Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Phần Mở đầu 1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn 3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4

5. Phương pháp nghiên cứu 5

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩ thực tiễn của luận văn 6

7. Kết cấu của luận văn 7

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NưỚC

VỀ TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG ĐưỜNG BỘ.

8

1.1. Trật tự, an toàn giao thông đường bộ 8

1.2. Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ 13

1.3. Những yếu tố đảm bảo quản lý nhà nước về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ

31

pdf128 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đường bộ; tổ chức cho các cơ sở sửa chữa xe ô tô, mô tô cam kết không độ chế phương tiện; tuyên truyền, nhắc nhở, răn đe thanh thiếu niên thường xuyên vi phạm pháp luật giao thông đường bộ cho gia đình quản lý, giáo dục, cam kết không tái phạm;... Sở Tư pháp: Tổ chức biên soạn, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ thông qua chuyên mục Thông tin pháp luật giao thông đường bộ (tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật ở thôn, làng, khu dân cư) đã phát hành hơn 60.000 cuốn, phát hành 2.000 cuốn “cẩm nang phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ”, hơn 7.000 tờ gấp “quy định về tốc độ và mức xử phạt vi phạm hành chính về tốc độ khi tham gia 51 giao thông đường bộ”, hơn 3.000 cuốn “sổ tay 11 câu hỏi đáp pháp luật dành cho thanh thiếu niên”;.... Báo Gia Lai: Duy trì thường xuyên các chuyên mục “hãy góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông”, “ý kiến người dân”, “dưới ánh mắt người dân”, “cuộc sống quanh ta” phản ánh ý kiến của người dân về tình trạng vi phạm an toàn giao thông, triển khai tuyên truyền theo chủ đề, có trọng tâm, trọng điểm qua các trang thông tin chuyên đề, đăng tải các văn bản chỉ đạo, quy định về trật tự, an toàn giao thông của nhà nước, của tỉnh để định hướng cho các ngành, các địa phương về các giải pháp kiềm chế tai nạn giao thông và tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân chấp hành pháp luật giao thông đường bộ. Đài Phát thanh – truyền hình tỉnh: Đã tổ chức tuyên truyền trên 02 làn sóng phát thanh và truyền hình bằng tiếng Việt, Bahnar và Jrai. Duy trì thường xuyên 02 chuyên mục/tháng “an toàn giao thông” với thời lượng 15 phút/chuyên mục trên sóng phát thanh, 03 mục/tuần “an toàn giao thông” với thời lượng 3 phút/bản tin phát trong chương trình “chào ngày mới” trên sóng truyền hình. Ngoài ra, còn có các tin, bài, phóng sự phản ánh về các hoạt động an toàn giao thông trong chương trình thời sự hàng ngày. Sở Thông tin – truyền thông: Thường xuyên ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan báo chí, văn phòng đại diện, phóng viên thường trú tại địa phương và Phòng Văn hóa – Thông tin, Đài Truyền thanh - truyền hình các huyện, thị xã, thành phố thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền nói chung và công tác trật tự, an toàn giao thông đường bộ đến các tầng lớp nhân dân. Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch: Tuyên truyền thông qua hình thức sân khấu hóa, tuyên truyền lưu động, chiếu phim lưu động, chiếu phim kết 52 hợp biểu diễn, xe loa lưu động, tuyên truyền trực quan bằng pa nô, áp phích, băng rôn. Sở Giáo dục và đào tạo: Tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho học sinh thông qua giảng dạy chính khóa (môn Giáo dục công dân và chương trình “an toàn giao thông cho nụ cười ngày mai”), giáo dục kỹ năng sống với chủ đề “đi đường an toàn – cho bạn cho tôi”. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy: Hướng dẫn Ban Tuyên giáo các huyện, thị xã, thành phố, đảng ủy trực thuộc, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh, các đơn vị trong khối tuyên truyền xây dựng kế hoạch tuyên truyền về các chủ trương, biện pháp của tỉnh nhằm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, in tin bài trên tạp chí. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh: Chỉ đạo, hướng dẫn cấp huyện, xã đưa văn hóa giao thông vào nội dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Các tổ chức chính trị - xã hội: Tỉnh đoàn duy trì tổ chức ngày Hội “Thanh niên với văn hóa giao thông”, tổ chức các đội tình nguyện tham gia giữ gìn, đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Hội Liên hiệp phụ nữ duy trì các câu lạc bộ tự quản, đoạn đường tự quản, làm phần việc “đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa”. Kết quả điều tra dư luận xã hội về công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai cho thấy, trong các kênh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông thì kênh tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng: Đài Phát thanh, tuyền hình, báo là hiệu quả nhất (85.6%). Đáng lưu ý, hai hình thức tuyên truyền hiệu quả còn thấp là qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng (26.7%) và qua giáo dục trong nhà trường (19.7%) (xem phụ lục 10). 53 Nhìn chung, việc triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ qua nhiều kênh, phong phú về hình thức, đa dạng về phương pháp đã giúp cho người dân hiểu được và ý thức chấp hành pháp luật an toàn giao thông có chuyển biến. Tuy nhiên, hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật mang đến chưa cao. Chưa có sự cân đối, đồng đều tại các thời điểm tuyên truyền, có lúc tuyên truyền rầm rộ nhưng có thời điểm lại thưa thớt; thời lượng giảng dạy ở các trường học còn ít, không có giáo viên chuyên trách, thiếu tài liệu. Việc tuyên truyền mới chỉ tập trung trách nhiệm của các cấp trong việc thực hiện công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, chưa tổ chức kiểm tra, đánh giá hiệu quả mang lại cũng như kiểm tra việc thực hiện công tác tuyên truyền. Thiếu đội ngũ tuyên truyền viên, do đó công tác tuyên truyền chưa đến được với mọi người dân nhất là đối với thanh niên và người dân ở vùng sâu, vùng xa, ở khu vực nông thôn. Qua kết quả điều tra dư luận xã hội được nêu ở bảng 2.1 sẽ giúp các cơ quan chức năng lựa chọn, điều chỉnh hình thức tuyên truyền tối ưu nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của từng loại hình trong thực tiễn. 2.2.2.4. Tổ chức quản lý, bảo trì, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ Từ năm 2013 đến nay, tỉnh Gia Lai đã huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư, như: Ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng,... để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh tương đối đồng bộ. Qua 06 năm thực hiện, một số dự án quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của tỉnh được Trung ương và tỉnh đầu tư xây dựng đã hoàn thành và đưa vào khai thác, như: Đường Hồ Chí Minh, Đường Trường Sơn Đông, cầu Sông Ba (huyện Ia Pa), cầu Phú Cần (huyện Krông Pa), cầu qua Công viên văn hóa các dân tộc (thành phố Pleiku); hoàn 54 thành Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn tuyến tránh đô thị Pleiku. Triển khai dự án "Tăng cường kết nối giao thông khu vực Tây Nguyên" (cải tạo, nâng cấp các đoạn còn lại trên Quốc lộ 19), Dự án đường Hồ Chí Minh tuyến tránh thị trấn huyện Chư Sê; một số đoạn tuyến của Quốc lộ 19, Quốc lộ 25, Quốc lộ 14C, đường tỉnh 663, 665, 666, 669 được đầu tư nâng cấp, mở rộng phục vụ sự đi lại của nhân dân thuận tiện và an toàn. Từ nguồn ngân sách địa phương, tỉnh đã ưu tiên đầu tư các tuyến đường trục xã quan trọng; các tuyến đường nội thị nhằm chỉnh trang đô thị; giao thông nông thôn từng bước được đầu tư mới, cải tạo, nâng cấp, trong đó chú trọng hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm, góp phần tạo nên mạng lưới giao thông thông suốt từ tỉnh đến huyện, xã (đã đầu tư mới 407 km nền đường; nâng cấp, cải tạo 1.180,7 km nền, mặt đường; xây dựng cầu mới 31 cái/1.283 m; cống 937 cái/6.997 m; đường tràn các loại 11 cái/843 m). Đến cuối năm 2018, mạng lưới đường bộ tỉnh Gia Lai có chiều dài 12.183 km. Trong đó: 06 tuyến quốc lộ với tổng chiều dài là 723 km, 10 tuyến tỉnh lộ dài 372 km, đường đô thị 965 km, đường huyện 1.900 km, đường chuyên dùng 513 km và đường xã, thôn bôn dài 7.706 km. Tuy nhiên, với địa bàn rộng trên diện tích lớn cũng là khó khăn không nhỏ trong công tác quản lý. Bên cạnh công tác đầu tư xây dựng mới thì công tác quản lý, bảo trì đường bộ cũng được quan tâm, đã sửa chữa các hư hỏng, đảm bảo giao thông thông suốt, an toàn, nâng cao hiệu quả khai thác. Thực hiện đấu thầu quản lý, bảo trì, sửa chữa thường xuyên các quốc lộ được ủy thác quản lý đem lại kết quả tích cực; hằng năm, triển khai sửa chữa có trọng tâm, trọng điểm, khắc phục các đoạn tuyến hư hỏng, bảo đảm an toàn giao thông mùa mưa lũ, các dịp cao điểm lễ, tết. Thực hiện tốt việc rà soát, kiểm tra và kịp thời sơn kẻ tim đường, thay thế hệ thống biển báo đường bộ theo đúng tiêu chuẩn. Công tác bảo vệ hành lang an toàn giao thông đường bộ được tăng cường, kịp thời phát 55 hiện, xử lý vi phạm. Thường xuyên rà soát, kiểm tra và xử lý điểm đen, vị trí nguy hiểm, các vị trí thường xảy ra tai nạn, vị trí tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông được cải tạo mở rộng mặt đường, cắm biển cảnh báo nguy hiểm, cọc tiêu, phát quang thông thoáng, đảm bảo tầm nhìn, lắp đặt tường hộ lan mềm các đoạn đường đèo dốc quanh co. Việc ứng dụng công nghệ bản đồ số và công nghệ điện toán đám mây đã được áp dụng trong công tác kiểm tra và quản lý hoạt động bảo trì đường bộ. Hằng năm, thực hiện kiểm tra các vị trí xung yếu, xây dựng kế hoạch phòng, chống bão lũ, chuẩn bị nhân lực, vật tư, thiết bị, phương tiện, máy móc sẵn sàng ứng phó trong mùa mưa bão; kịp thời triển khai đảm bảo giao thông thông suốt, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất thời gian ách tắc giao thông do mưa bão. Tuy nhiên, công tác quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ hiện nay còn nhiều tồn tại, khó khăn: Kinh phí cho công tác quản lý, bảo trì không đáp ứng yêu cầu; các dự án còn dàn trải dẫn đến không phát huy hiệu quả vốn đầu tư; Tình trạng lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường bộ vẫn còn diễn ra; Kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn yếu kém; điểm đen, điểm nguy hiểm về an toàn giao thông chậm được khắc phục; một số vị trí trên quốc lộ, đường tỉnh là mặt đường đất nên đi lại khó khăn trong mùa mưa. 2.2.2.5. Tổ chức quản lý chất lượng an toàn phương tiện giao thông đường bộ Các cơ quan có chức năng thực hiện đăng ký phương tiện cơ giới giao thông đường bộ và phương tiện chuyên dùng tham gia giao thông đã có nhiều cố gắng, tăng cường lực lượng và thời gian thực hiện tiếp nhận thủ tục hành chính và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người làm thủ tục đăng ký, cấp biển 56 số cho cá nhân và tổ chức nhanh chóng, thuận lợi. Mặt khác, triển khai các thành tựu tiến tiến của khoa học kỹ thuật vào trong công tác quản lý cụ thể: Công an tỉnh: Triển khai ứng dụng phần mềm đăng ký, quản lý phương tiện giao thông đường bộ qua mạng internet tại 13 điểm đăng ký xe trên địa bàn tỉnh và chương trình bấm số ngẫu nhiên từ đó bảo đảm công khai, minh bạch, nhanh gọn, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính, phòng ngừa sai phạm, tiêu cực, được nhân dân và dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao. Từ năm 2013 đến 2018 đã tổ chức cấp đăng ký mới cho 10.262 ô tô, 154.380 mô tô, xe máy; đăng ký chuyển đến 9.494 ô tô, 5.667 mô tô, xe máy; chuyển đi 5.453 ô tô, 3.322 mô tô, xe máy. Tổng số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh đang quản lý là 837.109 xe (trong đó: 47.026 ô tô; 790.083 mô tô). Ngoài ra, còn có hàng nghìn phương tiện xe ô tô, mô tô, xe máy của các địa phương khác đang hoạt động trên địa bàn tỉnh và khoảng 38.646 xe máy kéo nhỏ chưa được đăng ký, quản lý do không bảo đảm các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh: Thực hiện tốt công tác đăng ký, quản lý, sử dụng xe - máy quân sự và công tác kiểm định an toàn kỹ thuật xe ô tô quân sự. Sở Giao thông vận tải: Công tác đăng ký cấp biển số cho xe máy chuyên dùng và kiểm tra, đánh giá kỹ thuật, chất lượng phương tiện, thẩm định thiết kế xe cơ giới cải tạo được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn thời gian và chi phí cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Từ năm 2013 đến năm 2018 Sở Giao thông vận tải đã cấp giấy chứng nhận đăng ký biển số xe máy chuyên dùng cho 520 phương tiện. Đến năm 2018, toàn tỉnh hiện có 03 Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ với 6 dây chuyền kiểm định. Hoạt động của các Trung tâm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ đáp ứng tốt nhu cầu tổ chức, người dân.. 57 Hệ thống thiết bị kiểm định kỹ thuật phương tiện cơ giới đường bộ đã được đầu tư trang bị thiết bị hiện đại, các trung tâm đăng kiểm được gắn camera quan sát, theo dõi hoạt động kiểm định nên chất lượng kiểm định đã nâng lên đáng kể, thực hiện đúng các quy trình, quy phạm qua đó góp phần nâng cao chất lượng phương tiện, bảo đảm an toàn khi tham gia giao thông. Từ năm 2013 đến năm 2018 đã kiểm định 160.672 lượt phương tiện, trong đó tỷ lệ không đạt chiếm dưới 15%. Mặt khác, sở Giao thông vận tải thường xuyên phối hợp với Công an tỉnh trong thực hiện Chỉ thị số 29/CT-TTG ngày 05/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý phương tiện giao thông hết niên hạn sử dụng, quá hạn kiểm định. Định kỳ, cập nhật, thông báo, công bố và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân tra cứu các phương tiện hết niên hạn sử dụng, quá hạn kiểm định phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm. Đã phối hợp với Công ty TNHH BOT 36.71, công ty cổ phần BOT&BT Đức Long Gia Lai phối hợp thông tin về phương tiện (cung cấp biển số xe) lưu thông hàng ngày qua Trạm thu phí sử dụng dịch vụ đường bộ để kiểm tra, xác minh và phối hợp với Công an tỉnh để xử lý xe quá niên hạn sử dụng, xe hết hạn kiểm định vẫn lưu hành. Công tác quản lý phương tiện và xử lý đối với những phương tiện này chưa triệt để dẫn đến tình trạng phương tiện còn tham gia lưu thông trên đường nguy cơ gây tai nạn giao thông. Theo thống kê (tại mục 2.2.2) thì số vụ tai nạn giao thông liên quan đến phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật chiếm 1.9%. Chính phủ quy định từ ngày 01/01/2008 và lùi lại 2 lần đến ngày 01/01/2010 và ngày 31/12/2010 phải đình chỉ lưu thông đối với xe công nông, xe máy kéo nhỏ, xe độ chế tuy nhiên do ảnh hưởng đến đời sống của người dân, mặt khác do chưa có phương tiện thay thế nên đến nay vẫn chưa hủy bỏ phương tiện này, việc đăng ký phương tiện này chiếm tỷ lệ nhỏ do đó rất khó 58 quản lý. Đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh còn có 38.646 phương tiện là xe máy kéo nhỏ vẫn còn lưu thông trên đường, số xe chưa đăng ký chưa kiểm soát được. Để giảm thiểu tai nạn giao thông liên quan đến phương tiện này Sở Giao thông vận tải đã thực hiện một số giải pháp như kêu gọi xã hội hóa đầu tư và kêu gọi chính quyền địa phương trang bị, gắn phản quang, đèn chiếu sáng được 29.132 xe (đạt 75.4%) . Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm, tiêu cực, bỏ qua một số bước trong quy trình kiểm định. Từ năm 2013 đến 2018 đã ra quyết định xử lý đối với 04 đăng kiểm viên và đình chỉ hoạt động đối với 03 Trung tâm đăng kiểm. 2.2.2.6. Quản lý chất lượng đào tạo người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (công tác đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ) Thực hiện Luật Giao thông đường bộ và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ thì nhu cầu học và lấy giấy phép lái xe của người dân tăng. Thực hiện Quyết định số 513/QĐ-BGTVT, ngày 13/02/2012 của Bộ Giao thông vận tải phê duyệt đề án “Nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông”, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã chỉ đạo Sở Giao thông vận tải tăng cường công tác quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe. Hiện trên địa bàn tỉnh có 10 cơ sở đào tạo lái xe, trong đó có 05 cơ sở đào tạo lái xe ô tô, 05 đơn vị đào tạo lái xe mô tô hạng A1 (4 đơn vị tại các huyện, thị xã và 1 đơn vị tại TP Pleiku); Có 10 trung tâm sát hạch lái xe loại 1; 2 trung tâm sát hạch lái xe loại 2; 8 trung tâm sát hạch lái xe loại 3. Các cơ sở đào tạo lái xe đã đầu tư nhiều thiết bị mới, nâng cấp phòng học, bãi tập lái, trang bị và bổ sung thiết bị giảng dạy, tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên. 59 Từ năm 2013 đến năm 2018 đã tổ chức 1.011 kỳ sát hạch (trong đó: 601 kỳ sát hạch mô tô, 410 kỳ sát hạch ô tô). Hiện nay Sở Giao thông vận tải quản lý 510.730 giấy phép lái xe (trong đó: ô tô các hạng: 85.897 giấy phép lái xe, mô tô: 424.833 giấy phép lái xe). Đến cuối năm 2018, tổng số giấy phép lái xe đã cấp chiếm khoảng 61% so với tông số phương tiện đăng ký trên địa bàn tỉnh. Thông qua công tác sát hạch đã phản ánh chất lượng đào tạo, đặc biệt là chất lượng đào tạo lái xe ô tô đã tăng lên rõ rệt từ khi triển khai chấm điểm tự động, qua đó cũng đã góp phần phòng, chống tiêu cực, bảo đảm thuận tiện, chặt chẽ, nghiêm túc. Đã quan tâm đến công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều cách làm hay, hiệu quả như ban hành giáo trình dạy lái xe bằng tiếng Jrai, có chính sách hỗ trợ trong đào tạo đối với người đồng bào dân tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp, phối hợp với đơn vị bưu chính viễn thông thực hiện cấp mới giấy phép lái xe ngay sau 2 giờ kết thúc sát hạch và sau 2 giờ nhận đủ hồ sơ đổi giấy phép lái xe, trả giấy phép lái xe đến tận nhà người dân,.. qua đó tạo thuận lợi và giảm chi phí đi lại cho người dân. Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Công tác đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe đã ngày một nâng lên, tuy nhiên vẫn còn có tồn tại, hạn chế cụ thể: mặc dù đã được đào tạo kiến thức nhưng ý thức, đạo đức lái xe và chấp hành luật giao thông còn hạn chế; tỷ lệ người đồng bào dân tộc thiểu số được đào tạo, cấp giấy phép lái xe còn thấp. Mặc khác, do giá nhiên liệu và chi phí đầu đầu vào tăng đã ảnh hưởng đến quá trình đào tạo. Một số giáo viên dạy lái xe chưa đảm bảo về tiêu chuẩn trình độ, việc thanh tra, kiểm tra chưa tiến hành thường xuyên nên chưa tác động mạnh mẽ đến nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch lái xe. 60 2.2.2.7. Quản lý hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải Tính đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh có 503 đơn vị được cấp giấy phép kinh doanh vận tải đường bộ bằng ô tô với 3.869 phương tiện, trong đó có 27 Hợp tác xã tham gia kinh doanh vận tải (có các phát sinh về đăng ký và thủ tục vận tải với Sở). So với năm 2013 tăng 09 hợp tác xã, tăng 187 đơn vị kinh doanh vận tải và tăng 1.380 phương tiện kinh doanh vận tải (tăng 64,5%). Có 9 bến xe khách, trong đó có 7 bến xe hoạt động theo mô hình xã hội hóa. So với cuối năm 2013 tăng thêm 01 bến, 03 bến xe được đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng khang trang. Vận tải đường bộ tiếp tục phát triển, hoạt động ổn định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, các đơn vị vận tải không ngừng đầu tư mới phương tiện, ứng dụng tin học trong quản lý, nâng cao chất dịch vụ vận tải, số lượng tuyến vận tải khách tăng, hình thành và mở mới nhiều tuyến vận tải quốc tế (Campuchia, Lào). Đặc biệt, vào các dịp cao điểm vận tải như lễ, tết lực lượng vận tải vẫn đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa, hành khách của nhân dân. Tuy nhiên, chất lượng bến xe khách, bãi đỗ xe trong đô thị, khu đông dân cư, điểm dừng xe trên quốc lộ chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và tốc độ gia tăng của phương tiện giao thông; tổ chức giao thông tại các điểm đấu nối từ đường nhánh vào đường chính chưa bảo đảm an toàn. 2.2.2.8. Kiểm tra, thanh tra và tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ Lực lượng có chức năng tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đường bộ gồm có Công an tỉnh (gồm: cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự, cảnh sát cơ động, công an xã, phường, thị trấn), Thanh tra giao thông và lực lượng kiểm soát quân sự. Hàng năm, đều tăng cường, bổ 61 sung lực lượng, phương tiện đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ đạt kết quả như sau: Công an tỉnh: Tăng cường chỉ đạo các đơn vị, công an các địa phương thường xuyên phối hợp, huy động lực lượng, phương tiện, phát huy tối đa hiệu quả thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, mở các đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; trong đó, tập trung vào các dịp lễ, tết, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, của dân tộc, của tỉnh, tập trung kiểm tra, xử lý nghiêm các đối tượng có nguy cơ gây tai nạn cao, trên tất cả các tuyến, địa bàn, vào thời gian cao điểm thường xảy ra tai nạn giao thông; kết hợp giữa biện pháp tuần tra, kiểm soát công khai với hóa trang, bí mật sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ. Thông qua công tác tuần tra, kiểm soát, lực lượng Cảnh sát giao thông phát hiện và xử lý nhiều trường hợp sử dụng giấy phép lái xe giả, không hợp lệ, chứng nhận đăng ký giả, chứng nhận đăng ký, giấy chứng nhận kiểm định tẩy xóa; kịp thời bắt giữ, bàn giao lực lượng nghiệp vụ xử lý nhiều đối tượng, vụ việc phạm tội liên quan đến công tác đảm bảo an ninh trật tự. Thiết lập trật tự, kỷ cương về trật tự, an toàn giao thông ngay ở địa bàn cơ sở; huy động các lực lượng phối hợp với Cảnh sát giao thông đường bộ tham gia tuần tra, kiểm soát trật tự, an toàn giao thông trong trường hợp cần thiết theo quy định. Triển khai mô hình phối hợp giữa Cảnh sát giao thông phối hợp với Cảnh sát hình sự, Cảnh sát cơ động để tuần tra kiểm soát, xử lý hành vi gây mất trật tự, an toàn giao thông, như: Tụ tập đông người, đua xe trái phép, phóng nhanh, vượt ẩu Từ năm 2013 đến năm 2018, qua công tác tuần tra kiểm soát lực lượng cảnh sát toàn tỉnh đã phát hiện, xử lý 388.830 trường hợp vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, xử phạt 372.350 trường hợp, phạt tiền 171.921 triệu đồng; tạm giữ 78.381 phương tiện các loại, 247.382 giấy tờ xe, giấy 62 phép lái xe, tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn 19.161 trường hợp. Thanh tra giao thông: Đã thực hiện kiểm tra 2.691 lượt phương tiện, phát hiện 1.851 phương tiện vi phạm; lập 2.498 biên bản và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, với tổng số tiền xử phạt 11.830,8 triệu đồng; tước 09 giấy phép lái xe, 04 phù hiệu không do cơ quan có thẩm quyền cấp; tạm giữ có thời hạn 805 giấy tờ các loại; tước quyền sử dụng giấy phép lái xe 24 tháng đối với 01 trường hợp dương tính với morphin; hạ tải 2.780 tấn hàng hóa. Trạm kiểm tra tải trọng xe lưu động tỉnh Gia Lai (Trạm số 55) được thành lập, đưa vào hoạt động ngày 01 tháng 4 năm 2014; từ ngày 01 tháng 4 năm 2014 đến ngày 31 tháng 12 năm 2018, đã dừng, kiểm tra 23.139 lượt phương tiện, phát hiện 1.713 phương tiện vi phạm, tiến hành lập 2.455 biên bản vi phạm hành chính, xử phạt tiền 12.791 triệu đồng; tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn 650 trường hợp, hạ tải 4.065 tấn hàng hóa. Lực lượng kiểm soát quân sự: Đã tổ chức 25 đợt kiểm tra xe ô tô quân sự và xe mô tô do quân nhân điều khiển tham gia giao thông, kết hợp tuyên truyền về công tác an toàn giao thông trong các dịp lễ, tết. Đã thực hiện kiểm tra 394 lượt xe ô tô, 414 lượt xe mô tô, kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý vi phạm. Công tác điều tra, xử lý các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông có dấu hiệu tội phạm: Qua công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm từ năm 2013 đến năm 2018, đã phát hiện, bắt giữ và chuyển giao cho cơ quan chức năng xử lý 86 vụ, 62 đối tượng và nhiều tang vật, phương tiện vi phạm. Thông qua công tác đăng ký, quản lý phương tiện giao thông, điều tra giải quyết tai nạn giao thông đã phát hiện, tạm giữ 147 trường hợp sử dụng giấy phép lái xe, đăng ký, kiểm định giả. Cơ quan cảnh sát điều tra các cấp đã khởi tố 478 vụ/477 bị can liên quan tai nạn giao thông; kết luận điều tra, đề nghị 63 truy tố 464 vụ/480 bị can; tạm đình chỉ điều tra 11 vụ/01 bị can; đình chỉ điều tra 03 vụ/04 bị can; đang điều tra 26 vụ/25 bị can; chuyển Quân đội thụ lý điều tra 29 vụ. Xử phạt hành chính 924 vụ với số tiền 1,4 tỷ đồng và tước 463 giấy phép lái xe. Những kết quả công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ của các lực lượng chức năng đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, tăng cường kỷ cương pháp luật trong hoạt động giao thông, góp phần quan trọng kiềm chế tai nạn giao thông trong điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tăng nhanh, tổ chức giao thông còn bất hợp lý. Tuy nhiên, công tác tuần tra kiểm soát của lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông còn những tồn tại, bất cấp ảnh hưởng đến hiệu quả như: Chưa tập trung xử lý, xử lý chưa triệt để, chưa kiên quyết đối với hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ; còn hiện tượng tiêu cực; Mặc dù được tăng cường lực lượng về số lượng và nâng cao về chất lượng (tổ chức tập huấn nghiệp vụ) nhưng với địa bàn rộng, lưu lượng giao thông gia tăng nên đội ngũ công chức thực hiện nhiệm vụ còn thiếu về số lượng và trang thiết bị phục vụ công tác. Có thời điểm, địa điểm tập trung nhiều lực lượng nhưng có thời điểm, địa điểm chưa thường xuyên dẫn đến kết quả kiểm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquan_ly_nha_nuoc_ve_trat_tu_an_toan_giao_thong_duong_bo_tren.pdf
Tài liệu liên quan