MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa . i
Lời cam đoan .ii
Mục lục .iii
Danh mục các chữ viết tắt .vii
Danh mục các bảng .viii
Danh mục các sơ đồ, biểu đồ và kịch bản giải pháp . ix
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỜI KỲ CHUYỂN
ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM . 13
1.1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai, nông nghiệp, nông thôn . 13
1.1.1 Vị trí, vai trò của đất đai trong đời sống kinh tế – xã hội . 13
1.1.2 Vai trò của nông nghiệp, nông thôn . 15
1.2 Một số nội dung lý luận về sở hữu và sở hữu ruộng đất . 19
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở hữu và sở hữu ruộng đất . 19
1.2.2 Quan điểm tư sản về sở hữu ruộng đất và các mô hình về chế độ sở hữu
ruộng đất ở các nước TBCN . 27
1.2.3 Lý luận về sở hữu trong nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc . 31
1.3 Một số nội dung lý luận về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn . 33
- iv -
1.3.1 Khái niệm, nội dung quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp
và phát triển nông thôn. 33
1.3.2 Quan hệ tổ chức – quản lý đất đai nông nghiệp trong đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam . 38
1.4 Chính sách đất đai một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm
về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn . 46
1.4.1 Chính sách đất đai ở một số nước . 46
1.4.2 Những bài học kinh nghiệm về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai của các
nước đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn . 60
Tổng kết chương 1. 63
Chương 2 - THỰC TRẠNG QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỜI KỲ CHUYỂN
ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM . 65
2.1 Tổng quan về tình hình đất đai trong nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam . 65
2.2 Những thay đổi cơ bản của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam. 68
2.2.1 Đổi mới hệ thống tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn . 68
2.2.2 Quan hệ giữa Nhà nước và nông dân về đất đai trong nông nghiệp và
phát triển nông thôn . 70
2.3 Sự vận hành quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam . 74
2.3.1 Về tổ chức - quản lý đất đai từ lúc chuyển đổi kinh tế đến nay . 74
2.3.2 Quan hệ giữa các nông hộ trong giao dịch trao đổi, mua bán đất đai nông
thôn và sự ___________xuất hiện tình trạng nông dân không có đất, thiếu đất sản xuất . 78
2.3.3 Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với nông dân có đất bị thu
hồi để thực hiện các dự án. 81
- v -
2.3.4 Một số vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình vận hành quan hệ tổ
chức – quản lý đất đai nông nghiệp . 89
2.4 Đánh giá chung về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp thời
kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam . 102
2.4.1 Những thành tựu của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp từ khi đổi mới đến nay . 102
2.4.2 Những bất cập hiện nay của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp . 112
2.4.3 Những thách thức đang đặt ra đối với quá trình hoàn thiện và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý đất đai nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay . 129
Tổng kết chương 2 . 137
Chương 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN
LÝ ĐẤT ĐAI TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN . 138
3.1 Xu hướng phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế . 138
3.1.1 Xu hướng phát triển bền vững nông nghiệp, nông dân và nông thôn . 138
3.1.2 Cơ hội và thách thức phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn khi
Việt Nam thực hiện các cam kết tự do hóa thương mại quốc tế trong lĩnh vực nông
nghiệp. 141
3.1.3 Dự báo một số tiêu chí về dân số và đất đai nông nghiệp đến năm 2020 . 144
3.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ tổ chức - quản lý đất đai
trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam . 147
3.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai nông nghiệp . 147
3.2.2 Nhóm giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức - quản lý đất đai NN . 163
3.2.3 Nhóm các giải pháp hỗ trợ khác . 176
3.3 Một số kiến nghị . 178
- vi -
Tổng kết chương 3 . 179
KẾT LUẬN . 181
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
338 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2327 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan hệ tổ chức – quản lý đất đai-Trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay
đổi bộ mặt nông thôn. GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng
- 105 -
3,3%, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông nghiệp (nông, lâm, ngư) theo
đúng hướng. Hình thành ngày càng rõ nét những vùng chuyên canh theo hướng sản
xuất hàng hóa và sự liên kết công nông nghiệp có hiệu quả trên những địa bàn này,
ví dụ: ĐBSCL trồng cây lúa nước và sản xuất, chế biến cá da trơn; Đắc Lắc trở
thành thủ phủ của sản xuất và chế biến cà phê của Việt Nam và thế giới; Ninh
Thuận sản xuất và chế biến các sản phẩm từ cây nho; Bình Thuận và Phú Quốc có
sản phẩm nước mắm; Bắc Giang có vải thiều; Các tỉnh Nam Bộ với nhiều đặc sản
như bưởi, xoài, vú sữa, măng cụt…
Thứ ba, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng
được cải thiện; xoá đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Năm 2007, thu nhập bình
quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000, đặc biệt là về cơ bản
đã xoá được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%; tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm
bình quân 1,5% năm; thành tựu này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đồng
thời, các công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hoá,
thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Bộ mặt nông thôn thay
đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân
được nâng lên.
Thứ tư, hệ thống chính trị ở nông thôn do Đảng lãnh đạo được tăng cường; dân
chủ cơ sở được phát huy; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Thứ năm, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới;
kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, góp
phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp, nông dân và nông thôn còn
những điểm cần khắc phục sau:
Một là, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh
thấp, chưa phát huy tốt các nguồn lực, nhất là đất đai; chuyển dịch cơ cấu và đổi
mới cách thức sản xuất còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ.
- 106 -
Hai là, công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh
mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.
Ba là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm, chưa đủ sức
phát triển mạnh sản xuất hàng hoá.
Bốn là, Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn còn yếu kém, năng lực thích
ứng, đối phó với thiên tai thấp.
Năm là, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh
lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo
còn cao; phát sinh một số vấn đề xã hội bức xúc…
2.4.1.2 Quyền sử dụng đất trở thành hàng hoá trong thị trường bất động sản
Luật Đất đai ra đời năm 1993 chủ yếu điều chỉnh quan hệ tổ chức – quản lý đất
đai nhằm kiến tạo nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp trên cơ sở: Một là, Nhà
nước trao cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, đất ở với
5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp; hai là, xác định
giá đất do Nhà nước quy định. Mặc dù Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực ngày 15
tháng 10 năm 1993 nhưng không có văn bản hướng dẫn thi hành để đưa việc thực
hiện 5 quyền sử dụng đất vào cuộc sống. Thị trường quyền sử dụng đất đối với hộ
gia đình, cá nhân đã có thể chế nhưng cuộc sống chưa tiếp nhận. Mặt khác, Luật Đất
đai năm 1993 chưa đề cập tới cơ chế tham gia thị trường quyền sử dụng đất của các
tổ chức kinh tế. Trước thực tế yêu cầu, ngày 14/10/1994 Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất và Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
nước ngoài thuê đất tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy
về chế độ quản lý, sử dụng đất phi nông nghiệp và cụ thể hóa về quyền, nghĩa vụ
của tổ chức kinh tế sử dụng đất. Qua các văn bản này cho thấy, thị trường quyền sử
dụng đất đối với các tổ chức kinh tế mới chỉ được xác lập như một yếu tố gắn với
thị trường các tài sản đã đầu tư trên đất thuê của Nhà nước.
- 107 -
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc khóa VIII đã quyết định chủ
trương đổi mới chính sách đất đai và thị trường bất động sản với nội dung là “quản
lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
không tư nhân hóa, không cho phép mua bán đất đai. Thực hiện đúng Luật đất đai;
bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và chính sách về đất đai. Trong việc giao
quyền sử dụng hay cho thuê đất phải xác định đúng giá các loại đất để sử dụng đất
đai có hiệu quả, duy trì và phát triển quỹ đất, bảo đảm lợi ích của toàn dân. Khắc
phục tình trạng đầu cơ đất và những tiêu cực, yếu kém trong quản lý và sử dụng
đất.” Với nội dung này, thị trường quyền sử dụng đất được vận hành theo đúng
pháp luật về đất đai; xác định đúng giá các loại đất khi Nhà nước cung ứng đất đai
ra thị trường thông qua việc giao đất; cần chống lại đầu cơ, tham nhũng, tiêu cực
trong quản lý và sử dụng đất đai.
Năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đất đai, trong đó đã bổ sung quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất, bảo lãnh và góp
vốn bằng quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân, bổ sung các trường hợp tổ
chức trong nước được Nhà nước giao đất và quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc khóa IX đã chủ trương về thị trường
bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất với nội dung chủ yếu là “hình thành và
phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật; từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước
ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư”. Đến đây, thị trường quyền sử dụng
đất mới được thừa nhận chính thức như một thành phần của thị trường bất động sản,
hướng tới mở rộng đầu tư cho nước ngoài tham gia.
Ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Với các quan điểm: “đất
đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là TLSX đặc biệt, là nguồn nội lực và
nguồn vốn to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất đai là hàng hóa đặc biệt. Chính
- 108 -
sách đất đai phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người đầu tư và người sử
dụng đất. Đổi mới phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Chủ động phát triển vững chắc thị trường bất động sản có sự quản lý
và điều tiết của Nhà nước, với sự tham gia nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; không tách rời thị trường quyền sử dụng đất và
các tài sản gắn liền với đất”. Chủ trương tiếp tục đổi mới đã coi đất đai là nguồn
lực, nguồn vốn, tức là đã thấy nguồn vốn đầu tư từ nội lực đang tiềm ẩn trong đất
đai; đã đặt yêu cầu hoàn chỉnh hệ thống tài chính đất đai phù hợp với cơ chế thị
trường, làm cơ sở cho việc hình thành các công cụ kinh tế để điều tiết lợi ích từ sử
dụng đất; đã coi quyền sử dụng đất là hàng hóa trong thị trường bất động sản; các
thành phần kinh tế đều được tham gia thị trường quyền sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2003 đã quy định sở hữu toàn dân về đất đai, trong đó một
số quyền năng đã trao cho người sử dụng đất để phù hợp với cơ chế thị trường;
quyền sử dụng đất được coi là tài sản của người sử dụng đất; các tổ chức kinh tế
trong nước được quyền lựa chọn hình thức được giao đất hoặc được thuê đất từ Nhà
nước; áp dụng cơ chế một giá đất phù hợp với giá đất trên thị trường trong điều
kiện bình thường, tức là đã xóa bỏ cơ chế xin cho về đất; xử lý đúng bản chất giá trị
của việc chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh
phi nông nghiệp, bảo đảm quyền lợi của Nhà nước, nhà đầu tư và của người bị thu
hồi đất.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc khóa X đã đề xuất nội
dung đổi mới chính sách về đất đai và bất động sản, bao gồm: “phát triển thị trường
bất động sản gắn liền với đất: bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hóa
một cách thuận lợi; làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển;
từng bước làm cho thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị
trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Nhà nước điều tiết giá đất bằng
quan hệ cung cầu về đất đai và thông qua các chính sách về thuế có liên quan đến
đất đai. Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường bất động sản vừa là nhà đầu tư bất
động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh bất động sản”.
- 109 -
Đến đây, thị trường quyền sử dụng đất đã được hoàn chỉnh, đủ sức tự phát triển để
cùng với thị trường vốn, thị trường lao động điều tiết đầu vào của thị trường sản
xuất và kinh doanh hàng hóa.
Trước đây, đất đai ở Việt Nam được xem như một tài nguyên thiên nhiên, một
TLSX của nông nghiệp, là môi trường sống và là địa bàn cho các hoạt động sinh
sống của con người. Ngày nay, đất đai được xác định là một nguồn lực, nguồn vốn
để phát triển kinh tế, quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt và là tài sản của người
sử dụng đất. Trong những năm gần đây hầu hết các lý luận kinh tế đều thừa nhận:
sức lao động, vốn tài chính, đất đai là những nguồn lực đầu vào của nền kinh tế và
đầu ra là sản phẩm hàng hóa, bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ. Ba nguồn lực đầu
vào này phối hợp với nhau, tương tác lẫn nhau, chuyển đổi qua lại với nhau để tạo
nên một cơ cấu đầu vào hợp lý, quyết định tính hiệu quả trong phát triển kinh tế.
2.4.1.3 Công tác tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp của Nhà
nước cơ bản hoàn thiện
Thứ nhất, chính sách đất đai ngày càng hoàn thiện theo hướng điều chỉnh đáp
ứng quyền hưởng dụng đất đai của nông dân. Từ chính sách “khoán hộ 100” mang
tính thăm dò năm 1981 đến việc “cởi trói” bởi Nghị quyết 10 năm 1988 là cơ sở để
ban hành và hoàn thiện dần dần hệ thống luật pháp đất đai 1993, 1998, 2001, 2003,
cùng với hàng trăm nghị định liên quan đến đổi mới đất đai trong nông nghiệp và
phát triển nông thôn. Chính sách đổi mới đất đai trong nông nghiệp và phát triển
nông thôn chứa đựng các nội dung mở rộng quyền sử dụng đất gần như quyền sở
hữu đất có hạn chế; tạo điều kiện để nông dân tham gia thị trường đất đai nông thôn
và quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa trong thị trường; những qui định về
chuyển đổi, chuyển nhượng tạo điều kiện để nông dân tích tụ và tập trung đất đai để
phát triển kinh tế trang trại; việc giao đất sử dụng lâu dài góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý, sử dụng đất đai cho nông dân; vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư đã và đang tiếp tục điều chỉnh theo hướng thỏa đáng cho nông dân.
- 110 -
Bieàu ñoà 2.12: YÙ kieán ñaùnh giaù cuûa noâng daân veà chính saùch giao ñaát
laâu daøi vaø caùc quyeàn söû duïng ñaát trong thôøi kyø ñoåi môùi
37.5
0 0 0 0 0
52.1
66.07 70
51.22
11.11
24.37 23.36
36.58
25 21.11
14.75
31.93
14.63
41.67
0
20
40
60
80
Mieàn Baéc Mieàn Trung Taây Nguyeân Ñoâng Nam Boä ÑBSCL
(%)
Toát hôn tröôùc ñoåi môùi
Khoâng toát hôn tröôùc ñoåi môùi
Vaãn chöa ñaûm baûo ñaày ñuû caùc quyeàn höôûng duïng ñaát ñai
Caàn coù theâm quyeàn tham gia qui hoaïch vaø thöông löôïng veà boài thöôøng
Nguồn: Kết quả khảo sát 544 nông hộ, tháng 01 năm 2009
Kết quả khảo sát 544 nông hộ trên cả nước cho thấy hầu hết nông dân các
miền/vùng đều xác định chính sách và tổ chức quản lý đất đai trong thời kỳ đổi mới
tốt hơn nhiều so với trước đó: 70% nông dân ở ĐBSCL, 66.07% ở ĐNB, 52.1% ở
Tây Nguyên, 51.22 ở Miền Trung và 37.5% ở Bắc Bộ. Không có ý kiến nào cho
rằng chính sách và tổ chức quản lý đất đai hiện nay không bằng thời kỳ đổi mới.
Mặc dù vậy, người nông dân vẫn cho rằng chính sách và tổ chức quản lý đất đai
hiện nay vẫn chưa đảm bảo đầy đủ các quyền hưởng dụng đất đai và họ mong muốn
được tham gia công tác qui hoạch đất nông nghiệp ở địa phương cũng như quyền
được thương lượng, đàm phán về vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Thứ hai, công tác quản lý đất đai của nhà nước ngày càng được tổ chức chuyên
nghiệp và hiệu quả. Xét trong bối cảnh phức tạp của tình trạng đất đai ở Việt Nam
trong các thời kỳ, chúng ta thấy rằng từ thời kỳ chuyển đổi kinh tế đến nay công tác
tổ chức – quản lý đất đai trong NN & PTNT được tổ chức chuyên nghiệp và hiệu
quả. Bộ máy quản lý nhà nước về đất đai đã hình thành một hệ thống xuyên suốt từ
trung ương đến địa phương. Công tác quy hoạch sử dụng đất, thực thi chính sách
- 111 -
đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập bản đồ địa chính đã đi vào nề
nếp. Công tác tranh tra đất đai cũng phát huy tác dụng trong nhiều trường hợp đã
phát hiện được tình trạng tham nhũng đất, xử phạt và thu hồi đất đai không sử dụng
hiệu quả. Nhờ đó mà đa số nông dân tiếp cận và sử dụng đất đai: theo kết quả khảo
sát tại 12 tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Phú Thọ, Hà Tây, Nghệ An, Quảng
Nam, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng và Long An của Viện Nghiên
cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, năm 2006, khoảng 81% các mảnh đất của hộ đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), cao hơn 4,5% so với năm
2004 (đạt 76,5%). Tỷ lệ diện tích đất được cấp sổ đỏ cao nhất là đất trồng cây hàng
năm (82%) và đất ở (78%), tiếp đó là đất trồng cây lâu năm (70%), diện tích mặt
nước (73%) và đất rừng (65%). Có sự khác biệt lớn giữa các tỉnh về tình trạng cấp
sổ đỏ. Tỉnh Long An, Phú Thọ, hầu hết các mảnh đất đã có sổ đỏ, trong khi các tỉnh
như Điện Biên, Lai Châu và Đắk Nông chưa đến 60% số mảnh được cấp sổ đỏ. Sự
khác biệt này do nhiều nguyên nhân, trong đó có ba nguyên nhân chính là quy trình
giao đất chưa phù hợp, kinh phí thực hiện đo đạc đất chưa đủ và một phần do hộ
nông dân chưa có nhu cầu nhận sổ đỏ [109].
Bên cạnh đó, việc tổ chức quản lý đất đai ở các địa phương hiện nay chưa tốt
và nhiều bất cập, thiếu minh bạch gây bức xức cho nông dân. Có đến 75% ý kiến
nông dân Miền Bắc cho rằng qui hoạch và quản lý đất đai thiếu minh bạch, tương tự
ở Tây Nguyên 64,71%, Miền Trung 53,66%, ĐNB 35,66% và ĐBSCL 23,33%.
Bảng 2.15: Ý kiến của nông dân về việc tổ chức, quản lý và qui hoạch đất đai hiện nay
Miền, vùng
Tốt Chưa tốt,
yếu kém
Còn nhiều bất cập và thiếu minh
bạch trong khâu qui hoạch
Miền Bắc 12,5% 29,17% 75%
Miền Trung 34,14% 21,95% 53,66%
Tây Nguyên 21,01% 27,73% 64,71%
ĐNB 45,90% 44,54% 35,66%
ĐBSCL 64,44% 28,89% 23,33%
Nguồn: Kết quả khảo sát 544 nông hộ, tháng 01 năm 2009
- 112 -
2.4.2 NHỮNG BẤT CẬP HIỆN NAY CỦA QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAI TRONG NÔNG NGHIỆP
2.4.2.1 Những bất cập của chính sách đất đai hạn chế sự phát triển nông
nghiệp và nông thôn
Thứ nhất, bất cập về lý luận quyền sử dụng đất với quyền sở hữu đất làm
cho nông dân trở nên yếu thế trong xã hội: Mặc dù Việt Nam đã có những đổi mới
mạnh mẽ trong chính sách đất đai nói chung và trong NN & PTNT nói riêng, song
vẫn chưa triệt để và còn lúng túng về mặt lý luận. Trong các qui định của pháp luật
đất đai, Nhà nước đã cho người dân đến 7 quyền kèm theo quyền sử dụng đất đối
với ruộng đất như: quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế, quyền thế chấp, quyền
cho thuê, quyền chuyển đổi, quyền tặng, quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
đất, làm cho quyền sử dụng tiến sát tới quyền sở hữu nhưng vẫn là quyền sử dụng.
Điều này mâu thuẫn và gây khó khăn trong các quyết định bán, cho, tặng, thế chấp,
thừa kế và càng làm cho người dân yếu thế trong việc đảm bảo hưởng dụng các lợi
ích từ đất và đặc biệt là khả năng bảo vệ đất đai của mình. Nông dân bị coi là nhóm
yếu thế trong xã hội, thể hiện ở việc hiện nay quyền sở hữu tài sản ở nông thôn chưa
rõ ràng. Nông dân không có quyền bảo vệ ruộng đất, thậm chí nhà ở của mình. Họ
không thể bảo vệ ruộng đất, bởi vì ruộng đất đó có thể bị trưng dụng bất cứ lúc nào
để ưu tiên cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị, sân Golf; nhiều trường hợp vì
quyền lợi, ý muốn của nhà đầu tư giàu có. Họ không thể bảo vệ nhà cửa của mình
bởi có thể bị di dời, giải phóng mặt bằng bất cứ lúc nào mà hầu như không được
tham gia để biết, đàm phán trong quyết sách của chính quyền về quy hoạch, mức
giá bồi thường. Như vậy, nông dân khó khăn trong việc bảo vệ tài sản cũng như
điều kiện sống của mình, điều đó cho thấy nông dân yếu thế. Hội Nông dân hoạt
động cũng không hiệu quả cho sự đảm bảo quyền lợi của nông dân.
Thứ hai, thời hạn sử dụng đất làm giảm quyền sử dụng đất: Trong nền kinh
tế thị trường quyền sử dụng đất phải được nhìn nhận như là hàng hóa, như tài sản có
thể mua bán, thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, cho thuê lại. Nhưng vì
Nhà nước chỉ giao cho người dân quyền sử dụng nên kèm theo thời hạn quyền sử
- 113 -
dụng đó trong một thời gian nhất định. Do đó, các quyền năng trên bị giới hạn bởi
thời gian sử dụng đất. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, thời hạn sử dụng
đất nông nghiệp hiện nay 20 năm đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng
thủy sản và đất làm muối; 50 năm đối với cây lâu năm. Thật ra, việc qui định như
thế chưa thể hiện tính khoa học, tức là không lý giải là tại sao phải bao nhiêu ấy thời
gian mà không nhiều hơn hay ít hơn. Đồng thời, việc qui định thời gian sử dụng đất
làm giảm hiệu lực của mục đích giao đất lâu dài cũng như quyền năng của các
quyền thừa kế, thế chấp, cho thuê, cho thuê lại. Trong thực tế diễn ra thời gian qua
cũng cho thấy qui định về thời hạn sử dụng đất cũng không có ý nghĩa. Chẳng hạn,
ngay khi thực hiện chủ trương khoán hộ năm 1988, đất đai của các hợp tác xã đã
được chia lại cho các hộ nông dân và họ canh tác cho đến nay đã 20 năm nhưng
không có cơ quan nhà nước nào đến đặt vấn đề thu hồi lại hoặc qui định phải đăng
ký lại (theo qui định của Luật Đất đai 2003, nếu hết thời gian sử dụng đất, mà tổ
chức, cá nhân có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì đăng ký để được xét duyệt). Ngoài ra,
Luật Đất đai thường lấy mốc từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 là thời điểm giao đất
cho các hộ, vậy đến năm 2013 là hết thời gian sử dụng đất (đối với đất trồng cây
hàng năm, làm muối, làm thủy sản) thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
như thế nào, trong khi hiện nay nhiều nơi còn chưa cấp xong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã được giao từ năm 1993, thậm chí trước đó. Hơn nữa sẽ rất xáo
trộn và tốn kém nguồn lực khi phải đo đạc lại, cưỡng chế thu hồi đất, phân chia cấp
lại… đất đai. Vì vậy, việc quy định thời gian sử dụng đất không phù hợp cần phải
bãi bỏ. Một minh chứng nữa, việc qui định thời gian sử dụng đất vô tình đã triệt tiêu
cơ hội để người dân tiếp cận tín dụng bởi vì các tổ chức tín dụng căn cứ vào thời
gian sử dụng đất để cho vay. Nếu còn ít thời gian thì không thể vay vốn được. Như
vậy, nguồn lực đất đai lẽ ra là vốn nội lực để sản xuất kinh doanh nhưng lại bị triệt
tiêu. Mặt khác, quyền thừa kế hiểu theo nghĩa thông thường là chuyển từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ từ 20 – 30 năm, như vậy, nếu đời cha chuyển thừa kế
đất đai cho đời con lúc ấy thời hạn sử dụng đất đã hết.
- 114 -
Thứ ba, qui định hạn điền mâu thuẫn với xu hướng tích tụ, tập trung ruộng
đất để phát triển kinh tế trang trại và đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường: Điều 70 của Luật Đất đai năm 2003 về hạn mức giao đất nông nghiệp và
Điều 69 của Nghị định 181 năm 2004 về hướng dẫn Luật Đất đai 2003 như sau: (1)
Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho
mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 3 ha đối với mỗi loại đất đối với các tỉnh thành
phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực ĐNB và ĐBSCL; không quá 2 ha đối với
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác. (2) Hạn mức giao đất trồng cây lâu
năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 10 ha đối với các xã, phường, thị trấn
ở đồng bằng; không quá 30 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
(3). Hạn mức giao đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất cho mỗi hộ gia đình không
quá 30 ha đối với mỗi loại đất. (4) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều
loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì
tổng hạn mức giao đất không quá 5 ha. (5) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được
giao thêm đất trồng cây lâu năm thì hạn mức đất trồng cây lâu năm là không quá 5
ha đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 25 ha đối với các xã,
phường, thị trấn ở trung du, miền núi. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao
thêm đất rừng sản xuất thì tổng hạn mức giao đất rừng không quá 25 ha.
Cơ sở và mục đích của hạn điền không được giải thích ở bất kỳ văn bản pháp
lý nào nhưng trong thực tế việc qui định hạn điền làm giảm khả năng tích tụ và tập
trung sản xuất ở những người sản xuất giỏi. Hạn điền làm hạn chế qui mô sản xuất,
cũng đồng nghĩa là sản xuất nhỏ, manh mún và khó tồn tại trong kinh tế thị trường.
Ngoài ra, hạn điền chỉ có ý nghĩa với việc giao đất chứ không có ý nghĩa đối
với trường hợp mua quyền sử dụng đất để tích tụ và tập trung ruộng đất. Càng
không thể kiểm soát nổi hạn điền của người mua nhiều mảnh đất ở các địa phương
khác nhau, hoặc nhờ người thân đứng tên rồi thuê lại vô thời hạn. Hệ thống thông
tin kiểm soát đất đai của các cơ quan quản lý Việt Nam quá yếu để tập hợp và là cơ
sở khống chế trường hợp tập trung quá nhiều ruộng đất vào tay một người.
- 115 -
Chúng ta biết rằng, nền nông nghiệp vận động theo xu thế sản xuất hàng hóa
tất yếu sẽ dẫn đến quá trình tích tụ đất và phân công lại lao động ở nông thôn. Để
thực hiện, những hộ có tiềm lực và có khả năng kinh doanh nông nghiệp sẽ tập
trung ruộng đất để kinh doanh còn những hộ sử dụng đất kém hiệu quả thì chuyển
sang nghề khác phù hợp hơn. Sự tồn tại hạn điền làm lãng phí nguồn lực đất đai,
ngăn chặn những người có khả năng sản xuất thực sự. Không thể có nền sản xuất
nông nghiệp lớn theo kiểu trang trại hiện đại nếu như tồn tại qui định không quá 2
hoặc 3 ha. Hạn điền chỉ có ý nghĩa đối với đất ở khu vực thành thị. Nên dùng công
cụ tài chính như thuế sử dụng đất (đất nông nghiệp và đất ở theo kiểu lũy tiến) hơn
là qui định hạn điền.
Thứ tư, cơ chế hai giá đất: Trong các qui định hiện nay về xác lập khung giá
đất vô tình nảy sinh hiện tượng tồn tại cơ chế hai giá đất tạo nên sự phức tạp trong
quan hệ tổ chức – quản lý đất đai, đó là: giá đất do Nhà nước qui định và giá đất
trên thị trường đất đai. Tất nhiên, hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều tồn
tại song song hai hệ thống giá này, nhưng điều quan trọng là khoảng cách giữa hai
hệ thống này là không quá xa và nó phản ánh gần đúng quan hệ cung cầu trên thị
trường đất đai. Thông thường, trong một nền kinh tế hoạt động tốt và ổn định thì giá
đất của hai hệ thống này là gần bằng nhau. Điều này thể hiện sự thiết lập và phản
ánh khá chính xác khung giá đất của cơ quan quản lý đất đai cũng như khả năng
sinh lợi từ đất. Trong khi hiện nay, sự chênh lệch giữa hai hệ thống giá đất ở Việt
Nam là quá lớn, đồng thời giá đất thực tế ở nhiều khu vực đô thị ở Việt Nam cao
hơn nhiều so với khả năng sinh lời từ đất. Điều này không chỉ gây khó khăn cho cơ
quan quản lý đất đai trong việc xác lập giá đất mà còn tạo nên tâm lý của nông dân
đòi hỏi giá đền bù cao và gia tăng khiếu kiện, khiếu nại. Cụ thể, tại khu đô thị mới
Thủ Thiêm, mức giá nông nghiệp được đền bù chỉ có 150.000 đồng/m2 (xem phụ
lục 2, mục 2) nhưng giá đất trên thị trường tại trung tâm Thủ Thiêm không dưới 10
triệu đồng/m2 chênh lệch nhau đến 66,67 lần.
Điểm bất cập nữa trong việc xác định khung giá đất dựa trên giá thị trường là
không nêu được cơ sở để xác định giá thị trường. Giá thị trường chứa đựng yếu tố
- 116 -
đầu cơ không thể làm chuẩn để xác định giá đất. UBND cấp tỉnh điều chỉnh vào
tháng 1 hàng năm trong khi giá đất trên thị trường lại thay đổi hàng ngày. Trên thực
tế, giá đất do UBND cấp tỉnh quy định mới đạt từ 50% - 70% giá thị trường.
Những bất cập đó đã gây ra sự khó khăn trong giải phóng mặt bằng và bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án.
Thứ năm, mâu thuẫn (xung đột) giữa các qui định trong Luật Đất đai với
các luật khác gây ra nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư và người sử dụng đất:
Có thể khái quát một số mâu thuẫn như sau: (1) Mâu thuẫn giữa Luật Đất đai và
Luật xây dựng: theo Điều 122 Luật Đất đai năm 2003, yêu cầu hồ sơ xin cấp đất của
nhà đầu tư phải có đơn xin cấp đất, giấy phép đầu tư (quyết định đầu tư) nhưng theo
Điều 37 của Luật Xây dựng thì nhà đầu tư phải có các văn bản: thông tin giải trình
về dự án (tác động kinh tế, xã hội, môi trường…), thiết kế cơ bản cho các công trình
(thiết kế công trình, giải pháp xây dựng và sử dụng đất), nên nhà đầu tư không thể
xin phê duyệt và cấp phép đầu tư nếu không có đất cho dự án. (2) Mâu thuẫn giữa
Luật Đất đai và Luật Dân sự: Trước khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thì mọi
hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất không có công chứng hoặc chứng
nhận của chính quyền cơ sở đều có hiệu lực thi hành, nhưng theo qui định của Luật
Dân sự lại khôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan hệ tổ chức – quản lý đất đai-trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam.doc