Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện

Duy trì cải tạo tổ chức theo hướng điều hành tập trung, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa bộ phận chức năng và bộ phận sản xuất. Thông tin nhanh, phân công giải quyết kịp thời các trở ngại. Riêng với việc quản lý vốn lưu động thì sự kết hợp cần chặt chẽ hơn giữa phòng kế toán với phòng vật tư và bộ phận kho, giữa phòng kế toán với phòng kinh doanh và trung tâm tiếp thị.

ỉ Không ngừng nâng cao ý thức tổ chức, phong cách làm việc.

ỉ Chú trọng tạo điều kiện cho các cán bộ nhân viên học tập thêm, nâng cao trình độ tay nghề. áp dụng biện pháp kiểm tra trình độ của người lao động.

ỉ Giảm tối đa các chi phí quản lý doanh nghiệp để tăng lợi nhuận.

ỉ Có chế độ thưởng phạt hợp lý nhằm khuyến khích người lao động phát huy Hết mức khả năng của mình cũng như có thêm trách nhiệm đối với công việc mình làm.

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h của Nhà máy Để phù hợp với xu thế hội nhập trong khu vực và trên thế giới, để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đầy biến động, năm 1998 Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 (1994). Việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO là một điều kiện tất yếu để hội nhập, bởi trong xu thế hội nhập hiện nay khi hàng rào thuế quan giữa các nước dần được xoá bỏ thì hàng rào phi thuế quan giữa các nước lại được dựng lên. Do vậy việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO sẽ giúp cho sản phẩm của Nhà máy có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. Năm 2000, Nhà máy đã chuyển sang áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000 . Cùng với việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 (2000 ), quy mô của Nhà máy không ngừng được mở rộng, do vậy công việc của Ban Giám đốc cũng nhiều lên. Trước năm 1999, Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và1 Phó giám đốc phụ trách về cả kinh doanh và kỹ thuật. Nhưng đến năm 1999 do tính chất của công việc đòi hỏi, Ban Giám đốc của Nhà máy gồm 1 Giám đốc và 2 Phó giám đốc: 1 Phó giám đốc phụ trách về kinh doanh và 1 Phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật. Nhờ có sự phân công trách nhiệm giữa các Phó giám đốc nên các công việc được giải quyết nhanh gọn hơn trước. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của nhà máy chủ yếu là tiêu thụ trong ngành, ngành Bưu chính viễn thông ở Việt nam là một ngành độc quyền của nhà nước. Do vậy chính sách xúc tiến bán hàng cũng có những đặc điểm riêng, xúc tiến bán hàng là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó tăng doanh số bán bằng những lợi ích vật chất bổ xung cho người mua. Xúc tiến bán hàng suất phát từ mục tiêu Marketing của nhà máy, dựa trên đặc điểm tiêu thụ sản phẩm các hoạt động quảng cáo của Nhà máy được tiến hành nhưng không rầm rộ, phương tiện chính là một số báo, các tạp chí chuyên ngành... Nhà máy lựa chọn phương tiện xúc tiến bán chủ yếu là hội nghị khách hàng và hội chợ, triển lãm thương mại và các cuộc viếng thăm, qua đó nhà máy giới thiệu sản phẩm của nhà máy với các khách hàng và công chúng. Sản phẩm của nhà máy được giới thiệu thông qua các hội thảo về sản phẩm tại nhà máy và các cuộc hội thảo ngành, mục đích là giới thiệu sản phẩm với các cơ quan hữu quan. Ngoài ra nhà máy còn sử dụng nhóm công cụ tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp thúc đẩy người tiêu dùng: gửi thư kèm cataloge tới những khách hàng quen cùng với thông điệp quảng cáo hoặc một số câu hỏi về sản phẩm mà Nhà máy cần biết. Phương thức hiệu quả được áp dụng đó là phiếu thưởng dành cho những khách hàng lớn chung thủy với nhà máy ngoài ra còn hình thức quà tặng và những chính sách làm tăng cường sự hợp tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các nhà phân phối như bán buôn bán lẻ, các đại lý... 2.4. Năng lực về tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh Những năm gần đây với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy đã từng bước phát triền về mọi mặt. Cùng với sự giúp đỡ của Tổng cục Bưu Điện ( nay là Bộ Bưu Chính -Viễn Thông ), các cơ quan ban nghành và sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà Nước, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã đạt được một số thành tựu, đóng góp một phần vào công cuộc CNH - HĐH đất nước. Từ năm 1994 đến nay là khoảng thời gian ngắn cho sự phát triển của một doanh nghiệp, Nhà máy đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất kinh doanh. Tình hình cụ thể được khái quát trong bảng sau. Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản về năng lực tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh mà nhà máy đạt được trong bốn năm qua ( 1999 -2002). Số liệu trong bài viết này đều được làm tròn và đơn vị sử dụng là Triệu đồng Bảng 1 : Năng lực tài chính và một số kết quả sản xuất kinh doanh chính Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 I.Chỉ tiêu cơ bản 1.Tài sản cố định 2.Tài sản lưu động 3.Vốn chủ sở hữu 4.Các khoản phải thu 5.Các khoản phải trả 6.Tổng doanh thu 7.Tổng lợi nhuận II.Các khoản nộp NSNN 1.Thuế GTGT 2.Thuế thu nhập DN 3.Thuế khác 34.090 101.570 37.250 57.735 98.530 145.956 9.377 35.476 27.092 1.983 6.401 20.060 97.208 41.064 39.753 77.205 49.714 8.847 28.892 20.153 3.053 5.686 35.459 105.518 46.235 50.553 94.742 153.395 9.647 21.536 9.773 3.537 8.226 42.659 113.318 52.735 57.654 103.242 200.948 11.616 36.481 25.368 3.861 7.652 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện) Kết quả kinh doanh trong bốn năm 1999 -2002 ổn định và tăng trưởng.Nhà máy đã bảo toàn và phát triển được nguồn vốn kinh doanh. Doanh thu của nhà máy có xu thế tăng trong các năm. Đây là một xu thế rất tốt bởi vì trong nền kinh tế của nước ta hiện nay có sự cạnh tranh rất gay gắt giữa các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử. Xu thế này thể hiện khả năng sử dụng các loại máy móc thiết bị, con người,...phù hợp với những biến động của thị trường trong nước và trên thế giới. Nguồn vốn chủ sở hữu của nhà máy cũng có xu hướng tăng đều qua các năm. Các khoản phải thu giảm trong năm 2000, nhưng có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và 2002. Các khoản phải trả cũng giảm trong năm 2000, nhưng cũng có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và 2002. Đây là một đặc điểm trong kinh doanh, các doanh nghiệp lợi dụng vốn của nhau để sản xuất kinh doanh. Xu thế của các khoản phải thu và các khoản phải trả giống nhau chứng tỏ nhà máy cũng rất quan tâm tới việc thanh toán cho nhà cung cấp, khách hàng và cán bộ công nhân viên. Hàng năm, nhà máy nộp ngân sách một khoản khá lớn trên dưới 30 tỷ đồng, thông qua các loại thuế. Năm 2000 và năm 2001 khoản nộp ngân sách giảm là do sự miễn giảm thuế của Chính phủ đối với một số loại thuế và cũng do số lượng linh kiện điện tử được nhập vào giảm đi. Lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm vào năm 2000 là do nhà máy bị thua lỗ quá lớn trong hoạt động đầu tư tài chính, nhưng lợi nhuận có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và năm 2002, điều đó thể hiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh, đồng thời thể hiện khả năng lãnh đạo của ban giám đốc cùng các trưởng phòng và sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ tập thể công nhân viên trong toàn nhà máy. Với phương thức sản xuất kinh doanh là chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã thu hút được nhiều khách hàng trong nước và ngoài nước. Là một trong nhiều cơ sở thuộc công nghiệp của ngành Bưu chính viễn thông, sản phẩm của Nhà máy được sản xuất theo yêu cầu của Bộ Bưu chính- Viễn thông phục vụ nhu cầu ngành (85%), ngoài ra Nhà máy còn đa dạng hoá sản phẩm phục vụ nhu cầu ngoài ngành (15%). Sản lượng các sản phẩm chủ yếu của Nhà máy trong năm 2002: Bảng 2: Sản lượng sản phẩm chủ yếu trong năm 2002 Sản phẩm Công suất Máy điện thoại các loại 400.000 sản phẩm / năm Thiết bị nguồn điện 600.000 sản phẩm / năm Thiết bị điện tử mạng ngoại vi 17.000.000 đường dây / năm Chi tiết cơ khí viễn thông 20.000 sản phẩm / năm Sản phẩm bưu chính 600.000 sản phẩm / năm ( Nguồn: Phòng kinh doanh - Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện) II. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện 1. Đặc điểm của nghành Ngành Bưu điện là ngành được Nhà nước ưu tiên phát triển với các chiến lược phát triển tăng tốc, đặt ra nhiều mục tiêu phấn đấu trong tương lai. Để xã hội ta trở thành một xã hội hoá thông tin trong thế kỷ tới, trước mắt là mục tiêu phát triển mạng thông tin rộng khắp đến tất cả các huyện, các xã vùng sâu vùng xa (100% số xã trên toàn quốc có máy điện thoại). Để thực hiện mục tiêu đó trong những năm qua Nhà nước đầu tư rất nhiều cho các doanh nghiệp trong ngành. Đây là thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp này. Các sản phẩm sử dụng trong lĩnh vực này đều do các doanh nghiệp trong ngành cung cấp. Với chiến lược phát triển tăng tốc của ngành Bưu điện thì thị trường cho các doanh nghiệp này sẽ được mở rộng. Cầu sẽ tăng, đặc biệt là cầu về máy điện thoại, cầu về tủ cáp, hộp đấu dây thuê bao, cabin đàm thoại v.v.. đây là cơ hội tốt cho nhà máy vì các sản phẩm trên đều do nhà máy sản xuất và cung cấp. Hơn nữa đây là một ngành độc quyền của Nhà nước, nên môi trường cạnh tranh không gay gắt, các đối thủ của nhà máy chỉ một số ít các doanh nghiệp trong và ngoài ngành đối với một số sản phẩm như các sản phẩm nhựa, máy điện thoại. Nhưng cũng chính điều này sẽ tạo ra sức ép cho nhà máy nếu Ban lãnh đạo không năng động trong kinh doanh, nắm bắt những biến đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Thị trường này sẽ trở nên sôi động và sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA, sự xâm nhập của các hãng nước ngoài là điều tất yếu. Để trụ vững trong hoàn cảnh đó đòi hỏi nhà máy ngay từ bây giờ không được ỷ lại vào thế độc quyền, luôn luôn phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm . 2. Đặc điểm về mặt hàng và thị trường Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện chuyên sản xuất và kinh doanh các thiết bị phục vụ cho ngành Bưu chính - Viễn thông, do đó hầu hết các sản phẩm sản xuất ra mang tính độc quyền trên thị trường ( tủ cáp, cabin đàm thoại...) ngoài ra cũng có một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng dân dụng nhưng chỉ chiếm 1 tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị sản lượng của Nhà máy.Đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng cũng như thị hiếu luôn thay đổi của khách hàng, nhà máy đã không ngừng tiến hành đa dạng hoá sản phẩm. Từ khi chính thức được thành lập đến nay, nhà máy đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng, chiều sâu, đổi mới trang thiết bị dây chuyền lắp ráp để tăng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, ngày càng đáp ứng cao hơn thị hiếu của khách hàng. Sản phẩm hiện nay của nhà máy rất phong phú và đa dạng (trên 400 mặt hàng), chia làm hai loại chính là sản phẩm chế tạo và sản phẩm lắp ráp, bao gồm các sản p hẩm như: máy điện thoại các loại, thiết bị bưu chính, tổng đài các loại, thiết bị đầu cuối, ống nhựa luồn cấp các loại, sản phẩm nhựa dân dụng, sản phẩm điện dân dụng, loa các loại, thiết bị bảo an (chống sét, chống chập điện), thiết bị nguồn (nguồn 48v, nguồn một chiều các loại), các sản phẩm cơ khí khác... Nhìn chung các sản phẩm trên có tính năng sử dụng tốt, hệ số an toàn cao, đã chiếm được niềm tin của khách hàng. đây chính là yếu tố tiên quyết tạo tiền đề phát triển cho nhà máy trong nền kinh tế thị trường. Thị trường tiêu thụ của Nhà máy rất lớn, hầu như khắp đất nước. Do có nhiều sản phẩm mang tính chất độc quyền nên thị phần của Nhà máy rất lớn, với các sản phẩm như Cabin đàm thoại, tủ đầu nối, cân điện tử, dấu nhật ấn ... của nhà máy chiếm tới 95% thị trường. Nhà máy đã thực hiện đầu tư thiết bị công nghệ mới để tăng năng suất lao động, tăng năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững và mở rộng thị trường. Ngoài hai thị trường truyền thống là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sản phẩm của nhà máy còn được tiêu dùng ở hầu hết các tỉnh , thành phố khác trong cả nước. 3. Đặc điểm về công nghệ và thiết bị công nghệ Trong các doanh nghiệp công nghiệp, công nghệ sản xuất là nhân tố ảnh hưởng lớn đến tổ chức quy trình sản xuất hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức quản lý, sản xuất nói riêng. Nhà máy Thiết bị bưu điện là nhà máy sản xuất và lắp ráp cơ khí, sản phẩm của nhà máy phong phú và đa dạng, được sản xuất theo một quy trình công nghệ phức tạp, chỉnh chu qua từng công đoạn. từ khi đưa nguyên vật liệu vào chế biến đến khi nhập kho là một quá trình liên tục, khép kín theo các dây chuyến công nghệ hiện đại với năng suất cao. Chu kỳ sản xuất sản phẩm khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại sản phẩm nhưng đều tuân theo những bước sau: Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ Sản xuất Vật tư Sản xuất Sản xuất Sản xuất Quy trình công nghệ đó được mô tả như sau: Vật liệu từ kho vật tư chuyển đến phân xưởng sản xuất, có nhiều phân xưởng như: Phân xưởng sản xuất ép nhựa, đúc, dập, chế tạo, sản xuất các sản phẩm cơ khí... sau đó đưa xuống các phân xưởng lắp ráp còn các sản phẩm đơn giản, được sản xuất hoản chỉnh thì chuyển thẳng xuống kho thành phẩm. Sau khi lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm từ các bán thành phẩm, các chi tiết thì nhập vào kho thành phẩm. Trong suốt quá trình sản xuất theo quy trình công nghệ trên, mọi công đoạn đều có đội kiểm tra chất lượng của nhà máy (KCS) loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng, hỏng, không đạt tiêu chuẩn. Do quy trình công nghệ là liên tục, khép kín nên nhà máy tiết kiệm được thời gian sản xuất và nguyên vật liệu nhưng cũng đòi hỏi phaỉ đảm bảo cho thiết bị công nghệ hoạt động được nhịp nhàng, liên tục. Nhằm thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc của ngành Bưu điện, Nhà nước đã danh nhiều vốn đầu tư vào các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là trong khối các doanh nghiệp công nghiệp của ngành. Bên cạnh đó là các chính sách ưu đãi trong nhập khẩu thiết bị, chuyển giao Công nghệ bằng nguồn vốn ngân sách cấp cộng với nguồn vốn huy động nhà máy đã nhập một số máy móc dây truyền từ nước ngoài ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 đó là dây truyền lắp ráp phím đầu nối, điện thoại của hãng SIEMEN (Đức) dây truyền sản xuất ống sóng dùng để chôn cáp ngầm của hãng DROSSBACK (Đức) các loại máy đột, dập, ép nhựa, nhờ đó bắt đầu từ năm 1994 thay bằng việc nhập khẩu sản phẩm, nhà máy đã nhập các linh kiện dưới dạng CKĐ về lắp ráp đối với một số loại sản phẩm như: máy điện thoại, tủ cáp đầu dây, các loại đồng hồ tính cước. Từ năm 1996 nhà máy đã có chủ trương chuyển từ lắp ráp linh kiện dạng CKĐ sang lắp ráp linh kiện IKĐ sản xuất vỏ sản phẩm và tiến tới tự sản xuất các sản phẩm thông qua nhập vật tư. Trong hai năm 1997 và năm 1998 nhà máy đã đầu tư hơn 26 tỉ đồng để trang bị các loại máy móc mới hiện đại và hoàn thiện các dây chuyền Công nghệ như các loại dây truyền sản xuất linh kiện, dây truyền ép nhựa với Công nghệ cao để sản xuất vỏ sản phẩm và một số linh kiện khác, dây chuyền sơn tĩnh điện, ngoài ra nhà máy còn thực hiện việc chuyển giao Công nghệ với các hãng điện tử nổi tiếng trên thế giới như AT&T (Mỹ) CASIO (Nhật Bản) SIEMEN (Đức) ERISSON (Thụy điển)... Hiện nay trình độ Công nghệ của nhà máy được đánh giá là tiên tiến so với mặt bằng Công nghệ chung của quốc gia, số lượng sản phẩm sản xuất ra đã đạt tới hơn 3500 sản phẩm, năm 1998 nhà máy đã cho ra đời những chiếc máy điện thoại sản xuất tại Việt nam, đó là các sản phẩm mang tên điện thoại Postef V701, VN 2020 và VN 2040. Điện thoại Postef được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến và có công xuất thiết kế lớn nhất tại Việt nam được điều khiển bằng kỹ thuật số. Theo công xuất thiết kế, dây chuyền có thể sản xuất 10.000máy/1 lao động/1năm, có nghĩa là nó có thể cung cấp đủ máy cho thị trường Việt nam. Hầu hết máy móc thiết bị trên dây chuyền sản xuất đều được đầu tư mới vào năm 1998 với tổng số vốn khoảng 17 tỉ đồng. Nhà máy thực hiện chế độ khấu hao nhanh, chỉ trong thời gian từ 4-5 năm, do vậy đến khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA nhà máy có thuận lợi cho việc hạ chi phí sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Năm 1999 nhà máy đã ngừng việc nhập khẩu điện thoại (trừ điện thoại di động) và tung ra thị trường các sản phẩm mới của nhà máy, hiện nay nhiều sản phẩm của nhà máy đã được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. - Đặc điểm về máy móc thiết bị: nhà máy có khoảng 170 chiếc máy khác nhau thuộc nhiều chủng loại như: máy đột, máy dập, máy khoan, máy ép... Trong đó, chủ yếu là các loại máy móc thiết bị được chế tạo tại Trung Quốc, Liên Xô (cũ) và Việt Nam chiếm tới 70% số lượng máy móc thiết bị của nhà máy. Số máy móc thiết bị còn lại được nhập từ các nước như : Hàn Quốc, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Bỉ...Những năm trở lại đây, nhà máy đã liên tục đầu tư đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, Các loại máy móc thiết bị sản xuất sau năm 1980 chiếm tới 90%. Tuy nhiên cũng có một số máy móc thiết bị công nghệ sản xuất ra từ năm 1960, số máy móc thiết bị này tuy vẫn vận hành được nhưng cũng đặt ra yêu cầu phải thay thế bằng thiết bị công nghệ hiện đại hơn. Tóm lại, trình độ Công nghệ và năng lực sản xuất của dây chuyền điện thoại là một thế mạnh của nhà máy, chúng sẽ đem lại nhiều lợi thế cạnh tranh trong việc hạ giá thành và tăng năng xuất lao động. 4. Đặc điểm về nguyên vật liệu Khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà máy phải chủ động tìm mua các loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trên thị trường trong nước và cả quốc tế. Các đối tác cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu cho nhà máy là: Đối tác trong nước: Tổng công ty kim khí, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty xăng dầu, công ty thiết bị văn phòng... Các nhà cung cấp nước ngoài gồm có rất nhiều các công ty của các nước như: Công ty Siemen (Đức), Công ty Motorola, Công ty At&T (Mỹ), Công ty Hyndai corporation, Alanchia, Koken (Hàn Quốc), Full Rise Electronic(Đài Loan)... Do tính đặc thù của sản phẩm,lại thẹc hiện đa dạng hoá sản phẩm nên chủng loại nguyên vật liệu của nhà máy rất lớn, khoảng từ 500 - 600 loại, chủ yếu là các loại kim khó, sắt thép bao gồm: + Kim khí đen : như tôn CT3, C45 dạng tấm dầy 1-5 mm, các loại thép phi tròn, thép dùng chế tạo khuôn mẫu dầy hàng trăm mm... + Kim khí màu: Đồng, chì, nhôm, kẽm, inox... + Các loại nhựa bao gồm: nhựa ABS, PP, PVC, PPMA, PA, PE, polycacbonat, PVC Compound... + Các loại linh kiện điện tử :linh kiện điện thoại ( điện trở, bảng mạch...), đồng hồ, nguồn... Do chủng loại nguyên vật liệu rất đa dạng và phong phú nên trong hoạt động đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nhà máy phải quan tâm đến sự tương thích giữa công nghệ sản xuất và nguyên vật liệu đưa vào, các nguồn cung cấp, giá thành nguyên vật liệu có được đảm bảo không... khi thực hiện đầu tư một thiết bị công nghệ hiện đại cũng như khi mất đi một nguồn cung cấp hay một loại nguyên liệu nào đó, nhà máy luôn luôn phải chú ý đến mối quan hệ này. 5. Đặc điểm về lao động Với những máy móc và dây truyền Công nghệ hiện đại đã được trang bị cho nhà máy thì yêu cầu tất yếu là đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý cao và lực lượng công nhân có tay nghề giỏi có trình độ kỹ thuật. Nhưng trong những năm đầu đổi mới nhà máy có lực lượng công nhân quá đông (1200 người), trình độ không đồng đều gây nên tình trạng thiếu lao động có trình độ kỹ thuật cao và thừa lao động giản đơn dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ kém hiệu quả. Trước tình trạng đó nhà máy đã chú trọng tới việc tuyển dụng lao động mới và bồi dưỡng lao động hiện có để có đội ngũ công nhân đủ trình độ làm việc với những máy móc và dây truyền hiện đại. Một thực tế là nhà máy thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho nên mỗi công nhân phải làm được nhiều công việc khác nhau cho nên tình trạng trình độ chuyên môn hoá không cao dẫn đến năng xuất lao động chỉ đạt ở mức trung bình. Ví dụ: Điện thoại Postef được sản xuất chủ yếu ở các phân xưởng 6 và phân xưởng 7 nhưng những công nhân ở đây sẵn sàng được điều đi các phân xưởng khác nếu sản xuất ít điện thoại. Ngược lại khi có nhiều đơn đặt hàng sản xuất điện thoại thì nhà máy có thể điều động nhân công từ các phân xưởng khác sang để tăng cường nhân lực. Chính sự linh hoạt trong điều hành lao động này cũng là ưu điểm của nhà máy, tránh được tình trạng nơi thừa nơi thiếu lao động. Nhưng đó cũng là nguyên nhân làm trình độ chuyên môn hoá không cao làm công tác điều độ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Việc làm thường xuyên của nhà máy là tổ chức các lớp học, đào tại nâng cao tay nghề của công nhân, tuyển thêm lao động có trình độ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu công việc để thay thế những người đã nghỉ. Đến nay số lượng cán bộ công nhân viên của nhà máy đứng ở khoảng 518 người với trình độ chuyên môn đổng đều 100% đã qua các lớp đào tạo kỹ thuật hoặc tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học. Trong công tác quản trị nhân lực, nhà máy rất chú trọng đến việc khen thưởng với những cá nhân và tập thể xuất sắc. Nhờ đó đã phát huy được sự hăng say và tính sáng tạo của mỗi người, đã có nhiều đề tài cấp ngành do cán bộ công nhân viên nhà máy xây dựng được công nhận. Số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy năm 2002 Đơn vị : Người Chức danh Số lượng Đại học Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Trung học Lãnh đạo 3 3 Trưởng, phó phòng 16 16 Quản đốc, phó quản đốc 12 8 3 1 Cán bộ, nhân viên 92 20 32 27 13 CNSX 395 54 52 152 77 60 Cộng 518 101 87 180 90 60 ( Nguồn: Phòngtổ chức- Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện) 6. Đặc điểm về tài chính Vốn cần cho sản xuất kinh doanh rất lớn, trong khi đó nhiều khách hàng thanh toán chậm dẫn tới nhà máy bị thiếu vốn, phải đi vay của các tổ chức tín dụng, việc đi vay của các tổ chức này làm tăng chi phí dẫn tới giá thành sản phẩm cao. Tỷ suất lợi nhuận của nhà máy khá cao ( trên dưới 6%), đây là tiền đề cho một số năm tới, và tỷ suất lợi nhuận cao nên tích luỹ và phúc lợi của doanh nghiệp cũng khá nhiều. Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử - viễn thông, do vậy nhu cầu về vốn là thường xuyên và tương đối lớn. Để tồn tại và phát triển trong quá trình nền kinh tế hội nhập, một mặt nhà máy kiện toàn bộ máy, mặt khác nhà máy tăng cường đổi mới trang thiết bị, công nghệ. Để đầu tư theo chiều sâu, mua sắm trang thiết bị công nghệ thì nhà máy cần một lượng vốn tương đối lớn, nhà máy đã huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ các nguồn sau: Từ nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước. Hàng năm nhà máy được ngân sách nhà nước cấp cho khoảng từ 4 - 8 tỷ đồng. Nhà máy còn vay của các tổ chức tín dụng là chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình, Ngân hàng ANZ, đây là hai tổ chức tín dụng đã cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nhà máy. Nguồn vốn từ tiết kiệm trong sản xuất, từ sáng tạo cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nguồn vốn này không nhỏ khi chính sách tiết kiệm được thực hiện có hiệu quả. Đây chính là nội lực của nhà máy, nó không những làm tăng nguồn vốn kinh doanh mà còn góp phần giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh của nhà máy trên thị trường. Ngoài ra, nhà máy còn vay của cán bộ công nhân viên trong nhà máy. Đây là nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên, góp phần không nhỏ trong thành công của nhà máy. A. Sử dụng vốn lưu động ở Nhà máy a. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của nhà máy Là một nhà máy kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông, nên nguồn vốn của nhà máy dùng để tài trợ cho tài sản lưu động hay còn gọi là vốn lưu động. Lượng vốn lưu động này chủ yếu ở dưới dạng hàng tồn kho và phải thu của khách hàng. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà máy, ta có bảng sau: Bảng 4: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Tổng doanh thu 2.Vốn lưu động bình quân 5.956 101.570 49.714 97.208 153.395 105.518 200.948 113.318 Hiệu quả sử dụng VLĐ = 1/2 1.44 1.54 1.45 1.77 Kết quả cho thấy năm 1999 và năm 2000 hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng nhưng năm 2001 kết quả bị giảm và sau đó tăng trở lại. Điều này cho thấy việc sử dụng vốn lưu động của nhà máy cũng tương đối ổn định. + Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 7% + Năm 2001 giảm so với năm 2000 là 6.2% + Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 22% Năm 2001 hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm là do tốc độ tăng của vốn lưu động tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu, làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm xuống. Nhưng đến năm 2002 nhà máy đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn lưu động này làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng 22% so với năm 2001. b.Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động Chỉ tiêu này cho ta biết 100 đồng vốn lưu động bỏ ra có được bao nhiêu đồng lợi nhuận Bảng 5: Tỷ suất lợi nhuận của Nhà máy Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Lợi nhuận sau thuế 2.Vốn lưu động 7.393 101.570 5.793 97.208 6.768 105.518 7.755 113.318 TSLN VLĐ = 1/2 (%) 7.2 5.9 6.4 6.8 Ta thấy tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động của nhà máy cũng khá cao, bị giảm mạnh vào năm 2000 nhưng sau đó tăng trở lại vào năm 2001 và năm 2002. Sở dĩ năm 2000 tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động giảm là do thuế thu nhập của nhà máy không được miễn giảm, mặc dù lợi nhuận trước thuế kém năm 1999 và năm 2001 không nhiều, nhưng thuế thu nhập doanh nghiệp cao nên lợi nhuận sau thuế bị giảm mạnh dẫn tới tỷ suất lợi nhạn vốn lưu động giảm. Năm 2001 và năm 2002 tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động của nhà máy liên tục tăng. Đây là kết quả của sự nỗ lực của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên nhà máy trong quá trình sản xuất kinh doanh đã tiết kiệm chi phí, là cơ sở để hạ giá thành, tăng doanh thu dẫn tới tăng lợi nhuận. c.Tốc độ luân chuyển vốn lưu động Ta có bảng số liệu trang bên. Từ bảng số liệu ta có: Số vòng quay của vốn lưu động năm 2002 đạt cao nhất 1.76 vòng và số ngày cần thiết cho một vòng quay là 207 ngày. Bảng 6: Tốc độ luân chuyển vốn lưu động Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Doanh thu thuần Vốn lưu động 143.708 101.570 148.621 97.208 152.082 105.518 199.387 113.318 Số vòng quay VLĐ 1.41 1.52 1.44 1.76 Số ngày luân chuyển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC955.doc
Tài liệu liên quan