Như vậy từ các phân tích bên trên Giá trị kinh tế của nớc phụ thuộc vào ngời dùng và
cách thức sử dụng nớc, bao gồm :
- Giá trị của việc sử dụng trực tiếp nguồn nớc của ngời sử dụng.
- Các lợi ích thu đợc từ lợng nớc tổn thất (nh lợng bốc thoát hơi nớc và nớc
hồi quy).
- Các lợi ích thu đợc từ sử dụng gián tiếp nguồn nớc.
- Các đóng góp của nớc cho với thành quả xã hội.
- Giá trị nội tại của nớc bao gồm những giá trị không đợc sử dụng của nớc nhgiá trị còn lại hoặc hiện hữu của nớc.
Cũng theo Peter Rogers (6), giá trị đầy đủ của việc cấp nớc, diễn đạt theo cách
khác, bao gồm giá trị kinh tế đầy đủ và các giá trị của nớc cho môi trờng nh duy trì hệ
sinh thái và sức khoẻ cộng đồng. Giá trị kinh tế đầy đủ của nớc bao gồm giá cung cấp
nớc tính đủ cho việc quản lý nguồn, chi phí vận hành và duy tu bảo dỡng, giá đầu t cơ
bản, chi phí cơ hội và các yếu tố kinh tế ngoại lai nảy sinh do sự thay đổi các hoạt động
kinh tế của những ngành bị ảnh hởng gián tiếp nh hình 2.
 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp luận tính toán giá trị kinh tế nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
phương pháp luận Tính toán 
giá trị kinh tế nước 
 TS. Phạm Hùng, Bộ môn Kinh tế thuỷ lợi 
Tóm tắt 
Ngày nay nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc biệt quan trọng, góp phần chủ yếu vào sự ổn định chính 
trị cũng như phát triển bền vững. Phát triển tài nguyên nước đang là mối quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế và mỗi 
quốc gia. Tuy nhiên hiện nay nguồn tài nguyên này đang bị suy thoái đe doạ sự sử dụng lâu bền của con người Do 
vậy đòi hỏi phải có nhận thức mới về tài nguyên nước và coi nước là một tài nguyên có giá trị kinh tế. Nhận thức 
điều đó tác giả đề xuất cơ sở khoa học cho việc xác định giá trị kinh tế của nước. 
I. Đặt vấn đề 
Nước ngày nay đã trở thành vấn đề không chỉ là mối quan tâm của quốc gia, khu vực 
mà còn của toàn thế giới, là nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc biệt quan trọng, góp phần 
chủ yếu vào sự ổn định chính trị cũng như phát triển bền vững. Phát triển tài nguyên nước 
đang là mối quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia. Nguồn nước được sử 
dụng chủ yếu cho tưới, phát điện và cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp. Các yêu cầu 
sử dụng khác như nước cho thuỷ sản, giao thông, nghỉ ngơi giải trí còn ít. Ngay từ thuở 
ban đầu con người đã nhận thức được tầm quan trọng và tính thiết yếu của tài nguyên 
nước, tuy nhiên cho đến ngày nay khi mà nguồn tài nguyên này đang bị suy thoái đe doạ 
sự sử dụng lâu bền của con người thì nhân loại mới nhận thức được một cách đầy đủ và 
toàn diện được về nguồn tài nguyên rất đặc biệt này, trong đó có cả những nhận thức có 
thể coi là mới so với những nhận thức trứơc đây. Những nhận thức mới về tài nguyên nước 
đã được nêu lên và nhấn mạnh nước là một tài nguyên có giá trị kinh tế. Nhận thức điều 
đó tác giả đề xuất cơ sở khoa học cho việc xác định giá trị kinh tế của nước. 
ii. Cơ sở khoa học của việc xác định giá trị của nước 
Stephen Merrett (7) đã đề xuất khái niệm về giá trị của nước như sau : giá trị của 
nước có thể tính toán được cho bất kỳ khu vực trong nền kinh tế và nó chính bằng khối 
lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của khu vực đó chia cho lượng nước sử dụng trong 
khoảng thời gian đó. Giá trị của nước có thể được biểu diễn bằng công thức sau : 
)1(
i
i
i
Q
N
M  
Trong đó : - Mi là giá trị của nước trong khu vực thứ i 
 2
 -Ni là đầu ra của khu vực dịch vụ đó trong phạm vi giá trị tăng thêm 
 - Qi là lượng nước tiêu thụ trong khu vực dịch vụ tính theo m
3 
Như vậy giá trị của nước là một chỉ số phản ánh giá trị kinh tế của nước trong các 
hoạt động sản xuất. Nó cũng cho thấy chi phí cơ hội của nước nếu hoạt động sản xuất đó 
không sử dụng thêm bất kỳ một lượng nước nào khác. 
Trong khi đó Peter Rogers (6) lại đưa ra khai niệm về giá trị của nước. Giá trị của 
nước xem một cách khái quát cơ cấu của nó gồm hai bộ phận hợp thành : Giá thành và lợi 
nhuận của ngành Thuỷ lợi cụ thể là ngành tưới. Như vậy giá trị của nước thể hiện mối 
quan hệ kinh tế sòng phẳng giữa hai chủ thể sản xuất kinh doanh làm dịch vụ và hưởng 
dịch vụ trên cơ sở hợp đồng kinh tế và hai chủ thể đó về nguyên tắc có thể thuộc bất cứ 
thành phần kinh tế nào. Chính vì vậy giá của nước cần phải tính toán một cách đầy đủ bao 
gồm giá trị kinh tế và giá trị nội tại như hình 1. 
 Hình 1. Các nguyên tắc cho việc xác định giá trị của nước (6) 
Tuy nhiên theo công thức (1) biến số phản ánh giá trị của nước là không hợp lý và 
thiếu chính xác khi xem xét việc hạ thấp nguồn nước của lưu vực. Với lý do là khi sử dụng 
công thức này thì giá trị của nước chỉ phản ánh lưu lượng dòng chảy của một lưu vực sử 
Giá trị nội tại 
Giá trị 
kinh tế 
Giá trị 
đầy đủ 
Đóng góp cho các mục tiêu xã hội 
Lợi ích từ sử dụng gián tiếp nguồn nước 
Lợi ích từ các tổn thất như sử dụng 
nước hồi quy, lượng bốc thoát hơi 
nước 
Các giá trị sử dụng trực tiếp nước của 
người dùng 
 3
dụng cho quá trình sản xuất, mà không chú trọng đến việc sử dụng nước hồi quy và bốc 
thoát hơi. 
Ngoài ra theo nghiên cứu của một số chuyên gia kinh tế thì coi dịch vụ nước với tư 
cách là hàng hoá, khác với nước tự nhiên nó được kết tinh bởi lao động sống và lao động 
vật hoá. Về mặt giá trị nếu xem xét một cách khái quát nó cũng bao gồm ba bộ phận hợp 
thành : Một là giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí, giá trị tài sản cố định đã hao phí được 
tính dưới hình thức khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn và giá trị nguyên nhiên vật 
liệu sử dụng trong quá trình sản xuất. Hai là giá trị quỹ lương dùng để trả cho người lao 
động trực tiếp hoặc gián tiếp ở các xí nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Ba là 
giá trị của sản phẩm thặng dư được tính vào giá trị của sản phẩm thuỷ lợi được thể hiện 
dưới các hình thức: Phần trả lãi vay ngân hàng và tiền vay khác, phần nộp thuế nếu có, 
phần để lại cho xí nghiệp quản ý khai thác công trình thuỷ lợi để hình thành các quỹ phát 
triển sản xuất, khen thưởng và phúc lợi. 
Như vậy từ các phân tích bên trên Giá trị kinh tế của nước phụ thuộc vào người dùng và 
cách thức sử dụng nước, bao gồm : 
- Giá trị của việc sử dụng trực tiếp nguồn nước của người sử dụng. 
- Các lợi ích thu được từ lượng nước tổn thất (như lượng bốc thoát hơi nước và nước 
hồi quy). 
- Các lợi ích thu được từ sử dụng gián tiếp nguồn nước. 
- Các đóng góp của nước cho với thành quả xã hội. 
- Giá trị nội tại của nước bao gồm những giá trị không được sử dụng của nước như 
giá trị còn lại hoặc hiện hữu của nước. 
Cũng theo Peter Rogers (6), giá trị đầy đủ của việc cấp nước, diễn đạt theo cách 
khác, bao gồm giá trị kinh tế đầy đủ và các giá trị của nước cho môi trường như duy trì hệ 
sinh thái và sức khoẻ cộng đồng. Giá trị kinh tế đầy đủ của nước bao gồm giá cung cấp 
nước tính đủ cho việc quản lý nguồn, chi phí vận hành và duy tu bảo dưỡng, giá đầu tư cơ 
bản, chi phí cơ hội và các yếu tố kinh tế ngoại lai nảy sinh do sự thay đổi các hoạt động 
kinh tế của những ngành bị ảnh hưởng gián tiếp như hình 2. 
 4
Hình 2. Nguyên tắc chung để tính giá trị của nước (6) 
Như vậy từ phân tích các khái niệm, cơ sở tính toán bên trên đã trình bày và dựa vào 
các học thuyết kinh tế tác giả dề xuất một cơ sở khoa học cho việc tính toán giá trị kinh tế 
nước. Cụ thể giá trị của nước là ích lợi gộp của người sử dụng thu được từ việc sử dụng 
nước trừ đi chi phí cấp nước và cộng với các tác động khác. Như vậy giá trị của người sử 
dụng thì tương ứng với thặng dư tiêu dùng. Khi đánh giá về việc sử dụng nước, điều quan 
trọng là phải xem xét các giá trị tư nhân và giá trị xã hội. Trên cơ sở đó tác giả bước đầu 
ứng dụng cơ sở khoa học này vào tính toán giá trị kinh tế nước cho hệ thống Thuỷ nông 
Núi Cốc. 
III. ứng dụng vào bước đầu tính toán giá trị kinh té nước tại hệ 
thống thuỷ nông núi cốc 
Hồ Núi Cốc thuộc lưu vực Sông Công, là vùng có nhiều rừng dốc núi cao bao bọc. 
Hữu Ngạn là dãy núi Hồng Tam Đảo chạy dọc theo lưu vực từ Tây Bắc sang Đông Nam, 
Tả Ngạn có dãy núi là Tam Dênh, núi Fao chạy từ nguồn đến tuyến Núi Cốc. Đường phân 
lưu giáp với lưu vực Sông Cầu cao từ 150m200 m 
Toàn bộ khu tưới có 32 xã trong đó : 6 xã thuộc huyện Phú Bình, 13 xã thuộc huyện 
Phổ Yên, 6 xã thuộc thị xã Sông Công, 7 xã thuộc thành phố Thái Nguyên. 
Yếu tố môi trường ngoại lai 
Yếu tố kinh tế ngoại lai 
Chi phí cơ hội 
Giá đầu tư 
cơ bản 
Chi phí quản lý 
vận hành 
Giá cung cấp 
nước tính đầy 
đủ 
Giá trị 
kinh tế 
Giá trị 
đầy đủ 
 5
Theo quyết định 324TTg ngày 16/11/1971 của thủ tướng chính phủ phê duyệt hồ 
chứa nước Núi Cốc có nhiệm vụ sau: (i) Cung cấp nước tưới cho 12000 ha gồm 3 huyện 
Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình. (ii) Cung cấp nước cho công nghiệp Bắc Thái. Trong đó: 
Gang Thép Thái Nguyên Q1= 6 m
3/s, Cán Thép Gia Sàng Q2= 0,7 m
3/s, Cơ Khí Gò Đầm 
Q3= 0,4 m
3/s. (iii) Cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên. (iv) Bổ sung 
lượng nước cho hệ thống Thác Huống 3 tháng mùa kiệt với Q= (6 8 ) m3/s. (v) Hỗ trợ 
giảm lũ cho sông Công và sông Thái Bình. (vi) Kết hợp nuôi cá trong hồ và du lịch. 
Trên toàn tuyến cung cấp nước hệ tự chảy, tại đầu nguồn cao nhất thấp dần về hạ du. 
Toàn hệ thống công trình có địa hình không quá cao rất thuận lợi cho việc cung cấp và 
tiêu thoát nước. Trên toàn tuyến kênh Chính, kênh Đông, kênh Tây đã được cứng hoá, 
kênh giữa đang có dự án cứng hoá. Theo quy hoạch chung của tỉnh đến năm 2010 trên 
toàn hệ thống kênh và kênh cấp 1 phải được cứng hoá hoàn toàn. Hiện tại các cống đều 
được đóng mở bằng tay kể cả cống đầu mối song chưa có quy trình hay chế độ phân chia 
nước đầu cống. Chế độ tưới luân phiên phân chia theo ngày. Toàn hệ thống chỉ có cống 
đầu mối là thực hiện phân chia nước. 
Khu vực nông nghiệp được hưởng lợi từ hệ thống thuỷ nông Núi Cốc do 4 kênh 
phụ trách : kênh chính, kênh đông, kênh tây, kênh giữa. Tương ứng với 4 kênh này là: 
Khu tưới kênh chính, khu tưới kênh đông, khu tưới kênh giữa và khu tưới kênh tây. 
Theo số liệu thu thập được thì diện tích gieo trồng của các khu tưới được thể hiện như 
sau: 
Bảng 1. Diện tích gieo trồng các khu tưới 
Khu tưới Vụ mùa (ha) Vụ chiêm (ha) 
Kênh chính 
Kênh Tây 
Kênh Giữa 
Kênh Đông 
1180 
1800 
2100 
1650 
845.4 
1237 
1406.6 
1049 
 6730 4538 
Qua quá trình tính toán trên cơ sở khoa học của việc xác định gía trị kinh tế của nước, giá 
trị kinh tế của nước đối với hệ thống thuỷ nông Núi Cốc được xác định theo bảng sau : 
 6
Bảng 2. ước tính giá trị kinh tế nước của hệ thống thuỷ nông Núi cốc 
(Vụ mùa) 
Kênh Lượng 
nước cấp 
(106m3) 
Năng 
suất 
(tấn/ha) 
Giá bán 
bình quân 
(USD/tấn) 
Chi phí 
nông 
nghiệp 
(USD/ha) 
Chi phí 
dịch vụ 
thuỷ lợi 
(USD/m3) 
Giá trị kinh tế 
thực nước tưới 
(USD/m3) 
Kênh 
chính 7,662 
4,05 120 368,14 0,0025 0,016 
Kênh 
Tây 11,685 
4,86 120 369,72 0,0038 0,029 
Kênh 
Giữa 13,633 
4,86 120 374,30 0,0044 0,030 
Kênh 
Đông 10,713 
4,59 120 375,88 0,0035 0,032 
Bảng 3. ước tính giá trị kinh tế nước của hệ thống thuỷ nông Núi cốc 
(Vụ chiêm) 
Kênh Lượng 
nước cấp 
(106m3) 
Năng 
suất 
(tấn/ha) 
Giá bán 
bình quân 
(USD/tấn) 
Chi phí 
nông 
nghiệp 
(USD/ha) 
Chi phí 
dịch vụ 
thuỷ lợi 
(USD/m3) 
Giá trị kinh tế 
thực nước tưới 
(USD/m3) 
Kênh 
chính 6,631 3,24 139 389.552 0.0020 0.013 
Kênh 
Tây 9,704 3,78 139 391.135 0.0030 0.019 
Kênh 
Giữa 10,974 4,32 139 395.710 0.0034 0.022 
Kênh 
Đông 8,228 4,05 139 392.718 0.0025 0.024 
Từ kết quả tính toán này ta thấy giá trị kinh tế nước ở vụ và các kênh sử tưới khác 
nhau. Giá trị kinh tế nước ở vụ chiêm là nhỏ. Theo cơ sở khoa học về việc ác định giá trị 
kinh tế nước nếu lượng nước cung cấp cho nông nghiệp thì ngành sản xuất nông nghiệp 
được hưởng lợi nhiều. Cho nên tuỳ từng trường hợp cụ thể mà giá trị của nước được xác 
định theo từng trường hợp khác nhau. 
 7
IV. Kết luận 
 Hiện nay chưa có cơ sở khoa học cho việc tính toán giá trị kinh tế của nước biết 
rằng đây là vấn đề khó mang nhiều ý nghĩa trìu tượng nhưng tác giả vẫn cố gắng tìm kiếm 
và bước đầu áp dụng tính toán cho hệ thống thủy nông Núi Cốc. Việc tính toán giá trị đầy 
đủ của nước sẽ làm cơ sở cho giải pháp kinh tế tài chính để giải quyết các mâu thuẫn nảy 
sinh trong sử dụng nước. 
 8
Tài liệu tham khảo 
1. Heathcote, Isobel W. Integrated Watershed Management : Principles and practice, United States of America. 
2. Guna Nidhi Puadyal. Mike Basin - Basic concepts, Training course on modelling techniques in Water Resources 
Management, Thailand August 2001. 
3. Trịnh Thị Thanh Bình. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước bằng cơ chế và chính sách - Luận Văn thạc sĩ kỹ thuật, 
Hà Nội-2002. 
4. Vũ Trọng Hồng- Chính sách tài chính và một số vấn đề về tổ chức quản lý tài nguyên nước trong thập kỷ tới. 
5. Ngô Đình Tuấn. Nghiên cứu cân bằng nước phục vụ phát triển dân sinh kinh tế vùng ven biển miền Trung. Há nội 
1994. 
6.Peter Rogers, Ramesh Bhatia, Annette Huber. Water as a Social and Economic good : How to Phut the Principle 
into Practice. Stockholm, Sweden. 
7. Stephen Merrett, Introduction to the Economics of Water Resources, London Univéity, 1997 
Abstract 
At present water resources is very important natural resources, which contribute mainly for political stability 
and sustainable development. Water resources development is interested in International community and each 
country. However water resources is degraded to threaten for human use. Therefore it requires a new awareness of 
water resources, which has economical value. From that point of view the author presents scientific foundation for 
estimation of economical value of water resources. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phuong_phap_luan_tinh_toan_gia_tri_kinh_te_nuoc.pdf phuong_phap_luan_tinh_toan_gia_tri_kinh_te_nuoc.pdf