các sử dụng nước khác nhau, cho nên có thể coi tính
toán giá trị tưới là điển hình cho các tính toán giá trị khác của nước. Nước sinh
hoạt cũng có một vai trò tương tự, nhưng vì phạm vi bài viết có hạn, cho nên
chúng tôi sẽ trình bày mô hình tính toán giá trị nước sinh hoạt trong một dịp khác.
b. Tính cầu nước tưới. Theo định nghĩa, cầu tưới là quan hệ giữa lượng dịch vụ
tưới và giá kinh tế của dịch vụ tưới và một số biến số khác như giá của các hàng
hoá (hoặc tài nguyên) có liên quan. Tuy nhiên, vì đặc tính khó thay thế của mình
nên cầu nước tưới chủ yếu chỉ phụ thuộc vào giá của chính nó mà thôi. Tức là
chúng ta có quan hệ hàm số )( ww pdq trong đó wq là lượng nước tưới, wp là giá
kinh tế của nước tưới, và d là hàm cầu.
Để xác định được quan hệ này, trước hết cần phải chỉ ra dạng hàm của d . Các nhà
kinh tế tưới thường chọn dạng của d là đa thức hoặc hàm mũ. Với đa thức, chỉ có
đa thức bậc nhất (cầu tuyến tính) là thích hợp hơn cả, vì như chúng ta sẽ rõ sau
này, hàm lợi ích tương ứng với hàm cầu này phải thoả mãn điều kiện tăng chậm
dần, mà chỉ đa thức bậc hai (tích phân của cầu d ) mới đáp ứng được. Ngoài ra
chúng ta có thể chọn d là hàm mũ, và hàm e-mũ là phù hợp cho điều này. Vì vậy
trong mô hình này, chúng tôi đã lựa chọn ra hai dạng hàm cầu d để kiểm tra: hàm
bậc hai và hàm e-mũ. Tuy nhiên có thể có nhận xét rằng hàm e-mũ là phi tuyến
nên gợi ý cho chúng ta rằng hàm này sẽ có khả năng xấp xỉ đường cầu tưới một
cách chính xác hơn một đường cầu tuyến tính, và nhận xét này sẽ được khẳng định
thông qua kết quả tính toán cụ thể của mô hình sau này.
Mặt khác, chúng ta cần phải xét tới các tiếp cận để xây dựng đường cầu tưới. Có
hai tiếp cận tiêu biểu như sau:
- Xây dựng cầu thông qua hàm sản xuất: trước hết chúng ta cần xây dựng
hàm sản xuất )( wqfy , trong đó y là sản lượng lúa. Quan hệ hàm sản xuất cho
biết ứng với một khối lượng nước tưới, ta có một mức sản lượng tương ứng là y .
Từ quan hệ này, giải một bài toán tối ưu lợi nhuận của người nông dân, chúng ta
sẽ nhận được một hàm cầu bậc nhất. Hàm cầu này còn có tên gọi là hàm cầu dẫn
xuất của tưới vì cầu của tưới được rút ra không phải một cách trực tiếp mà gián
tiếp thông quan hàm sản xuất.
- Xây dựng cầu tưới trực tiếp bằng phương pháp kinh tế lượng: Tuy việc xây
dựng cầu thông qua hàm sản xuất là một tiếp cận truyền thống của các nhà kinh tế
tưới, nhưng trong thời gian gần đây, do sự hiểu biết về bản chất cầu tưới ngày
càng gia tăng, các nhà kinh tế tưới đã đề xuất xây dựng cầu tưới một cách trực tiếp
hơn thông qua phương pháp kinh tế lượng (econometrics). Bản chất của phương
pháp này là dựa trực tiếp vào các quan sát ),( ww pq (lượng nước tưới, giá nước
tưới) tại các vị trí đặc biệt: ví dụ như khi hoàn toàn không có nước, giá nước tưới
khi đó sẽ dễ xác định hơn (khoảng 20-23% sản lượng), hoặc khi có đủ nước (6500
m3/ha) thì giá kinh tế của tưới sẽ xấp xỉ bằng không vì người nông dân không cần
thêm nước tưới nữa.
Sau khi đã có những quan sát này, ta có thể sử dụng phương pháp kinh tế lượng để
tiến hành hồi quy. Tuy nhiên, để gia tăng khả năng bảo đảm của kết quả, ta cần sử
dụng các biện pháp hồi quy tổng quát hơn, ví dụ như Bình phương tối thiểu tổng
quát (GLS _ General Least Square), để giải quyết vấn đề đến sự vi phạm giả thiết
phương sai cố định của Bình phương tối thiểu nguyên thuỷ (OLS _ Original Least
Square). Ngoài ra cũng cần sử dụng hồi quy này để lưu ý tới độ co dãn rất thấp của
cầu tưới ( 12,0
ln
ln
w
w
d
pd
qd
e ), vì tưới là dịch vụ khó có thể thay thế bởi một đầu
vào sản xuất nào khác.
Chúng tôi đã thử nghiệm nhiều phương án tương ứng với các trường hợp đã nói ở
trên. Một số kết quả điển hình thu được là:
Cầu tưới tuyến tính baqp ww
Khu tưới Vụ Hệ số a Hệ số b
Kênh Chính Đông – Xuân -42,462 233,330
Hè – Thu -116,672 894,872
Kênh Giữa Đông – Xuân -55,902 511,109
Hè – Thu -107,070 1461,530
Kênh Tây Đông – Xuân -37,577 302,136
Hè – Thu -73,379 562,820
Kênh Đông Đông – Xuân -55,906 381,197
Hè – Thu -43,512 466,667
Cầu tưới phi tuyến )/exp( bqap ww
Khu tưới Vụ Hệ số a Hệ số b
Kênh Chính Đông – Xuân 282,0 0,639
Hè – Thu 304,0 0,639
Kênh Giữa Đông – Xuân 376,0 1,040
Hè – Thu 364,9 1,330
Kênh Tây Đông – Xuân 339,0 0,923
Hè – Thu 365,0 1,140
Kênh Đông Đông – Xuân 352,9 0,778
Hè – Thu 345,0 1,050
c. Chạy mô hình Sau khi tính được đường cầu tưới, tại mỗi khu tưới, ứng với
từng vụ, chúng ta còn cần phải tính thêm đường chi phí cận biên của tưới. Tuy
nhiên, đây không phải là một khó khăn, và để cho đơn giản mô hình, chúng tôi
không đề cập tới chi phí cận biên trong tính toán này, và bài toán của chúng ta sẽ
liên quan tới thu nhập thô của tưới thay vì lợi nhuận ròng.
Như vậy, chúng ta đã coi mỗi khu tưới như một thị trường dịch vụ tưới riêng biệt.
Tuy nhiên, các quan hệ cân bằng nước cho thấy, khối lượng nước tưới tại từng thị
trường riêng biệt này đều bị phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, chúng ta cần xác định
tình trạng tối ưu của toàn bộ hệ thống thay vì tối ưu cục bộ. Nếu ký hiệu
kw
q là
khối lượng nước tưới tại khu vực thứ k, ta có thể viết bài toán dưới dạng sau:
kTBTBmax , trong đó kTB là WTP tại khu tưới thứ k.
tuỳ thuộc vào các ràng buộc cân bằng nước, ràng buộc hồ chứa, ràng buộc công
suất kênh mương,
Ở đây, chúng ta cần lưu ý công thức tính WTP tại khu tưới k được thiết lập bởi
diện tích nằm bên dưới đường cầu ròng Marshall của nước tại khu tưới k, như sau:
kw
q
k dqqdTB
0
)( , trong đó )(qd là đường cầu tưới tại khu k.
Trong trường hợp )(qd là tuyến tính, kTB là hàm bậc hai, và chúng ta cần giải một
bài toán quy hoạch bậc hai, ngược lại nếu )(qd có dạng e-mũ, kTB nhìn chung
cũng là một hàm e-mũ, và chúng ta sẽ có một bài toán phi tuyến _ tổng của các
hàm e-mũ. Sử dụng một phần mềm tính toán tối ưu bất kỳ (như GAMS, LINGO,
thậm chí cả EXEL), chúng ta hoàn toàn có thể dễ dàng nhận được kết quả bằng số.
d. So sánh kết quả Chúng tôi đã thực hiện một số phương án khác nhau trong
việc tính toán kiểm tra thước đo giá trị đối với Hệ thống Núi cốc nhằm so sánh các
tiếp cận đo lường giá trị khác nhau. Phương pháp thứ nhất là phương pháp truyền
thống; phương pháp thứ hai là CVM, nhằm đánh giá giá trị nước tưới thông qua
điều tra phỏng vấn một số chuyên gia và các nhà quản lý của hệ thống; phương
pháp thứ ba là tính toán giá trị nước tưới thông qua hàm cầu tuyến tính, và phương
pháp thứ tư là tính toán giá trị nước tưới bằng cầu phi tuyến (e-mũ).
Kết quả của các phương pháp trên cho thấy:
- Phương pháp truyền thống đánh giá quá cao các lợi ích của nước tưới
- Phương pháp CVM cho thấy giá trị nước tưới của Núi cốc là vào khoảng
trên 2 tỷ VND/năm
- Phương pháp sử dụng cầu tuyến tính cho kết quả vào khoảng 5,6 tỷ
VND/năm
- Phương pháp sử dụng cầu e-mũ cho kết quả là 2,4 tỷ VND/năm
Đối chiếu các kết quả trên, chúng ta thấy phương pháp CVM và phương pháp tính
giá trị sử dụng cầu phi tuyến e-mũ đưa ra giá trị phù hợp với điều kiện của hệ
thống Quản lý và Khai thác Núi cốc.
3. KẾT LUẬN
Phương pháp luận tính toán giá trị kinh tế của tài nguyên nói chung và nước tưới
nói riêng phản ánh được nhiều thuộc tính kinh tế của tài nguyên – môi trường,
giúp cho các nhà quản lý hiểu biết sâu sắc về các kiến thức tài nguyên – môi
trường. Mặt khác, phương pháp luận này cùng với các công cụ tính toán hiện đại
hoàn toàn có thể giúp cho việc thực hành một cách có hiệu quả trong việc đánh giá
giá trị thực tế của tài nguyên – môi trường tại các vị trí cụ thể.
Vì mục đích của bài viết này chỉ là giới thiệu một phương pháp luận tính toán và
khả năng áp dụng thực tế của tiếp cận đo lường giá trị của tài nguyên – môi
trường, cho nên tác giả chỉ dừng lại ở các tính toán cho một mục tiêu sử dụng
nước _ là sử dụng nước tưới cho lúa. Tuy nhiên, trong thực tế, tiếp cận nói trên có
thể mở rộng cho bất kỳ sử dụng nước nào, và cho cả các hệ thống nhiều sử dụng
nước phức tạp khác nhau. Việc áp dụng cho trường hợp đa-sử dụng sẽ được trình
bày trong một bài viết khác.
Tài liệu tham khảo
Anderson, G.D. & Bishop, R.C. 1986. The valuation problem. In: D.W. Bromley (ed.). Natural Resource
Economics: Policy problems and contemporary analysis. Boston: Kluwer-Nijhoff Publishing. [Recent
Economic Thought Series].
Colby, B.G. 1989. Estimating the value of water in alternative uses. Natural Resources Journal.
Delft Hydraulics. 1994. Framework of analysis for river basin management. Delft, the Netherlands: Delft
Hydraulics' River Basin Management Group.
Easter, K.W. & Hearne, R. 1995. Water markets and decentralized water resources management:
International
problems and opportunities. Water Resources Bulletin, 31(1):9-20.
Easter, K.W.; Rosegrant, M.W.; & Dinar, A. 1998. Markets for water: Potential and performance. Boston:
Kluwer Academic Press. [Natural resource management and policy, 15].
Freeman III, A.M. 1986. The valuation problem: Comment 1. In: D.W. Bromley (ed.). Natural Resource
Economics: Policy problems and contemporary analysis. Boston: Kluwer Nijhoff Publishing. [Recent
Economic Thought Series].
Gibbons, D.C. 1986. The economic value of water. Washington, D.C.: Resources for the Future.
Hoekstra, A.Y.; Savenije, H.H.G.; & Chapagain, A.K. 2000. Water value flows: A case study on the
Zambezi
basin. Delft, the Netherlands: International Institute for Infrastructural, Hydraulic and Environmental
Enginering (IHE). [Value of Water Research Report Series, 2].
James, L.D. & Lee, R.R. 1971. Economics of water resources planning. New York: McGraw-Hill Book
Company. [McGraw-Hill series in water resources and environmental engineering].
Just, R.E.; Hueth, D.L.; & Schmitz, A. 1982. Applied welfare economics and public policy. Englewood
Cliffs,
N.J.: Prentice-Hall.
Khiem, Dao Van. Modeling demand curve for irrigation water in Dinhhoa Distric, Thai nguyên. Tap chi
Nong nghiep, 11/ 2001.
Khiem, Dao Van. Water Valuation. Report in AIT, Bangkoc. 12/2002.
Khiem, Dao Van. Báo cáo đề tài cấp bộ “tính toán chi phí một mét khối nước cho các hệ thống thuỷ lợi”,
Hà nội, tháng 04 năm 2006.
Kindler, J. & Russell, C.S. 1984. Modeling water demands. London: Academic Press.
Postle, M.G.; Berry, N.; & Westcott, R. 1997. The economics of low flow rivers. In: M. Kay; T. Franks; &
L.
Smith (eds.). Water: economics, management and demand. London: E & FN Spon.
Young, R.A. 1996. Measuring economic benefits for water investments and policies. Washington, D.C.:
The
World Bank. [World Bank Technical Paper, 338].
Young, R.A. & Gray, S.L. 1985. Input-output models, economic surplus, and the evaluation of state or
regional
water plans. Water Resources Research, 21(12):1819-1823.
Young, R.A. & Haveman, R.H. 1985. Economics of water resources: A survey. In: A.V. Kneese & J.L.
Abstract:
Measuring economic values of variuos water uses is one of the most important
concerns of water resources economists all over the world. However, this issue is
still studied not enough being deserving to the its role in supporting decision-
making processes in water resources setor. This paper addresses the theoretical
basis of the value measures of the water, and analyses and chooses models to
estimate water values in the Nui coc irrigation system in Thainguyen province.
The author also compares the results of the estimations of several available
models showing the advantages of the nolinear programming model.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_phap_luan_do_luong_gia_tri_tai_nguyen_nuoc_tuoi.pdf