LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN . 3
I-/ KHÁI NIỆM VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 3
1.1-/ Khái niệm về thị trường chứng khoán. 3
1.2-/ Chức năng của thị trường chứng khoán 4
II-/ CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 6
2.1-/ Khái niệm về chứng khoán 6
2.2-/ Đặc trưng của chứng khoán. 7
2.3-/ Phân loại chứng khoán. 8
III-/ CƠ CẤU, MỤC TIÊU VÀ CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA
TTCK. 11
3.1-/ Cơ cấu của TTCK. 11
3.2-/ Mục tiêu của TTCK. 12
3.3-/ Các nguyên tắc hoạt động của TTCK. 14
IV-/ CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THAM GIA VÀO TTCK. 16
4.1-/ Nhà phát hành. 16
4.2-/ Nhà đầu tư. 16
4.3-/ Các tổ chức kinh doanh trên TTCK. 17
4.4-/ Các tổ chức có liên quan đến TTCK. 19
CHƯƠNG II - QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CHO VIỆC HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT
NAM. 21
I-/ SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG TTCK HOÀN CHỈNH Ở VIỆT NAM. 21
1-/ Vấn đề tạo lập vốn trong nền kinh tế. 21
2-/ TTCK- một hình thức kinh tế hiện đại. 23
II-/ NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐẠT ĐƯỢC TRONG NỖ
LỰC NHẰM XÂY DỰNG, DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM. 26
2.1-/ Thuận lợi. 26
2.2-/ Những kết quả bước đầu đạt được trong tiến trình chuẩn bị cho sự ra đời
của TTCK Việt Nam. 31
III-/ NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CHO
SỰ RA ĐỜI CỦA TTCK Ở VIỆT NAM. 34
3.1-/ Hàng hoá. 34
3.2-/ Hệ thống pháp luật. 37
3.3-/ Hệ thống kiểm toán và kế toán thống kê. 37
3.4-/ Con người. 38
CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP CHO VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 40
I-/ TẠO “HÀNG HOÁ” CHO TTCK 40
II-/ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG LUẬT PHÁP. CÓ BIỆN PHÁP XỬ LÝ KIÊN QUYẾT ĐỐI VỚI NHỮNG TRƯỜNG HỢP LÀM TRÁI LUẬT PHÁP 44
III-/ CƠ SỞ VẬT CHẤT. 46
IV-/ YẾU TỐ CON NGƯỜI. 47
V-/ CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH. 48
KẾT LUẬN. 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
52 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình chuẩn bị cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trực thuộc Chính phủ như ở Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và giao dịch.
4.4.2- Sở giao dịch chứng khoán.
Sở giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch có tổ chức để giao dịch các chứng khoán được niêm yết. Sở giao dịch thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên thị trường sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán ở sở, phù hợp với các quy định luật pháp về chứng khoán và giao dịch chứng khoán.
4.4.3- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự điều hành.
4.4.4- Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán.
Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
4.4.5- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán.
Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các giao dịch chứng khoán. Công ty này cung cấp hệ thống máy tính với các chương trình để thông qua đó có thể thực hiện được các lệnh giao dịch một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán ra đời khi TTCK đã phát triển đến một trình độ nhất định, bắt đầu đi vào tự động hoá các giao dịch.
4.4.6- Các tổ chức ty tài trợ chứng khoán.
Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của TTCK thông qua các hoạt động cho vay bảo lãnh, cho vay để mua cổ phiếu, cho vay chứng khoán cho các giao dịch chênh lệch (giao dịch margin)... Các tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không có loại hình tổ chức này.
4.4.7- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Là công ty chuyên thực hiện công việc đánh giá về tình hình và triển vọng hoạt động của các doanh nghiệp dưới dạng các hệ số tín nhiệm. Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.
Chương II
Quá trình chuẩn bị cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
I-/ Sự cần thiết phải xây dựng TTCK hoàn chỉnh ở Việt Nam.
1-/ Vấn đề tạo lập vốn trong nền kinh té.
Sẽ không có nền kinh tế tăng trưởng cao, thất nghiệp ở mức thấp nếu nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp không được đáp ứng một cách đầy đủ. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một thực trạng “éo le”- các doanh nghiệp “đói vốn” trầm trọng, không có vốn cho những dự án có quy mô lớn, không có vốn để mở rộng sản xuất, ngược lại Ngân hàng lại dùng vốn không cho vay được để mua trái phiếu của Chính phủ, tiền tiết kiệm còn tồn rất nhiều trong dân cư.v.v...
Sở dĩ có những mâu thuẫn như vậy là do:
Thứ nhất là tăng đáp ứng về vốn của các công cụ tài chính tiền tệ hiện có bị hạn chế.
Thứ hai là thủ tục cho vay vốn của các Ngân hàng đối với các doanh nghiệp còn rườm rà gây nhiều trở ngại cho người đi vay. Đơn cử một ví dụ: doanh nghiệp chưa có cơ sở sản xuất riêng phải đi thuê địa điểm, khi muốn vay vốn của Ngân hàng thì Ngân hàng lại yêu cầu phải có tài sản thế chấp, như vậy vô hình chung đã đẩy doanh nghiệp đến chỗ “tiến thoái lưỡng nan”, không vay thì không có vốn để sản xuất, vay thì không có gì để thế chấp để yêu cầu Ngân hàng cung cấp vốn.
Thứ ba là tâm lý thích giữ tiền mặt, lãi suất của Ngân hàng không hấp dẫn để người dân gửi tiền đã khiến cho việc huy động vốn trong dân gặp nhiều trở ngại, khó khăn.
Thứ tư quan trọng hơn và cũng là vấn đề then chốt đó là: nguồn vốn mà doanh nghiệp cần để sản xuất, để đầu tư cho các dự án .v.v... thường là nguồn vốn trung và dài hạn, trong khi đó vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động phần lớn là nguồn vốn ngắn hạn, vì vậy việc đầu tư dài hạn cho các doanh nghiệp bị hạn chế, thường thì Ngân hàng thương mại chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Để giải quyết tình trạng “đói vốn” của mình, các doanh nghiệp cũng đã áp dụng rất nhiều hình thức huy động vốn khác ngoài việc vay ở các Ngân hàng thương mại như: phát hành trái phiếu công ty hoặc phân chia quyền sở hữu doanh nghiệp bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
Từ năm 1990, cùng với sự ra đời của luật công ty là sự xuất hiện một số loại trái phiếu với số lượng không lớn mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, còn trái phiếu của ngân hàng và các công ty cổ phần cũng có khiêm tốn về số lượng. Sự việc xảy ra tương tự đối với các doanh nghiệp nhà nước, chỉ tính riêng hai doanh nghiệp ngành xi măng số trái phiếu phát hành mới ở mức 330 tỷ- một con số khiêm tốn so với nhu cầu hàng nghìn tỷ của doanh nghiệp. Theo thống kê mới nhất, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ chiếm 5%GDP của cả nước. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị đặt trước tình trạng làm thế nào để có vốn, để mở rộng sản xuất một cách có hiệu quả?
Câu hỏi dường như có giải đáp khi ta xem xét việc tạo vốn từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tuy nhiên không hẳn là như vậy, bởi vì chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá một cách cưỡng ép, không tạo được động cơ khuyến khích DNNN cổ phần hoá cũng như thiếu kiên quyết với một số doanh nghiệp, dẫn đến rất ít DNNN được cổ phần hoá, các loại trái phiếu phát hành cho đến nay ở Việt Nam có tổng giá trị chiếm khoảng 1%GDP, tập trung vào 10 công ty cổ phần và 10 DNNN đã cổ phần hoá.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đã đến lúc cần phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh, hoạt động một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chức năng làm cầu nối, chuyển vốn từ những người có nhu cầu cho vay sang những người có nhu cầu vay. Có như vậy các doanh nghiệp sản xuất mới thoát khỏi sự lệ thuộc về vốn vào hệ thống Ngân hàng thương mại- hoạt động còn yếu kém, thủ tục hành chính còn rườm rà, khơi được nguồn tiền tiết kiệm còn tiềm tàng với quy mô lớn trong dân, làm cho các doanh nghiệp linh động hơn về vốn, dân cư có khả năng quyết định việc cho vay hay đầu tư của mình để thu được nhiều lợi nhuận nhất- đây chính là yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, làm cho các hoạt động của nền kinh tế trở nên sôi động, kích thích các nhân tố trong nền kinh tế tham gia một cách tích cực.
2-/ TTCK- một hình thức kinh tế hiện đại.
Hiện nay, hầu hết nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đều vận hành theo cơ chế thị trường- trong lịch sử phát triển, kinh tế thị trường đã chứng tỏ tính ưu việt hơn của nó so với kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Ưu việt rõ hơn ở chỗ nào, mỗi chúng ta đều đã thấy rõ. TTCK ra đời trong nền kinh tế thị trường, chỉ có trong nền kinh tế thị trường hình thức TTCK mới xuất hiện và đương nhiên TTCK được coi là hình thức hiện đại.
Tính hiện đại ở đây còn được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, giống Ngân hàng, nó huy động vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn đó cho người có nhu cầu vốn số lượng lớn, nhưng ưu việt hơn Ngân hàng ở chỗ đây là kênh chuyển vốn trực tiếp, nghĩa là vốn được đưa trực tiếp từ nhà đầu tư tới nơi có nhu cầu vay vốn mà không phải thông qua một hình thức tài chính trung gian nào cả. Như vậy có nghĩa là: người đầu tư biết chắc tiền của mình giao cho ai, có nên đầu tư vào hay không, đầu tư vào bao nhiêu và được hưởng lãi bao nhiêu. Người vay vốn thì biết đối tượng mình định vay là ai, có thể vay thêm hoặc không muốn vay thì chỉ cần phát hành thêm chứng khoán hoặc mua lại chứng khoán mà không phải qua Ngân hàng với thủ tục rườm rà, phải có vật cầm cố hoặc thế chấp.
Thứ hai, cho đến nay, các TTCK đều được điện tử hoá, còn rất ít hình thức giao dịch thủ công, như vậy máy móc thiết bị để trang bị cho TTCK đều rất hiện đại để thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác.
Thứ ba, con người tham gia vào TTCK đều là những phần tử nhanh nhạy, hiểu biết, có kiến thức sâu rộng, quyết đoán nhanh, tác phong công nghiệp- đây là những đức tính yêu cầu nhân loại hiện đại cần phải có nếu không muốn tụt hậu lại phía sau sự phát triển của lịch sử.
Thứ tư, trên TTCK, “hàng hoá” để mua bán không phải là hàng hoá thông thường có giá trị và giá trị sử dụng mà là loại “hàng hoá” đặc biệt chỉ có giá trị mà không có giá trị sử dụng. Những loại “hàng hoá” đó là những giấy tờ xác định một khoản tiền mà người sở hữu nó sẽ được trong tương lai- chúng cũng được coi là phương tiện để thanh toán. Như vậy trên TTCK người ta mua bán phương tiện để thanh toán có giá cả và cũng có cả sự “thuận mua vừa bán”, không có độc quyền- một hình thức thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rõ tính thời đại của TTCK nó sẽ trở thành công cụ đắc lực giúp quốc gia nào biết sử dụng nó hợp lý để phát triển kinh tế. Tất nhiên như vậy không có nghĩa là chỉ có những quốc gia biết sử dụng mới nên có TTCK bởi tất cả các quốc gia muốn có một nền kinh tế hiện đại, ổn định, tăng trưởng, phát triển bền vững đều cần phải có TTCK- với tư cách là một hình thức kinh tế hiện đại và phải biết cách để có một TTCK hoạt động hữu hiệu.
Bước ra từ hàng nghìn cuộc chiến tranh giành độc lập đầy máu và nước mắt, đất nước Việt Nam như là một cơ thể ốm yếu đầy thương tích, nghèo đói với một nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp phát triển què quặt. Trong khi đó thế giới đã chứng kiến những thành tựu rực rỡ về khoa học kỹ thuật và có những tiến bộ vượt bậc về kinh tế, chủ nghĩa tư bản với những cái vòi bạch tuộc của nó vươn ra chiếm lĩnh thị trường mọi ngóc nghách trên thế giới làm cho nền kinh tế toàn cầu trở nên sôi động, xuất hiẹn sự gắn kết giữa những nền kinh tế quốc gia nhỏ để tạo nên nền kinh tế quốc tế với những hình thức kinh tế tiên tiến hiện đại. Với xu hướng như vậy, nền kinh tế Việt Nam- một bộ phận của nền kinh tế thế giới phải thay đổi, phải nỗ lực khắc phục khó khăn do chiến tranh để lại, áp dụng những cái sẵn có để phát triển, để bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại.
Chúng ta đã phát triển sau các nước tư bản, mà lại gặp nhiều khó khăn, chính vì vậy chúng ta cần rút ngắn thời gian phát triển kinh tế bằng cách tạo ra các điều kiện cho phép vận dụng sớm những hình thức kinh tế hiện đại, có như vậy khả năng bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế thế giới mới có cơ hội xảy ra. Đây không phải là nhận định máy móc, lý thuyết, mà nó đã được chứng minh bằng thực tiễn hơn 10 năm đổi mới tính từ năm 1986, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường vào nền kinh tế, sử dụng ngay từ đầu các công cụ tài chính tiền tệ như là đòn bẩy và xung lực chủ yếu để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng khắc phục được siêu lạm phát, nền kinh tế có sự tăng trưởng đáng kể cao nhất là 9-10%. Chúng ta đã thoát khỏi những năm kinh tế kế hoạch hoá, có một nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, như vậy việc xây dựng và phát triển TTCK là một tất yếu phù hợp với xu thế thời đại để chúng ta có những điều kiện thuận lợi hơn, rút ngắn khoảng cách giữa tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới.
Kết luận: Việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam trở thành một nhiệm vụ cấp bách và có tầm quan trọng lớn lao và đã được cụ thể hoá trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Đảng Cộng Sản Việt Nam: “Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng TTCK phù hợp với điều kiện Việt Nam và định hướng phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”. Như vậy, việc chuẩn bị những điều kiện cần và đủ để sớm cho ra đời TTCK là vấn đề có tầm chiến lược trong công cuộc cải cách kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II-/ Những thuận lợi và kết quả bước đầu đạt được trong nỗ lực nhằm xây dựng, duy trì và phát triển TTCK ở Việt Nam.
2.1-/ Thuận lợi.
2.1.1- Kinh tế.
TTCK là con đẻ của nền kinh tế hàng hoá mà ở mức độ cao là nền kinh tế thị trường, nó ra đời nhằm giải quyết mâu thuẫn về vốn trong nền kinh tế, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn mở rộng sản xuất hàng hoá của các doanh nghiệp. Như vậy không thể tồn tại một TTCK trong nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung- mà ở đó quy mô sản xuất được ấn định một cách chủ quan, các quy luật kinh tế bị triệt tiêu, sản xuất không vì mục đích lợi nhuận. Từ đây, ta có thể thấy rõ thuận lợi đầu tiên của Việt Nam khi xây dựng TTCK là chúng ta đang có một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường- mặc dù có ý kiến cho rằng đây là một điều đương nhiên thôi, không nên coi đó là thuận lợi, nhưng phải khẳng định rằng không có nó thì không có tất cả những thuận lợi kế tiếp.
Hiến pháp 1992 xác định chế độ kinh tế của Nhà nước Việt Nam “ Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân”. Từ chiến lược này- bắt đầu từ năm 1986- nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới, từ chỗ sản xuất không đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu trong nước,Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 8-9% trong nhiều năm vừa qua, đã có thời gian Việt Nam được xếp vào một trong số những quốc gia đứng đầu khu vực Đông Nam á về tăng trưởng kinh tế. Yếu tố tăng trưởng kinh tế cao và liên tục đã kích thích sự tăng lên về nhu cầu vốn đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn.
Bên cạnh đó, cùng với những chính sách hợp lý, chúng ta đã đẩy lùi được lạm phát, đưa lạm phát từ mức ba con số xuống một con số, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ.
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Tỷ lệ lạm phát
14,4%
17,5%
5,2%
14,4%
12,7%
4,5%
Những tháng đầu năm 1997 tỷ lệ lạm phát là 1,4% được dự đoán là 2% cho cả năm. Việc giữ lạm phát ở mức cho phép làm giá trị đồng tiền nội tệ, tỷ giá hối đoái được ổn định, cán cân thanh toán được kiểm soát chặt chẽ. Đây là những yếu tố làm yên lòng các nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào những mục đích sinh lời khác nhau trong đó có các chứng khoán mua bán trên thị trường. Không những thế, cộng thêm yếu tố về chính trị, kinh tế, một nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được thăm dò khai thác, chúng ta sẽ khuyến khích được đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và tiến tới khai thác theo hướng đầu tư gián tiếp qua TTCK (FPI- Foreign Portfolio Investment) từ đó sẽ thúc đẩy việc mở rộng TTCK Việt Nam trong tương lai thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, nói như trên không có nghĩa là ngay lập tức nay mai chúng ta đã có thể có một TTCK như mong muốn, không phải thấy cần là sẽ có, mà việc có xây dựng được TTCK hay không phụ thuộc vào việc sản xuất có đủ chủng loại và chất lượng “hàng hoá” để mua bán trên thị trường này hay không. Câu trả lời phụ thuộc vào các định chế tài chính quốc gia, đó là: các doanh nghiệp quốc doanh, thuộc khu vực kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh và công ty cổ phần thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ, thương mại, dịch vụ, tài chính tín dụng và Ngân hàng.Dựa trên chính sách phát triển kinh tế trong những năm gần đây, các định chế tài chính này đã được hình thành và phát triển thuận lợi cho hoạt động của TTCK. Đây là những chủ thể kinh tế tạo ra chứng khoán- hàng hoá của TTCK, họ quyết định số lượng và chất lượng của những hàng hoá đó dựa trên nhu cầu về vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ.
Chủ thể kinh tế đầu tiên được đề cập đến là công ty cổ phần- động lực chính thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế- xã hội- họ dùng công cụ cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường. Cổ phiếu được coi là thứ “hàng hoá đặc sản” của TTCK do có đặc điểm là lợi tức và rủi ro rất lớn, cổ phiếu làm TTCK trở nên sôi động. Không có công ty cổ phần, không có cổ phiếu TTCK mất hẳn tính hấp dẫn- do sự sôi động do mua bán cổ phiếu tạo nên. Từ năm 1992, nhà nước đã có chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, điều này đã tạo ra khả năng huy động vốn còn tồn đọng trong nền kinh tế, vừa hình thành nên nền tảng cho sự ra đời của TTCK đó là sự xuất hiện của các cổ phiếu và việc mua bán nó giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu, công ty cổ phần cùng với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân đã tiến hành phát hành trái phiếu- loại hàng hoá cũng có tầm quan trọng và được mua bán rộng rãi trên TTCK. Cho đến nay, chúng ta đã và đang có một TTCK sơ khai với các loại hàng hoá như: công trái chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu và cổ phiếu công ty. Những chứng khoán này chủ yếu được mua bán trên thị trường cấp 1 hay thị trường sơ cấp, tức là chúng được mua bán, tiêu thu lần đầu tiên sau khi phát hành giữa người phát hành và nhà đầu tư. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không có thị trường thứ cấp, có nhưng nó chưa đi vào hoạt động một cách chính thức công khai, đơn cử một ví dụ: trong đợt phát hành công trái thời hạn 5 năm vừa qua của Chính phủ đã xuất hiện những tổ chức hoặc cá nhân thu mua công trái trong dân và bán cho ngân hàng với mệnh giá thấp hơn - đây chính là những biểu hiện manh nha của việc xuất hiện thị trường cấp hai (thứ cấp ) ở Việt Nam.
Chủ thể kinh tế có vai trò không kém phần quan trọng so với công ty cổ phần là hệ thống ngân hàng. Như chúng ta đều biết, không có những ngân hàng- những trung gian tài chính- thị trường tài chính không có được lợi ích trọn vẹn. Lý do là: nếu không có ngân hàng- người thu gom những nguồn tiền tiết kiệm ít ỏi, và đáp ứng nhu cầu vay khiêm tốn, trong một thế giới chỉ có tài chính trực tiếp, những người đi vay và cho vay những khoản nhỏ đó không thể được thoả mãn do chi phí mà họ phải trả cho những dịch vụ đó là quá cao.
Trong quá trình cải cách ở Việt Nam, một loạt các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, tín dụng, cơ quan bảo hiểm và một số quỹ đã ra đời như: hệ thống ngân hàng cổ phần (có 52 ngân hàng cổ phần trong đó có 31 ngân hàng thành thị và 21 ngân hàng nông thôn) hợp tác xã tín dụng, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này trong quá trình phát triển phải cạnh tranh, kết quả là sự giảm sút về lãi suất cho vay dẫn đến kích thích việc vay tiền. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng là một yếu tố thuận lợi thúc đẩy sự ra đời của TTCK trên cơ sở một thị trường vốn phát triển.
2.1.2- Hệ thống pháp luật.
Để đảm bảo cho TTCK hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả, yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Sở dĩ như vậy là do không phải bất cứ một doanh nghiệp nào khi cần vốn đầu tư là có thể phát hành chứng khoán và dùng nó như một công cụ để huy động vốn. Muốn phát hành chứng khoán, doanh nghiệp phải hội đủ các điều kiện theo luật định phải được một cơ quan chuyên môn có thẩm quyền của nhà nước cho phép.
Trên TTCK, diễn ra sự mua bán chứng khoán giữa các chủ thể kinh tế có thể là cá nhân hoặc tổ chức và vì vậy đòi hỏi phải có luật dân sự và luật thương mại, ngoài ra các chủ thể kinh tế đó có thể là doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần.v.v...cũng là những người phát hành chứng khoán trên TTCK dẫn đến việc phải có luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty cổ phần...Xét về tính chất kinh tế, hành động mua bán chứng khoán trên TTCK là hành động đầu tư nên cần có luật đầu tư (đầu tư trong nước và ngoài nước).
Hiện nay chúng ta đã có nhiều bộ luật và chúng ngày càng được bổ sung hoàn thiện như luật dân sự, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật ngân sách, luật thương mại, luật giải thể doanh nghiệp và hàng loạt văn bản dưới luật như lệnh kế toán thống kê, pháp lệnh ngân hàng... Tát cả những bộ luật này sẽ tạo thành một môi trường pháp lý thông suốt, có tổ chức chặt chẽ đảm bảo duy trì cho hoạt động của TTCK, giúp nó thực hiện đúng chức năng và vai trò là cầu nối vốn trong nền kinh tế.
2.1.3- Hệ thống thông tin và yếu tố con người.
Với sự lớn mạnh của ngành bưu điện, hệ thống thông tin của chúng ta đang phát triển, điều này đảm bảo mặt thông tin cho việc xây dựng TTCK. TTCK cần có một hệ thống thông tin hiện đại truyền tải thông tin giữa những người mua, bán và môi giới chứng khoán. Điều này giúp cho giao dịch của thị trường trở nên thuận tiện, nhanh chóng, tránh những tổn hại về mặt thiểu thông tin gây ra như: không có thông tin kịp thời về khách hàng, về loại chứng khoán mới phát hành thậm chí lệnh mua, hoặc bán khi đến được với người môi giới thì giá chứng khoán đã lại thay đổi. Như vậy, vai trò của thông tin, hệ thống thông tin là vô cùng quan trọng trong TTCK.
Chúng ta chưa có một sở giao dịch chứng khoán chính thứcvà theo tuần tự thì chúng ta phải bắt đầu từ giao dịch thủ công, đến nửa thủ công và cuối cùng là điện tử hóa. Song với sự phát triển rất nhanh của hệ thống tin học của Việt Nam, chúng ta có thể thâm nhập ngay vào TTCK, đốt cháy giai đoạn bỏ qua giao dịch thủ công và tiến thẳng lên điện tử hoá.
Về yếu tố con người, đứng trên giác độ xem xét con người với tư cách là những người tham gia vào TTCK, chúng ta có thể khẳng định rằng với tính tiết kiệm, cần cù và ý chí muốn làm giàu, người Việt Nam sẽ có thể cân nhắc chịu rủi ro, mạo hiểm để đầu tư vào những chứng khoán có lợi nhuận. Ngược lại nhìn từ phương diện quản lý và vận hành, vì người Việt Nam thông minh, sáng tạo, chịu khó học hỏi nên chúng ta có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi, có khả năng hoạt động hữu hiệu trên lĩnh vực chứng khoán nếu có sự quan tâm đúng đắn, khuyến khích thích hợp và kế hoạch đào tạo cụ thể.
2.1.4- Một số yếu tố khác tạo sự thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam.
Có thể nói rằng chúng ta có lợi thế hơn so với các nước đi trước trong việc xây dựng và phát triển TTCK:
Thứ nhất, với những tiến bộ khao học- kỹ thuật sẵn có ở những nước có TTCK, trao đổi khoa học, công nghệ chúng ta có thể rút ngắn thời gian để sớm cho ra đời TTCK Việt Nam.
Thứ hai, là người đi sau chúng ta sẽ không va vấp phải những lỗi lầm mà những người đi trước mắc phải, có nhiều bài học quý báu trong xây dựng và phát triển TTCK, có sự giúp đỡ từ phía những nước có TTCK phát triển về mặt kỹ thuật, con người, công nghệ...
Thứ ba là, chính sách mở cửa của nền kinh tế, hội nhập với nền kinh tế thế giới để chúng ta có quan hệ nhằm tạo ra một TTCK phát triển lành mạnh, mang tính chất quốc tế.
Cuối cùng vàng sụt giá trong thời gian gần đây cũng là một thuận lợi cho phát triển của TTCK, bởi từ trước đến nay chúng ta vẫn duy trì tâm lý dùng vàng như một công cụ để cất trữ của cải do vàng có những ưu việt hơn tiền: không bị ảnh hưởng của lạm phát, lâu bền với thời gian.v.v... vàng sụt giá từ tháng 7 năm 1997 giảm 50 nghìn so với thời điểm đầu năm như một hồi chuông cảnh tỉnh, đánh vào tâm lý thích giữ vàng của người dân Việt Nam nó chứng tỏ rằng vàng không còn là công cụ cất trữ của cải hữu hiệu nữa, như vậy người dân sẽ chuyển sang cất trữ tiền hoặc giữ tiền bằng cách gửi ngân hàng hoặc mua chứng khoán.
2.2-/ Những kết quả bước đầu đạt được trong tiến trình chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK Việt Nam.
Với quyết tâm xây dựng một TTCK để giải quyết vấn đề về vốn trong nền kinh tế, thời gian vừa qua chúng ta đã tiến hành chuẩn bị cho sự ra đời trong tương lai của TTCK ở Việt Nam và kết quả đạt được như sau:
Về hàng hoá:
Trước đây, nhà nước ta đã phát hành công trái dài hạn từ 5-10 năm là những chứng khoán đầu tiên được đem ra bán. Nhưng do lãi suất thấp, thói quen không mua bán công trái, coi công trái như một thứ thuế và mua công trái như là thực hiện một nhiệm vụ bắt buộc đối với Nhà nước nên mức cầu không đáng kể.
Mới đây Nhà nước đã chuyển qua hình thức trái phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị, trái phiếu đường dây 500KV được đảm bảo bằng vàng. Các ngân hàng cúng phát hành trái phiếu với lãi suất cao hay đảm bảo bằng vàng. Việc làm này được nhân dân bắt đầu hưởng ứng. Vì vậy chúng ta đã có được kết quả đáng mừng như sau:
-Kho bạc nhà nước- người phát hành thường xuyên hơn 6000 tỷ đồng tín phiếu kho bạc, trong đó có khoảng 4000 tỷ đồng tín phiếu kỳ hạn hơn 1 năm. Một nửa số lượng tín phiếu do kho bạc trực tiếp bán, nửa còn lại được thực hiện qua nhiều hình thức đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước.
-Đã phát hành và bán trái phiếu công trình có kỳ hạn hơn 1 năm.
-Trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước chỉ mới có hai nhà máy xi măng Hoàng Thạch và Anh Sơn phát hành với hơn 36 tỷ đồng.
-Trái phiếu Ngân hàng cũng được phát hành có tính chất ngắn hạn (1-3 năm) với khoảng 10000 tỷ đồng tính đến năm 1997.
-Trái phiếu phát hành ra nước ngoài được thí điểm qua việc Công ty cơ điện lạnh Việt Nam phát hành hơn 5 triệu USD vào tháng 6/1996 lãi suất 4,5%, kỳ hạn 2 năm.
-Cổ phiếu được phát hành với tỷ lệ do công chúng nắm giữ là 20%, số còn lại do cán bộ công nhân viên và Nhà nước nắm giữ.
Về công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước:
Tính đến tháng 11 năm 1998, Việt Nam có 56 DNNN được cổ phần hoá, nâng con số công ty cổ phần lên tới 299 công ty và hiệu quả cổ phần hoá đang rõ dần, cụ thể: ở Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc sau một năm hoạt động, doanh số đạt 60 tỷ đồng (trước đó cả 6 năm mới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0091.doc