Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định về hình thức di chúc từ Điều 1655 đến Điều 1672 với 5 loại hình thức di chúc khác nhau.
Di chúc văn bản có người làm chứng là di chúc có ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc và phải được người lập di chúc ký trước sự làm chứng của ít nhất 2 người, và những người làm chứng sau đó cũng ký xác nhận vào bản di chúc đó (Điều 1656).
Di chúc viết tay là di chúc do người lập di chúc tự mình viết toàn bộ từ nội dung di chúc tới điền ngày, tháng, năm và ký. Di chúc này không bị ràng buộc về hình thức trình bày (Điều 1657).
Di chúc văn bản công là di chúc được người lập di chúc đọc miệng cho "Kromakarn Amphoe" viết lại trước sự chứng kiến của ít nhất 2 người, sau khi đã được nghe đọc lại và đã xác định chắc chắn văn bản này phù hợp với những tuyên bố của người lập di chúc, người lập di chúc và người làm chứng cùng ký tên mình vào di chúc. Viên chức "Kromakarn Amphoe" điền ngày, tháng, năm và ký vào văn bản bằng tên của mình để chứng nhận rằng di chúc đã được lập hoàn toàn phù hợp với các quy định trên (Điều 1658).
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2227 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về hình thức di chúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ HÌNH THỨC DI CHÚC
Di chúc là "sự thể hiện ý chí cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết" (1). Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức khác nhau. Trong Kinh Cựu ước – bộ sách lớn nhất, cổ nhất và nguyên vẹn nhất còn được lưu truyền đến ngày nay, người xưa đã chép lại rằng bản di chúc của Noe đã được viết bằng tay, rồi được ông đóng con dấu của mình lên để chứng thực; hay như việc Jacob, bằng lời nói, đã để lại cho Joseph phần tài sản gấp đôi so với những người con khác của mình... (2). Có thể câu chuyện từ trong kinh sách tôn giáo không thể là một bằng chứng xác thực cho bất cứ một vấn đề mang tính thực tiễn nào, nhưng ít nhất từ những mẩu chuyện như thế, ta cũng có thể nhận thấy rằng: ngay trong lòng thế giới cổ đại, di chúc đã xuất hiện, và xuất hiện với rất nhiều hình thức đa dạng khác nhau, có thể bằng bản viết tay, cũng có thể chi bằng lời nói.Ngày nay, mỗi nhà nước, mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới lại có những quy định khác biệt về cùng một vấn đề của quan hệ pháp luật dân sự là hình thức của di chúc. Sự đa dạng của hình thức di chúc bắt nguồn từ sự phong phú và nhiều vẻ của cuộc sống con người, từ truyền thống lịch sử của mỗi quốc gia hay từ đặc điểm riêng biệt của mỗi xã hội.Do đó, để thực hiện đề tài " Nghiên cứu so sánh các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về hình thức của di chúc ", chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu các quy định của 5 nước là: Pháp, Nhật, Thái Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam – những quốc gia có những đặc điểm lịch sử và xã hội rất khác nhau. Bộ luật Dân sự Pháp ( hay còn được gọi là Bộ luật Napoleon ) quy định rất chi tiết về hình thức di chúc, từ Điều 967 đến Điều 1001. Hình thức di chúc bao gồm 3 dạng, là: di chúc viết tay, công chứng thư và di chúc bí mật (Điều 969)Di chúc viết tay chỉ có giá trị nếu người lập di chúc tự mình viết toàn bộ phần nội dung, đề ngày, tháng, năm và ký tên. Di chúc này không bị bắt buộc về hình thức trình bày(Điều 970).Công chứng thư phải do 2 công chứng viên hoặc 1 công chứng viên và 2 người làm chứng thừa nhận. Người lập di chúc đọc cho công chứng viên viết tay, hoặc giao cho người khác viết tay, hoặc đánh máy chữ. Sau khi viết xong thì phải đọc lại cho người lập di chúc nghe (Điều 972). Sau đó, người lập di chúc ký tên trước mặt công chứng viên và người làm chứng (Điều 973). Cuối cùng, công chứng viên và người làm chứng phải ký tên vào văn bản (Điều 974). Chỉ khi nào tuân thủ đủ các điều kiện cũng như các thủ tục nêu trên thì một di chúc dưới dạng công chứng thư mới có hiệu lực.Di chúc bí mật là di chúc mà tờ giấy ghi nội dung di chúc hoặc tờ giấy làm phong bì (nếu có) phải được dán kín, đóng dấu và niêm phong. Người lập di chúc đưa bản di chúc đã được dán kín, đóng dấu và niêm phong của mình cho công chứng viên và 2 người làm chứng; hoặc dán kín, đóng dấu và niêm phong ngay trước mặt họ; và tuyên bố rằng nội dung ghi trong tờ giấy đó là di chúc của mình, do tự mình viết hoặc do nhờ người khác viết nhưng đã được mình kiểm tra nội dung. Trong mọi trường hợp, người lập di chúc đều phải chỉ rõ lối chữ đã được dùng, là viết tay hay đánh máy. Sau đó, công chứng viên sẽ viết bản chứng nhận ghi rõ ngày, tháng, năm, nơi lập và mô tả rõ phong bì và con dấu cùng tất cả các thể thức trên đây. Cuối cùng, người lập di chúc, công chứng viên và người làm chứng cùng ký vào bản chứng nhận. Nếu một di chúc bí mật không tuân thủ đủ các thể thức đã nêu trên thì nó không phải là di chúc bí mật, nhưng nếu vẫn thỏa mãn điều kiện của di chúc viết tay thì nó vẫn được công nhận là di chúc viết tay.Ngoài ra, nhà làm luật còn dự liệu một số trường hợp đặc biệt về hình thức di chúc, như di chúc của quân nhân, lính thủy và nhân viên quốc phòng, của người bị ốm hoặc bị thương đang được điều trị trong bệnh viện hoặc các cơ sở quân y... Trong những trường hợp này, cấp chỉ huy hoặc y sĩ trưởng có thể là người chứng nhận cho bản di chúc (Điều 981, 982).Trong mọi trường hợp, di chúc miệng đều không được công nhận ( "Nuncupative wills are not recognized" ) (3).[nguồn: Bộ luật dân sự Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005 ]Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định về hình thức di chúc từ các Điều 967 đến Điều 984. [nguồn: Bộ luật dân sự Nhật Bản, Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội]Di chúc có các hình thức là viết tay hoặc qua công chứng hoặc dưới một dạng tài liệu bí mật trừ, trong một số trường hợp đặc biệt thì cho phép lập di chúc theo thể thức khác (Điều 967).Một di chúc viết tay là di chúc được người lập di chúc viết bằng chính bàn tay mình toàn bộ ngày, tháng, năm, họ tên và đóng dấu vào đó (Điều 968) Để lập di chúc thông qua công chứng thì cần phải hội đủ các thể thức sau: có 2 người làm chứng, người lập di chúc đọc miệng nội dung di chúc cho công chứng viên chép lại, và đọc nó lại cho người lập di chúc và các nhân chứng nghe. Người lập di chúc và từng người làm chứng phải kí và đóng dấu vào bản chép này sau khi tin chắc rằng nó được chép chính xác. Cuối cùng công chứng viên xác nhận bổ sung để cho văn bản được xác lập phù hợp với các thủ tục được nêu ở trên và kí tên đóng dấu ( Điều 969).Để thực hiện việc lập di chúc dưới hình thức văn bản bí mật thì cần hội đủ các thể thức sau: người lập di chúc phải kí tên, đóng dấu vào văn bản, rồi dán văn bản và đóng dấu lên phong bì bằng chính con dấu vẫn dùng trên văn bản, việc này phải được thực hiện trước công chứng viên và ít nhất 2 người làm chứng, và tuyên bố rằng đây là văn bản di chúc của mình cũng như tên họ, nơi thường trú của người viết di chúc này. Sau khi công chứng viên viết lên phong bì đã được đóng dấu ngày, tháng lập văn bản và ngày tháng mà người lập di chúc tuyên bố, đồng thời công chứng viên, người lập di chúc và nhân chứng phải kí tên và đóng dấu của mình vào đó (Điều 970).Trong một số các trường hợp đặc biệt theo luật định thì chấp nhận hình thức di chúc miệng. Điều 976 chỉ rõ: người nào bị bệnh nặng hay trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng muốn để lại di chúc thì có thể để lại di chúc miệng trước 3 người làm chứng bằng cách đọc cho 1 trong số họ nghe nội dung di chúc, người này phải ghi chép lại. Từng nhân chứng sau khi tin chắc văn bản đã được chép đúng thì ký tên và đóng dấu vào đó. Di chúc này chỉ thực sự có hiệu lực khi trong khoảng thời gian 20 ngày kể từ ngày lập nó được người làm chứng hoặc cá nhân có liên quan đưa ra tòa hôn nhân – gia đình xin công nhận. Ngoài ra, trong trường hợp quy định tại Điều 978, khi người lập di chúc đang trên một con tàu sắp đắm, và có nguy cơ chết ngay thì có thể lập di chúc miệng chỉ với 2 người làm chứng. [nguồn: Bộ luật dân sự Nhật Bản, Thư viện trường Đại học Luật Hà NộiBình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1996]Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định về hình thức di chúc từ Điều 1655 đến Điều 1672 với 5 loại hình thức di chúc khác nhau.Di chúc văn bản có người làm chứng là di chúc có ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc và phải được người lập di chúc ký trước sự làm chứng của ít nhất 2 người, và những người làm chứng sau đó cũng ký xác nhận vào bản di chúc đó (Điều 1656).Di chúc viết tay là di chúc do người lập di chúc tự mình viết toàn bộ từ nội dung di chúc tới điền ngày, tháng, năm và ký. Di chúc này không bị ràng buộc về hình thức trình bày (Điều 1657).Di chúc văn bản công là di chúc được người lập di chúc đọc miệng cho "Kromakarn Amphoe" viết lại trước sự chứng kiến của ít nhất 2 người, sau khi đã được nghe đọc lại và đã xác định chắc chắn văn bản này phù hợp với những tuyên bố của người lập di chúc, người lập di chúc và người làm chứng cùng ký tên mình vào di chúc. Viên chức "Kromakarn Amphoe" điền ngày, tháng, năm và ký vào văn bản bằng tên của mình để chứng nhận rằng di chúc đã được lập hoàn toàn phù hợp với các quy định trên (Điều 1658).Di chúc bí mật là di chúc đã được người lập di chúc ký tên vào, dán kín lại và ký tên dọc theo chỗ dán. Khi xuất trình văn bản dán kín này cho "Kromakarn Amphoe" và ít nhất 2 người làm chứng khác nữa xem, người lập di chúc phải tuyên bố rõ ràng văn bản đó bao gồm việc định đoạt theo di chúc của người đó. Sau khi viên chức "Kromakarn Amphoe" ghi lên vỏ bọc ngoài của văn bản tên, lời tuyên bố của người lập di chúc và ngày tháng năm xuất trình và đóng dấu của mình lên đó, thì người lập chúc và người làm chứng phải ký tên lên đó (Điều 1660).Trong trường hợp đặc biệt như đang có nguy hiểm chết người đến nơi, hoặc đang trong thời gian chiến tranh hay có dịch bệnh, một người bị ngăn trở trong việc lập di chúc bằng bất cứ dạng nào đã được kể ra trên đây, thì có thể lập di chúc miệng. Việc lập di chúc này được thực hiện bằng cách tuyên bố ý định về nội dung di chúc trước mặt ít nhất 2 nhân chứng vào cùng lúc. 2 nhân chứng này phải trình bày ngay lại nội dung di chúc cho "Kromakarn Amphoe", cũng như ngày, tháng, năm và hoàn cảnh đặc biệt mà di chúc đã được lập. "Kromakarn Amphoe" ghi nhận lời khai của người làm chứng bằng văn bản, và 2 người làm chứng phải ký vào văn bản đó để xác nhận.[nguồn: Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995]Luật pháp Hoa Kỳ không có những quy định chung thống nhất trên phạm vi toàn liên bang điều chỉnh về hình thức di chúc, mà ở mỗi tiểu bang lại có sự quy định khác nhau về vấn đề này.Điều 29-1-5-2 Bộ luật bang Indiana ghi nhận: " Mọi di chúc, trừ chúc ngôn, đều phải được trình bày dưới dạng văn bản ", tức là người Indiana thừa nhận chúc ngôn là một hình thức di chúc hợp pháp; pháp luật bang Texas quy định khá chi tiết về trường hợp này là: " Không một chúc ngôn nào có hiệu lực, trừ khi nó được làm ra trong thời điểm ốm yếu của bệnh tật, tại nhà của người đó, hay tại nơi mà người đó đang ở trước đó trong vòng 10 ngày... với sự chứng kiến của 3 nhân chứng, với 1 trong số họ là người chép lại nội dung di chúc đó ", trong khi đó luật bang Montana lại khẳng định dứt khoát: di chúc phải ở dưới dạng văn bản ( Điều 72-2-522 Bộ luật bang Montana, điểm (a)).Về chúc thư ở mỗi bang cũng có sự khác biệt. Nếu như ở đa số các bang số lượng người làm chứng đủ để khiến một di chúc là hợp pháp là 2, thì riêng tại bang Vermont con số này là 3. Nếu như bang Louisiana yêu cầu rằng người lập di chúc phải kí vào tất cả các trang của di chúc, và quá trình thực hiện bản di chúc của nguời lập di chúc phải được giám sát bởi một công chứng viên thì luật pháp bang Pennsylvania không đòi hỏi bản di chúc phải được công chứng, mà chỉ cần có 2 người đứng ra làm chứng cho bản di chúc này.Nếu như ở đa số các bang hình thức di chúc dưới dạng tự bút được công nhận phổ biến, nhưng ở một số bang khác lại chỉ chấp nhận hình thức này cho một số cá nhân, như quân nhân, thủy thủ...Nói tóm lại, trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ tồn tại những hình thức di chúc như sau:- Di chúc tự bút do người lập di chúc viết tay hoàn toàn, từ nội dung di chúc tới điền ngày, tháng, năm và ký tên. Di chúc này được công nhận khi xác định được chữ viết trong di chúc thực sự là chữ của người lập di chúc.- Di chúc đánh máy, thông thường là các biểu mẫu di chúc do các chính quyền bang phát, hoặc là các di chúc do luật sư soạn thảo. Loại di chúc này thường chỉ cần người lập di chúc điền ngày, tháng, năm lập di chúc và ký tên. Di chúc có hiệu lực khi có ít nhất 2 người làm chứng hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm chứng.- Di chúc miệng, thường chỉ được áp dụng khi người lập di chúc không thể thực hiện được các hình thức khác, hoặc chỉ được công nhận đối với một số cá nhân nhất định.- Di chúc phi văn bản khác, loài này thường là các băng đĩa ghi âm, ghi hình. Trên lý thuyết phần lớn bộ luật các bang đều không thừa nhận đây là một hình thức di chúc, nhưng trong thực tế xét xử, các tòa án vẫn coi đây là một di chúc đặc biệt, chỉ cần nó thỏa mãn được các điều kiện: nội dung có liên quan trực tiếp đến sự việc; di chúc được làm với tình trạng đầy đủ sức khỏe và minh mẫn tình thần của người lập di chúc, thể hiện được ý chí cá nhân của người lập di chúc, và được tòa án xác nhận là hoàn toàn phù hợp[nguồn: ]Bộ luật dân sự Việt Nam quy định về hình thức di chúc từ Điều 649 đến Điều 661. Những nhà làm luật Việt Nam thừa nhận hai hình thức di chúc là di chúc bằng văn bản ( chúc thư ) và di chúc miệng ( chúc ngôn ) (Điều 649). Di chúc bằng văn bản bao gồm:- Di chúc văn bản không có người làm chứng: được áp dụng khi nó được người lập di chúc tự tay viết và ký tên ( Điều 655).- Di chúc văn bản có người làm chứng: khi người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải có ít nhất 2 người làm chứng ( Điều 656). Sau đó, người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt người làm chứng, và những người này ký xác nhận chữ ký hay điểm chỉ của người lập di chúc.- Di chúc văn bản có công chứng hoặc chứng thực: người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên, người này ghi chép lại nội dung đó, và sau khi người lập di chúc xác nhận những ghi chép đó là chính xác và thể hiện đầy đủ quan điểm của mình, thì ký xác nhận (Điều 658).- Di chúc không có công chứng: là những văn bản di chúc của các cá nhân, không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vẫn được công nhận giá trị hiệu lực.Đặc biệt, theo Điều 660: trong những hoàn cảnh đặc biệt, di chúc dù không tuân theo các quy định về công chứng nhưng vẫn được thừa nhận có giá trị pháp lý như di chúc được công chứng, đó là những đối tượng quân nhân, thủy thủ, người đang được điều trị trong bệnh viện, cơ sở y tế... Di chúc bằng văn bản phải thỏa mãn các điều kiện về trình bày như phải có ngày, tháng, năm lập di chúc, họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc... Di chúc miệng: Trong trường hợp tính mạng bị đe dọa do bệnh tật hoặc một nguyên nhân khác, dẫn đến không có khả năng và điều kiện để lập di chúc dưới dạng văn bản, người lập di chúc có thể làm di chúc miệng.[nguồn: Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội, năm 2006]Sau khi xem xét quy định về hình thức di chúc của các nước như đã trình bày ở trên đây, ta có thể thấy một số điểm tương đồng đáng lưu ý như sau:1. Phần lớn các quốc gia đều thừa nhận có 2 hình thức di chúc chủ yếu, là hình thức văn bản và hình thức lời nói. Thực tế không phải lúc nào người ta cũng có thể viết được di chúc dưới dạng văn bản. Có thể do trình độ học vấn ( mù chữ ), có thể do yếu tố thể chất, sức khỏe ( mù lòa... ), có thể do truyền thống, tập tục dân tộc ( người dân vẫn quen với cách thức thừa kế như từ xưa ), và chủ yếu là do yếu tố bất ngờ, cấp thiết của tình huống ( lâm bệnh nặng, bị thương nặng dẫn đến không còn khả năng viết, lập di chúc; có mặt trên con tàu đang đắm... )... chính những nguyên nhân như vậy đã buộc nhà làm luật phải chấp nhận cho chúc ngôn là một hình thức di chúc, bên cạnh hình thức có giá trị cao hơn, là chúc thư, dù đã ràng buộc nó với nhiều điều kiện khác nhau. 2. Cũng xuất phát từ những yếu tố khó khăn như đã kể ra trên, luật của các quốc gia đều có quy định về các trường hợp lập chúc thư mà không cần có người làm chứng, hoặc không cần có sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông thường, yêu cầu quan trọng nhất của chúc thư trong mọi hệ thống pháp luật đều là phải tuân thủ đủ 3 nguyên tắc: người lập di chúc phải có năng lực chủ thể, tức là phải đạt đến một độ tuổi nhất định, có sự phát triển hoàn toàn bình thường về thể chất và tinh thần...; người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện, không chịu sự tác động từ bất cứ người nào, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép; nội dung của bản di chúc không đi trái lại các quy định của pháp luật, không chống lại các nguyên tắc đạo đức chung của cả xã hội.Giữa mỗi quốc gia có những sự khác biệt tương đối giữa các quy định về hình thức di chúc.- Luật của Pháp không thừa nhận chúc ngôn là hình thức di chúc hợp pháp, không giống như ở đa số các nước khác. Một vài bang ở Hoa Kỳ không thừa nhận chúc ngôn, nhưng trong thực tiễn ở tòa án, các án lệ về chúc ngôn vẫn được dẫn chiếu tới để xét xử. Nguyên nhân của hiện tượng này, có thể là do tập quán chính trị - pháp lý địa phương ( Lousiana là bang ở Hoa Kỳ không công nhận chúc ngôn, bắt nguồn từ việc luật pháp của bang này có nguồn gốc là luật của Pháp, chứ không phải là luật của Anh như các bang khác, do đây từng có thời là thuộc địa của Pháp ); cũng có thể bắt nguồn từ tình hình xã hội lúc biên soạn các bộ luật ( thời điểm năm 1804, lúc Bộ luật dân sự Pháp được biên soạn, đó là một thời kỳ rất rối ren, phức tạp với chiến tranh liên miên, nên việc chấp nhận di chúc chỉ bằng một lời nói khó hội đủ các căn cứ xác đáng, dễ dẫn đến tình trạng kiện tụng kéo dài ). Xem xét trong bối cảnh nước ta hiện nay, có thể nhận thấy yêu cầu phải công nhận hình thức di chúc miệng, bởi nó đáp ứng được nhu cầu rất phức tạp của đời sống xã hội, ngoài ra lại phù hợp với suy nghĩ của dân ta là ngại chuyện giấy tờ phức tạp.- Chúc thư bí mật được một số nước công nhận, còn một số nước thì không ( trong đó có Việt Nam ). Điều này có nguồn gốc tùy vào phong tục tập quán của mỗi dân tộc và đặc điểm, nhu cầu riêng của từng xã hội. Xem xét trong bối cảnh nước ta hiện nay, có thể khẳng định là không cần đến chúc thư bí mật, bởi nó không phù hợp với phong tục của người Việt Nam, vả lại cũng là không cần thiết khi đã cho phép người lập di chúc có thể tự viết di chúc mà không cần công chứng, làm chứng thì cũng có thể đảm bảo được tính mật của bản di chúc.- Các loại hình di chúc phi văn bản khác, như băng đĩa ghi hình, ghi âm, mới chỉ được chấp nhận ở một số bang ở Hoa Kỳ. Đó là do đây là hình thức ghi lại ý chí của con người mới xuất hiện trong thời gian gần đây; việc xác định băng đĩa là rất khó: khó xác định được thời gian, khó xác định thông tin là chính xác hay giả mạo...Dù hình thức di chúc này chưa được phổ biến trên thế giới, nhưng nước ta cũng nên nghiên cứu để áp dụng, bởi sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật là đòi hỏi bức thiết của ngày nay, nhằm theo kịp sự biến đổi rất nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội." Hình thức di chúc là phương tức biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc "(4). Bởi vậy, nghiên cứu về hình thức di chúc có ý nghĩa và vai trò không nhỏ trong việc hoàn thiện chế định về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam. _______________________________(1) Từ điển luật học, Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Nxb Tư pháp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, năm 2006, tr.216, từ mục "di chúc".(2) Xem Legal history of wills, phần Wills in the ancient world.(3) Legal history of wills, phần History of Wills in other jurisdictions, mục France.(4) Giáo trình luật dân sự Việt Nam, modul 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2005, tr.331_______________________________Tài liệu tham khảo1. Bộ luật dân sự Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 20052. Bộ luật dân sự Nhật Bản, Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội3. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 19954. Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội, năm 20065. Giáo trình luật dân sự Việt Nam, modul 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2005, tr.3316. Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 19967. Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Nxb Tư pháp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, năm 20068. Trang web 9. Trang web
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu so sánh các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về hình thức của di chúc.doc