Ngay khi các rủi ro nhân lên, nhiều chủ doanh nghiệp đã bị kéo
căng ra theo một số dự án. Trong những trường hợp khác, các kỹ
năng quản lý dự án lại bị teo dần. Hãy xem xét điều mới xảy ra
với những nhà sản xuất năng lượng ở Châu Âu và Bắc Mỹ, đặc
biệt là năng lượng nguyên tử. Một số công ty năng lượng đã
không có những khoản đầu tư quan trọng trong gần hai thập kỷ
chủ yếu do việc các vòng quay xây dựng và lập kế hoạch quá dài.
Ngay cả với một công ty năng lượng thì sự khan hiếm về kinh
nghiệm quản lý dự án có tổ chức có nghĩa rằng những người lao
động với những nền tảng điều hành tương xứng đã không được
đưa vào trong quy trình ngay từ đầu trong suốt thời gian thiết kế
một nhà máy mới.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý các dự án vốn vì lợi thế cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dài
hạn của họ theo hợp đồng. Trong khi đó, những công ty khác lại
vội vàng tự trói mình vào các điều khoản, chọn những mẫu hợp
đồng không phù hợp, hoặc đánh giá sai các rủi ro, các tài nguyên
của tổ chức cũng như những kỹ năng mà các dự án vốn đòi hỏi
phải có. Và chính những sai lầm đó đã tạo ra những cơ hội bị bỏ
lỡ, những cản trở quan trọng cũng như chi phí dành cho chúng
tiêu tốn tới hàng trăm triệu đô la.
Thế nhưng có một số ít các chủ doanh nghiệp vẫn làm chủ được
tình hình hợp đồng và đang thu được lợi ích từ chính những kế
hoạch dự án tốt hơn, chi phí thấp hơn và ít bị cản trở hơn – một
nguồn lợi thế cạnh tranh đáng kể. Để đạt được hiệu quả qua
nhiều dự án thì những công ty này phải chuẩn hóa các hoạt động
trong công việc của mình cũng như điều chỉnh được các mẫu
hợp đồng thức thời nhằm theo kịp được tình trạng kinh tế của
mỗi hợp đồng bằng chính sự kết hợp giữa kinh nghiệm và các kỹ
năng mà công ty có được. Những công ty này cũng phải tìm kiếm
các cách để thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà thầu
hợp đồng với hy vọng làm việc cùng họ và chỉ ra được những
đánh giá rủi ro chi tiết hơn so với các đối tác kém thành công của
họ tiến hành. Cuối cùng, họ đầu tư vào nhân tài và khuyến khích
hợp tác theo phạm vi chức năng nhằm trợ giúp việc tối đa hóa giá
trị hiện tại ròng (Net Present Value - NPV) trong những dự án vốn
của mình.
Một sự kiểm tra về những cách tiếp cận mà các công ty này nắm
giữ đã mang lại những bài học không chỉ dành cho các nhà cung
cấp các sản phẩm chuyên về năng lượng và năng lượng mà còn
dành cho cả những ngành kinh doanh chuyên dụng khác bao
gồm như công nghệ cao, viễn thông và tự động hóa. Những bài
học này cũng liên quan tới các tổ chức thuộc cả công lẫn tư đang
đảm trách các dự án cơ sở hạ tầng lớn cũng như những nhà đầu
tư đang tìm kiếm lợi nhuận từ chúng.
Một môi trường đang thay đổi
Trong khi sự tăng trưởng kinh tế trong thế giới đang phát triển
cũng như việc gia tăng nhu cầu về năng lượng và những sản
phẩm chuyên sâu về năng lượng mới tạo ra được những cơ hội
lớn cho các ngành kinh doanh chuyên dụng thì những nguồn lực
này cũng đang ngày càng làm tăng thêm nhu cầu rất lớn về các
nguyên liệu cốt yếu, các dịch vụ và cả thiết bị. Và kết quả là ngày
càng khó có được sự hỗ trợ hợp đồng như trước đây. Trong một
số trường hợp, vấn đề này có thể thay đổi được tình trạng kinh tế
của một dự án. Lấy ví dụ như ở vùng tây bắc Canađa, tiền lương
của những người làm việc cho các nhà thầu hợp đồng thường
được tăng cao hẳn lên ngay khi các công ty cạnh tranh tham gia
phát triển những dự án trong lĩnh vực khai thác dầu lửa, và cũng
tương tự như thế trong ngành công nghiệp khai thác than, những
cản trở trong việc có được những chiếc xe tải, những mỏ than và
cả thiết bị khác phải buộc kéo dài (và theo như những mức giá
thành phẩm được báo cáo đưa ra thì vô cùng tốn kém) khiến cho
độ trễ trong ngành mỏ đang dần mở rộng ra trên toàn thế giới.
Mà như vậy, các áp lực sẽ vẫn còn tiếp tục. Việc sử dụng vốn
toàn cầu đang được mong chờ vượt qua mức 71 nghìn tỷ đô la
trong suốt thời gian từ năm 2008 tới năm 2013 – như vậy tăng
khoảng một phần ba so với các mức từ năm 2002 tới năm 2007.
Nhiều ngành kinh doanh chuyên dụng cũng được nhận định sẽ
tăng từ 50 đến 80 phần trăm.
Việc cạnh tranh ngày càng gay gắt có thể làm tăng chi phí do
những quyết định tồi đưa ra, và trong một số trường hợp thì càng
làm cho tình hình trở nên xấu hơn. Chẳng hạn như việc phải chịu
áp lực để bảo đảm việc trợ giúp kỹ thuật hiếm gặp cho một dự án
cải tạo môi trường đòi hỏi một công ty năng lượng phải tự cam
kết với chính mình rằng cần phải hết sức nhanh chóng để đưa ra
được một mẫu hợp đồng với mức chi phí thấp nhất. Tuy nhiên,
một khi bản hợp đồng đã được ký kết thì chính người chủ lại
thiếu thúc đẩy người đấu thầu hợp đồng đó và những chi phí
không rõ ràng bắt đầu phát sinh. Tồi tệ hơn nữa, đó là người chủ
hợp đồng nhận ra rằng bản hợp đồng đó đã không bao gồm
những khoản phạt thích đáng cho việc quá hạn thực hiện, trong
khi người đấu thầu hợp đồng lại nhiều lần đẩy những người tốt
nhất thực hiện hợp đồng đó sang làm những dự án cho những
đối thủ cạnh tranh với người chủ hợp đồng này. Những nhân tố
đã tạo nên những khoản chi phí bổ sung lên tới hàng trăm triệu
đô la và khiến cho hợp đồng bị trễ lại đến gần cả năm trời.
Xa hơn nữa là việc gia tăng những khoản tiền vốn mà những
người chủ hợp đồng phải bỏ ra theo số lượng, phạm vi, quy mô
và cả độ phức tạp theo các dự án cũng cùng tăng lên. Lấy ví dụ,
theo các vòng quay kinh tế trước đây thì những bổ sung về khả
năng được lên kế hoạch trong khi tiến hành lọc dầu chẳng hạn
như xtiren thường được tăng lên gấp đôi. Nhưng ngày nay, các
trạm năng lượng dựa vào những dàn khoan ở một số quốc gia lại
tạo ra được sản lượng điện gấp ba lần so với những nhà máy
sản xuất truyền thống đã làm. Và theo ngành công nghiệp dầu
mỏ này thì một dự án xa bờ thông thường đòi hỏi những khoản
phát sinh gần bờ có thể từ 30 triệu tới 50 triệu euro vào những
năm 1990, nhưng ngày nay, với một dự án tương tự như vậy thì
việc vận chuyển nước từ xa và mũi khoan phải sâu hơn có thể
tiêu tốn từ 600 triệu tới 900 triệu euro.
Thêm nữa, phạm vi và quy mô của những rủi ro mà các chủ
doanh nghiệp phải nhận thấy ngày nay cũng làm tăng thêm hoạt
động tài chính của họ mỗi khi có một vài tùy chọn sẵn có nhằm
giảm bớt rủi ro. Trong những năm 1980 và 1990, số tiền đầu tư
thấp một cách tương đối đã đem đến cho các chủ doanh nghiệp
động lực thúc đẩy vượt qua được kỹ thuật, mua bán và cả những
nhà thầu hợp đồng xây lắp, vì vậy mà những người chủ doanh
nghiệp đã có thể đàm phán được những hợp đồng với giá tương
đối ổn định. Ngày nay, những điều như vậy thật khó để áp dụng
được. Trên thực tế, hầu hết các nhà thầu hợp đồng không thể
chịu đựng được sức nặng của những rủi ro kết hợp với một số
siêu dự án của thời đại mà không đòi hỏi dựa vào khoản tiền bảo
hiểm kếch sù để phòng bị cho những trường hợp xấu nhất xảy ra.
Ngay khi các rủi ro nhân lên, nhiều chủ doanh nghiệp đã bị kéo
căng ra theo một số dự án. Trong những trường hợp khác, các kỹ
năng quản lý dự án lại bị teo dần. Hãy xem xét điều mới xảy ra
với những nhà sản xuất năng lượng ở Châu Âu và Bắc Mỹ, đặc
biệt là năng lượng nguyên tử. Một số công ty năng lượng đã
không có những khoản đầu tư quan trọng trong gần hai thập kỷ
chủ yếu do việc các vòng quay xây dựng và lập kế hoạch quá dài.
Ngay cả với một công ty năng lượng thì sự khan hiếm về kinh
nghiệm quản lý dự án có tổ chức có nghĩa rằng những người lao
động với những nền tảng điều hành tương xứng đã không được
đưa vào trong quy trình ngay từ đầu trong suốt thời gian thiết kế
một nhà máy mới. Bởi vậy mà đội dự án đã chọn những thông số
kỹ thuật cho một thành phần quan trọng chủ yếu để giảm bớt chi
phí cũng như đảm bảo cho tốc độ cài đặt mà không nhận thấy
rằng những lợi ích này sẽ bị xóa bỏ qua một thời gian dài bởi
chính hiệu quả điều hành chậm hơn của nó.
Trong khi đó những nhân tố về văn hóa – đặc biệt là sự tập trung
mạnh mẽ vào kỹ thuật của nhiều chủ doanh nghiệp – đã hình
thành nên một môi trường không đánh giá được các kỹ năng
thương mại cao mà chỉ thường bằng những kết quả kém chất
lượng. Lấy ví dụ ngay như một công ty về công nghiệp, các kỹ sư
đã xác định được các tham số cho một nhà máy mới tới mức chỉ
tập trung vào nó mà một phần cốt lõi của thiết bị có thể chỉ được
mua từ hai hơn là năm mươi nhà cung cấp có thể có khả năng
với một phương pháp dễ nhận thấy hơn thì chính điều đó đã giới
hạn nghiêm trọng tính cạnh tranh của việc đấu thầu.
Ngay cả những câu chuyện cũng trở nên cũ rích nhưng một số
công ty vẫn đang phải tránh những khó khăn như vậy. Thế nên,
một cuộc kiểm tra về những phương pháp của họ đối với việc ký
kết hợp đồng đã đưa lại các bài học cho tất cả những người chủ
doanh nghiệp.
Theo mức độ dự án
Những công ty hàng đầu thường tối đa giá trị của những dự án
riêng biệt của mình theo ba hướng:
1. Tạo ra những mô hình phân bổ tối ưu theo các hợp đồng.
2. Dàn xếp cận thẩn các quy trình quan trọng của hợp đồng nhằm
đảm bảo tính cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà cung cấp.
3. Xây dựng các hợp đồng để nhận được sự ủng hộ của các nhà
cung cấp với thỏa thuận đề ra.
Hãy nắm lấy một quan điểm chiến lược
Một số chủ doanh nghiệp thường tự mình đánh giá các dự án
riêng biệt và tìm cách để tối ưu kỹ thuật, chi phí cũng như thời
gian mà không xem xét đầy đủ mọi ý nghĩa đối với những dự án
hiện tại có liên quan hoặc những dự án trong tương lai. Nhưng
ngược lại, những công ty thực hiện cao lại thường dựa trên cách
tiếp cận của họ về việc ký hợp đồng bằng một sự hiểu biết sâu
sắc về chiến lược vốn của mình cũng như hiểu được làm thế nào
các dự án hôm nay sẽ ảnh hưởng được tới những cái họ đảm
trách sau này.
Lấy ví dụ, các công ty đang dẫn đầu về dầu lửa đều sử dụng một
phương pháp đã được chuẩn hóa về kỹ thuật và xây dựng về quá
trình đóng thùng dầu xa bờ được luân chuyển của họ. Còn những
con tàu lại được trên những hệ thống liên tục và hiệu quả, điều
không chỉ hiệu quả về mặt điều hành cho riêng lĩnh vực đóng
thùng dầu mỏ. Tuy nhiên, việc chuẩn hóa đã cho phép những
người chủ các doanh nghiệp đó phát triển được một loạt lĩnh vực
khác mà họ có thể làm nhanh hơn, điều hoàn toàn mang lại cho
họ khoản lợi nhuận thậm chí còn nhiều hơn là việc định giá dầu
mỏ lên cao. (Vì đối với một hệ thống cho sản lượng 150 triệu
thùng dầu một ngày thì ban đầu người ta phải mất bảy tháng để
xây dựng lên hệ thống đó nếu không theo một sự chuẩn hóa.)
Vậy nên, sự chuẩn hóa cũng cắt giảm được chi phí không chỉ
dành cho những công ty dầu mỏ. Chẳng hạn như khi chúng tôi
theo dõi một công ty đóng tàu đã thấy họ giảm được số giờ cần
thiết để đóng một loạt bốn chiếc tàu giống nhau gần bằng một
phần ba thời gian so với lúc đóng từ chiếc đầu tiên cho tới chiếc
thứ tư. Vấn đề mấu chốt đó là việc xây dựng từng cái giống nhau
thì đều tối đa hóa được những ích lợi về mặt kỹ năng.
Tương tự như vậy, việc liên tục làm việc cùng với một nhà thầu
đã giúp cho một công ty năng lượng ở Châu Âu tối ưu được hiệu
quả của những phương pháp nó thường sử dụng để xây dựng
những bộ phận lắp ráp nồi hơi và những thành phần quan trọng
khác. Công ty này đã cắt giảm được chi phí nhân công của mình
xuống còn một phần ba từ nồi hơi thứ nhất tới cái thứ hai bằng
cách lắp ráp trước các thành phần của nồi hơi sẵn trước thay cho
trên những chiếc cẩu trục. Đồng thời, việc sử dụng những chiếc
cẩu trục cố định rẻ hơn thay cho những chiếc cẩu trục di động đắt
tiền, còn việc xây dựng những hệ thống di động cho phép các
công nhân lắp ráp các thành phần nhanh chóng hơn. Và kết quả
đó là dự án đã hoàn hành trước thời hạn hàng tháng trời.
Những công ty giống công ty này với rất nhiều dự án kiểu như
vậy có thể cũng kế tục được một quan điểm về lâu dài nhằm có
thể củng cố được mối quan hệ của họ với những nhà cung cấp
quan trọng. Ngay chính những mối quan hệ này có thể giúp cho
người chủ doanh nghiệp cắt giảm được chi phí, đảm bảo được
tiến độ cũng như thể hiện được sự cải tiến. Hãy xem xét kinh
nghiệm của một công ty dầu lửa có đội dự án đã thực hiện một
hợp đồng với một nhà thầu về kỹ thuật, thu mua và lắp ráp nhằm
xây dựng cả một loạt những tàu chở dầu. Việc đồng ý về khối
lượng công việc cùng mức giá cố định của công ty với nhà thầu
đó bao gồm cả thép và những nguyên vật liệu thô khác. Tuy
nhiên, công ty đó cũng đã nhận ra rằng kế hoạch xây dựng cả
một loạt những tàu chở dầu của mình đã tạo ra một sự thúc đẩy
mạnh mẽ trên thị trường thép và đó chính là điều mà nhà đấu
thấu đã không tính đến.
Bởi vậy, thay vì để cho nhà thầu ký hợp đồng với các nhà cung
cấp thì người chủ doanh nghiệp đã ký hợp đồng trực tiếp với
nguồn cung ứng thép cần thiết cho những tàu chở dầu bằng cách
sử dụng kế hoạch xây dựng một loạt các tàu chở dầu đã giúp cho
công ty dễ đàm phán được một mức giá tốt hơn. Bước đi này đã
giảm bớt được chi phí cho công ty dầu lửa đó, bởi thép luôn
chiếm khoảng 40 đến 50 phần trăm tổng số kinh phí đóng một
con tàu chở dầu, cũnng như lợi ích của việc ký hợp đồng với một
nhà thầu về cả kỹ thuật, thu mua và lắp ráp bởi loại bỏ được áp
lực tài chính về việc tăng giá thép. Và khi sự hấp dẫn của những
dự án kiểu này ngày càng tăng lên đối với các đối thì đó lại là một
điểm cần xem xét quan trọng trong môi trường cung ứng đông
kín ngày nay. Một công ty năng lượng ở Bắc Mỹ mà chúng tôi đã
nghiên cứu cho thấy đã thay đổi theo một phương pháp tương tự
như vậy và thực tế họ đã giảm được kinh phí về thép cho một
nhà máy mới chỉ còn một phần ba.
Và còn có một số công ty lại sử dụng các mối quan hệ mà họ có
được với các nhà cung cấp để tạo ra được sự đổi mới. Chẳng
hạn như một công ty dầu lửa đã phát triển những mối quan hệ đối
tác độc lập lâu dài, thân thiết với những nhà thầu chuyên biệt
nhằm nâng cao công nghệ khoan dưới nước của mình. Còn một
công ty dầu lửa khác lại sắp xếp tuần tự các công việc theo danh
mục các dự án cần đầu tư của mình tới mức nó có ít nhà cung
cấp nhất nhưng lại là những nhà cung cấp thân thiết nhất. Công
ty này đã áp dụng hệ thống phân khúc (tách ra theo những gói
thầu dài hạn) nhằm làm giảm chi phí vòng đời cho việc khoan và
các thành phần dự án khác xuống tới được 30 phần trăm cũng
như giảm được hẳn ba tháng chuẩn bị so với quá trình triển khai
dự án thông thường.
Mô hình phù hợp
Thậm chí các khái niệm công nghệ hoặc những phân tích theo
chuỗi sự kiện tốt nhất trong trường hợp kinh doanh cụ thể đối với
một dự án đều trở nên hoàn toàn vô dụng khi các chủ doanh
nghiệp chọn những mô hình hợp đồng không phù hợp. Ba ưu thế
nguyên mẫu mà một chủ doanh nghiệp hàng đầu thường sử
dụng đó là:
1. Tối ưu được khả năng của các nhà cung cấp.
2. Đánh giá được những ảnh hưởng về chi phí và thời gian thực
hiện.
3. Thiết lập rõ ràng được vai trò của thành phần đó trong cả dự
án.
Vì vậy, ngay khi một chủ doanh nghiệp xác định đối tác nào của
dự án có thể thực hiện tốt nhất từng phần riêng biệt thì đồng thời
họ cũng xem xét cẩn thận mức độ rủi ro tài chính do các nhà
cung cấp mang lại.
Lấy hẳn một trường hợp cụ thể, chúng ta hãy cùng xem xét làm
thế nào mà một công ty sản xuất thép đa quốc gia hiện vẫn xây
dựng được một nhà máy tại một nơi mà trước đây họ chưa từng
có giao dịch nào ở đó cả. Mặc dù công ty đã có được kinh
nghiệm quý báu trong việc quản lý những dự án đòi hỏi phải có
quyết định nhanh tại chỗ, thế nhưng đội dự án của công ty vẫn
cảm thấy không thoải mái khi tiến hành thực hiện ở một vùng địa
lý mới, mà hơn nữa khi hình dung phải ký một hợp đồng theo
khối lượng công việc và mức giá cố định với riêng một nhà thầu
mà không biết có tiết kiệm được khoản nào thật không. Tuy
nhiên, ngay khi công ty sản xuất thép này đưa ra lựa chọn này,
họ đã nhận thấy rằng một sự đồng ý về mức giá cố định không
thể giúp công ty tận dụng được những thế mạnh trong kỹ thuật về
mặt thiết bị cũng như những vấn đề khác. Và tồi tệ hơn khi thực
sự thấy rằng quy mô của hợp đồng đòi hỏi công ty phải trả thêm
phí bảo hiểm rủi ro thêm hai con số cho nhà thầu. Như vậy, giá
cả toàn bộ sẽ trở nên cao hơn bởi chỉ cần vài nhà thầu về kỹ
thuật, thu mua và lắp ráp cũng đã có thể giải quyết được một khối
lượng công việc như vậy về quy mô, tính phức tạp cũng như rủi
ro. Mà thực tế, công ty sản xuất thép cũng đã xác định rõ ràng
được rằng một hợp đồng theo khối lượng đó sẽ làm tăng chi phí
vốn của dự án lên một mức mà hội đồng quản trị của công ty
chắc chắn sẽ không thích hỗ trợ chút nào.
Do vậy mà công ty đó đã phải tự điều chỉnh và tìm ngay ra mô
hình để cân đối ngân sách với khả năng thực hiện. Trước tiên, họ
kiểm tra lại quy mô dự án và xác định xem “người chủ thực chất”
của mỗi nhiệm vụ cần thiết phải có trong suốt mỗi giai đoạn của
cả vòng đời dự án đó (từ kỹ thuật tới lắp ráp). Việc phân tích này
cũng đã giúp cho công ty sản xuất thép này nhận thấy những cơ
hội để xúc tiến được các công việc nhanh hơn, những điều mà
sau này sẽ trở nên hấp dẫn hơn với các nhà cung cấp. Tiếp đến
họ lại xem xét về vấn đề cơ sở hạ tầng, một lĩnh vực mà công ty
sản xuất thép này còn thiếu kinh nghiệm, vì vậy mà họ đã tiến
hành làm việc với một nhà thầu kỹ thuật địa phương có tiếng.
Cuối cùng, với rất nhiều kinh nghiệm về thiết bị và việc lắp ráp có
liên quan mà công ty đang có, nên công ty quyết định những
công việc đó sẽ do chính công ty đảm trách. Vậy là, họ cũng đã
nắm trong tay được sự quản lý toàn bộ dự án chỉ với sự hỗ trợ
của một hãng quản lý xây dựng địa phương. Và khi sự hiểu biết
về các nhà cung cấp địa phương càng tốt hơn thì cũng chắc chắn
rằng chất lượng cũng tốt hơn. Nên không chờ dự án được hoàn
thành với đầy đủ những ích lợi mà phương pháp này mang lại hết
sức rõ ràng, các nhà quản lý đều nhận thấy rằng dự án này đã
giúp họ đảm bảo được những kỹ năng cốt yếu và hơn hết là mối
quan hệ của họ với các nhà cung cấp thiết bị cũng phải tốt như
việc phân bổ một mức chấp nhận được về chi phí vốn.
Một quá trình cạnh tranh mạnh mẽ
Một khi vấn đề cơ bản về mô hình hợp đồng được xác định thì
cũng là lúc phải tiến hành đấu thầu. Hầu hết các chủ doanh
nghiệp đơn giản chỉ quan tâm tới mức giá. Nhưng những chủ
doanh nghiệp hàng đầu lại đi theo một quá trình cạnh tranh có tổ
chức, điều cho phép họ vẫn duy trì được cả quan điểm chung về
những tương tác tiềm năng của họ với các nhà cung cấp cũng
như sự minh bạch trong suốt quá trình cạnh tranh nhằm đảm bảo
được tính cạnh tranh và chất lượng của những vụ đấu thầu.
Như một tất yếu của quá trình này, những người thực hiện hiệu
quả đều phát huy một sự hiểu biết triệt để về vấn đề mà vụ thầu
sẽ đưa ra từ quan điểm của người thầu. Những chủ doanh
nghiệp này đều dồn tâm trí để nhận biết hay quyết định vào bất
kỳ nơi nào mà thiết kế, chi phí hoặc những điều chưa rõ ràng
khác có thể gây ra những rắc rối sau này (ví dụ như nhờ việc xác
định được vai trò mà các nhà cung cấp chuyên biệt sẽ phải chịu
trách nhiệm trong những trường hợp mà các công việc liên quan
với nhau xảy ra sau này). Hơn nữa, những người thực hiện hiệu
quả thường làm việc với các nhà cung cấp ngay từ trước khi đấu
thầu nhằm nhận biết được tính cạnh tranh giữa họ cũng như để
phát hiện được những cơ hội cùng các ý tưởng mới cho sự
chuẩn hóa. Kể từ khi việc đặc tả kỹ lưỡng trong suốt khâu thiết kế
thường làm tăng chi phí bởi việc giới hạn không chính xác con số
các nhà thầu có thể giải quyết được một dự án, những chủ doanh
nghiệp hàng đầu đã quyết định mở rộng ra các yêu cầu nhằm
nâng cao vị trí đàm phán của họ cũng như thu hút các nhà cung
cấp. Với những khâu khác họ cũng tiến hành thực hiện như vậy.
Thế nên, nếu một nhà cung cấp tiềm năng thiếu kinh nghiệm
trong một lĩnh vực, ví dụ như một công ty về công nghiệp mà
chúng tôi biết đã giúp cho nhà cung cấp đó làm chủ được những
điều lệ địa phương cũng như những yêu cầu về nội dung hoặc
xác định lại những đặc tả kỹ thuật nhằm mở rộng ra phạm vi các
nhà thầu có khả năng.
Tuy nhiên, tất cả những điều này cần phải có thời gian. Mà
ngược lại, những người thực hiện mức trung lại thường đè nặng
các quy trình đấu thầu theo một nỗ lực nhằm bù lại thời gian đã
mất trong những khâu khác của một dự án và bởi vậy mà mất đi
sức mạnh đàm phám bởi chỉ biết tự bó buộc mình một cách vội
vã theo những bản hợp đồng chưa tối ưu hết. Điều này là sự
thực của một công ty năng lượng đã vội vã trong quá trình đấu
thầu xây dựng một nhà máy năng lượng của mình (bởi dựa vào
những tính toán trên một bản thiết kế nhà máy sơ bộ với ý định
tăng tốc thời hạn thực hiện của dự án). Tuy nhiên, thay vì tiết
kiệm được thời gian thì sự thiếu rõ ràng trong bản thiết kế đã
khiến công này phải thương lượng lại hợp đồng và cuối cùng
chấp nhận mất thêm 45 phần trăm phí bảo hiểm cùng với chín
tháng chậm so với dự kiến ban đầu. Trái lại, một công ty năng
lượng hiệu suất cao đang tìm kiếm những tuốc bin cho nhà máy
mới của mình đã mất một khoảng thời gian tương đối trong suốt
khâu đấu thầu để xác định ra những đặc tả thực hiện của dự án,
kiểm tra những nhân tố có lãi như thời gian thực hiện, phí bảo trì,
cũng như những hiệu quả về mặt thiết bị đến nỗi công ty đó đã
thành công trong việc tìm được một đối tác tối đa hóa được giá trị
của dự án. Và ấn tượng nhất đó là đối tác này đã không đưa ra
giá thầu thấp nhất nhưng khi kết hợp với cả những lựa chọn rẻ
hơn được công ty đưa ra thì đã làm cho giá trị hiện tại ròng –
NPV của dự án trở nên thấp hơn.
Ký kết hợp đồng
Khi đưa ra các điều khoản về hợp đồng, những chủ doanh nghiệp
hàng đầu thường tập trung vào những nhân tố gây ra rủi ro chính
có ảnh hưởng tới chi phí, thời hạn, tiến trình thực hiện cũng như
những rủi ro kết hợp với những nhà cung cấp của một đối tác. Họ
thiết lập những điều khoản thường đơn giản và minh bạch cũng
như sẽ cổ vũ một hướng suy nghĩ thực hiện hiệu quả đối với các
nhà cung cấp bằng cách tạo ra những khuyến khích thích hợp
nhằm xác định được rủi ro đối với người chủ thực chất của nó.
Cũng tương tự như vậy, những chủ doanh nghiệp này thường
phát triển những mô hình nhằm đánh giá và ước lượng được rủi
ro một cách có hệ thống, bằng cách đó đảm bảo rằng các hợp
đồng không bỏ sót những rủi ro quan trọng hoặc những nhà cung
cấp chính với chi phí mà họ không thể có lời chính đáng một cách
vô tình.
Việc phân tích cẩn thận giúp cho một chủ doanh nghiệp xác định
được xem nhà thầu về kỹ thuật, thu mua và lắp ráp của mình có
đang xây dựng một bảo hiểm rủi ro lao động quá cao theo một
hợp đồng hay không. Việc sử dụng thông tin này giúp người chủ
doanh nghiệp đưa ra được những lời động viên trong hợp đồng
đó nhằm thưởng cho nhà thầu nếu duy trì được chi phí dưới một
ngưỡng phù hợp cho cả các đối tác cũng như tối ưu được kinh
phí của chủ doanh nghiệp. Ngược lại, thất bại của một công ty
sản xuất thép đối với việc tính toán những rủi ro có liên quan
được chuyển thành những độ trễ quan trọng cùng những cuộc
tranh cãi với một nhà cung cấp khi hàng hóa chủ yếu cần thiết để
hoàn thành một dự án bị ách lại ở hải quan chỉ vì hợp đồng đã
không chỉ rõ xem công ty nào có trách nhiệm làm việc với hải
quan trong quá trình thực hiện cũng như thanh toán các khoản
thuế nhập khẩu.
Sức mạnh của con người
Những doanh nghiệp hàng đầu đều biết tự phân biệt giữa
phương pháp tổ chức mà họ áp dụng khi làm hợp đồng và tầm
quan trọng mà họ đặt vào nhân tài. Trước tiên, họ nhận thấy rằng
những quyết định tốt đòi hỏi một môi trường hợp tác nơi các đội
dự án phải có quyền được biết những thông tin tốt nhất và phải
lão luyện. Điều đó có thể dường như là hiển nhiên, song thực tế
tại nhiều đội đã thất bại khi dính dáng tới các chuyên gia từ việc
thương lượng giá cả tới những chức năng khác trong suốt một
vòng đời của dự án, hoặc những đội ngũ nhân viên với những
người thương lượng cũng như những người đại diện chức năng
thiếu kinh nghiệm tương xứng. Và thông thường như vậy là họ
đều dành cho các kỹ sư, những người có kỹ năng kỹ thuật nhuần
nhuyễn, tập trung tìm sự thiếu sót của một bản hợp đồng kinh tế
nhằm đưa ra những quyết định ký kết quan trọng.
Trái lại, những doanh nghiệp giỏi lại đảm bảo được những người
tham gia vào tài chính, thu mua, tiếp thị và thậm chí là điều hành
nhà máy từ những khâu ký kết sớm nhất đều giỏi. Các nhà quản
lý nhà máy cũng như các nhà điều hành các chuyên môn khác
đều giúp cho các đội dự án đánh giá được mọi tình huống phát
sinh thực tế của vô số điều khoản về thiết kế và kỹ thuật bằng
thảo luận đến nỗi những người chủ không cần phải đưa ra các
quyết định để nhằm hạ thấp chi phí vốn hoặc đẩy nhanh thời hạn
thực hiện nhưng lại giảm được các giá trị hiện tại ròng một cách
tình cờ. Các chuyên gia thu mua đưa ra những khía cạnh thị
trường bên ngoài đầy giá trị nhằm cải thiện các tình trạng kinh tế
của một dự án, trong khi nhóm thương lượng giá cả của một
doanh nghiệp khác lại áp dụng những buổi hội thảo với các nhà
cung cấp nhằm tạo ra những ý tưởng cho các đội dự án của công
ty. Một công ty khác lại sử dụng những cách thể hiện trực quan
đơn giản – được gọi là “các bảng định mức thu mua” – nhằm
tổng kết các hoạt động ký kết hợp đồng của công ty cũng như để
biểu thị được trạng thái của các hợp đồng riêng biệt. Những bảng
định mức thu mua này giúp cho người chủ doanh nghiệp đặt mức
ưu tiên cố gắng của công ty (và hơn nữa là để dự đoán được tất
cả các độ trễ tiềm ẩn) cũng như để phối hợp với toàn bộ các hoạt
động quản lý rủi ro của công ty.
Do đó, các nhà quản lý cấp cao của một doanh nghiệp đã quyết
định xây dựng bản tóm lược các đội dự án của công ty (cũng là
để thu hút và nâng d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_ly_cac_du_an_von_vi_loi_the_canh_tranh_0017.pdf