Mục lục
Rủi ro hệthống ngân hàng ởViệt Nam
xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến
1. MộT HệTHốNG NGÂN HÀNG ĐANG TRONG GIAI ĐOạN CHUYểN ĐổI VÀ CÓ
MứC ĐộKHÔNG MINH BạCH RấT CAO.3
1.1. QUÁ TRÌNH CHUYểN ĐổI VÀ CÁC THÁCH THứC.3
1.2. RấT KHÓ ĐÁNH GIÁ VềTÌNH HÌNH TổNG KếT TÀI SảN CủA HệTHốNG NGÂN HÀNG.5
1.2.1. Không có thông tin chắc chắn vềmức độvốn hóa .5
1.2.2. Không có thông tin chắc chắn vềchất lượng tài sản và dựphòng.5
2. HệTHốNG NGÂN HÀNG VÀ CHU TRÌNH TÀI CHÍNH.7
2.1. CÁC BƯớC TRÌNH TựCủA KHủNG HOảNG CHÂU ÁVÀ KHÁI NIệM HƯNG PHấN TÀI CHÍNH CủA F. MISHKIN.7
2.2. LUồNG VốN VÀO,CHU TRÌNH TÍN DụNG VÀ GIÁ TÀI SảN ở VIệT NAM.9
2.3. XU THế ĐÔ LA HÓA:MộT RủI RO TIềM TÀNG NHƯNG HIệN VẫN HạN CHế ĐƯợC.11
3. NHữNG DIễN BIếN CÓ THểDự ĐOÁN .14
TÀI LIỆU THAM KHẢO .
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rủi ro hệ thống ngân hàng ở Việt Nam xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết tài sản bằng ngoại tệ, tỷ suất sinh lời. Việc thiếu thông tin
chắc chắn về mức độ vốn hóa và chất lượng của tài sản hiện là một trở ngại cho việc tiến
hành đánh giá tình hình một cách đầy đủ do hai yếu tố phân tích trên cho phép đánh giá
được tình hình căng thẳng có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng của các nước mới nổi,
1.2.1. Không có thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa
Các thông tin hiện có không cho phép đánh giá chính xác hệ số đủ vốn của hệ thống ngân
hàng. Tuy nhiên, các chuyên gia đều nhất trí cho rằng các ngân hàng Việt Nam nhìn chung
hiện chưa đủ vốn, bản thân Ngân hàng Nhà nước cũng có mục tiêu tăng lượng vốn tối thiểu.
Năm 2004, bộ phận chuyên môn của IMF đã đánh giá rằng nhu cầu vốn của khu vực ngân
hàng sẽ vào khoảng từ 15% tới 25% GDP3. Việc Nhà nước tái cấp vốn cho các ngân hàng
quốc doanh, nhằm tiến tới tư nhân hóa một phần (cổ phần hóa) các ngân hàng này, cũng
như việc vốn nước ngoài tăng mạnh trong một số ngân hàng cổ phần có thể đã cho phép
nâng cao mức độ vốn hóa của khu vực ngân hàng song mức độ vốn hóa này hiện vẫn còn
thấp nếu xét tới tốc độ tăng trưởng nhanh của tín dụng và nguy cơ mất ổn định gắn liền với
các nền kinh tế đang nổi có tốc độ tăng trưởng cao.
Theo đánh giá do Fitch thực hiện vào năm 20064, hệ số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio) của
Việt Nam ở mức trung bình khoảng 5%, mức này thấp hơn rất nhiều so với mức của các
nước châu Á mới nổi khác (14% ở Thái Lan, 13% ở Malaixia, 22% ở Inđônêxia5). Do vẫn còn
chịu tác động của chính sách tín dụng theo mệnh lệnh hành chính và cơ chế áp chế tài chính
trước đây, kể từ những năm 90, các ngân hàng thương mại quốc doanh đã trải qua nhiều
giai đoạn căng thẳng vì thiếu vốn và điều này buộc chính phủ Việt Nam phải nhiều lần tái cấp
vốn. Tình hình của các ngân hàng thương mại quốc doanh, vốn chiếm vị trí trung tâm trong
hệ thống ngân hàng khi kiểm soát tới 75% tài sản, như vậy là rất mâu thuẫn.
1.2.2. Không có thông tin chắc chắn về chất lượng tài sản và dự phòng
Tính chất mệnh lệnh trong quan hệ tín dụng trước đây (đặc biệt là hoạt động cho vay chính
sách) đã cản trở sự phát triển của văn hóa rủi ro trong các tổ chức tín dụng và đặc biệt là
trong các ngân hàng quốc doanh. Kết quả là, các ngân hàng quốc doanh hiện tập trung phần
lớn các khoản nợ xấu theo thông tin của Ngân hàng Nhà nước. Có lẽ tình hình này đang
3 B. Aitken (2004), “Can Vietnam outgrow its banking sector problems ?”, trong IMF Selected Issues,
SM/04/379.
4 I. Tan và P. Tebbutt (2006), “The Vietnam banking system”, trong Fitch Country Report, 24/3..
5 Dữ liệu lấy từ : IMF (2007), Global Financial Stability Report, tháng 9.
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
6/16
từng bước được khắc phục ở cấp độ toàn hệ thống vì hai lý do sau : các ngân hàng cổ phần
đang phát triển mạnh trong cơ cấu ngân hàng với một phương thức quản trị gần với các tiêu
chuẩn quốc tế hơn nếu ta so sánh các ngân hàng cổ phần với các ngân hàng quốc doanh và
kể từ năm 2004, hoạt động cho vay chính sách của các ngân hàng quốc doanh được chuyển
cho các định chế tài chính chuyên biệt (Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng chính sách xã
hội).
Dù có thế nào, văn hóa rủi ro vẫn còn trong thời kỳ đầu phát triển của mình trong khi đó tín
dụng vẫn phát với một tốc độ rất cao. Trong bối cảnh đó, việc không thể có được một hình
ảnh rõ ràng về chất lượng danh mục nợ và dự phòng khiến ta không thể đưa ra một đánh giá
đầy đủ về chất lượng tài sản ngân hàng : nếu tính theo chuẩn kế toán trong nước, tỷ lệ nợ
xấu vào khoảng 3% theo ngân hàng Nhà nước ; và con số này sẽ vào khoảng 15% theo
đánh giá của Fitch trên cơ sở chuẩn mực IAS (International Accounting Standards)6.
6 I. Tan và P. Tebbutt (2006), “The Vietnam banking system”, trong Fitch Country Report, 24/3.
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
7/16
2. Hệ thống ngân hàng và chu trình tài chính
2.1. Các bước trình tự của khủng hoảng châu Á và khái niệm hưng phấn tài
chính của F. Mishkin
Nhiều mô hình nghiên cứu về căng thẳng tài chính đã được xây dựng kể từ cuối những năm
90 nhằm thuật lại các động thái nối tiếp nhau dẫn tới khủng hoảng tại các nước mới nổi7.
Các mô hình này kết hợp tính động năng của các luồng luân chuyển vốn quốc tế với diễn
biến thay đổi của các cơ cấu tài chính trong nước, đặc biệt ở cấp kinh tế vi mô. Chính vì vậy,
các bước trình tự dẫn tới khủng hoảng thường tương đối độc lập với diễn biến của các chỉ số
cơ bản về kinh tế vĩ mô (quan hệ phụ thuộc giữa tình trạng các chỉ số kinh tế vĩ mô xấu đi và
khủng hoảng trong trường hợp này không mạnh bằng trong trường hợp các mô hình được
xây dựng trong những năm 80 để mô phỏng về các cuộc khủng hoảng nợ). Xét trên góc độ
thực nghiệm, các mô hình này có tính chính xác cao đối với trường hợp của các nền kinh tế
mới nổi đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đang từng bước hội nhập vào nền tài
chính quốc tế. Như vậy, có thể sử dụng các mô hình này nhằm xác định các rủi ro mà hệ
thống ngân hàng của Việt Nam hiện đang phải đối mặt.
Trong loại mô hình này, tình trạng rủi ro tài chính vi mô tăng cao bắt nguồn từ hiện tượng các
nguồn vốn đầu vào tăng tốc đổ vào hệ thống tài chính trong nước vốn đã có nhiều bất cập về
mặt thông tin và cẩn trọng. Trong giai đoạn đầu, ngay cả khi cho phép củng cố đà tăng
trưởng, các nguồn vốn nước ngoài đầu vào vẫn là một trong những yếu tố gây ra tình trạng
mất cân đối cho bảng tổng kết tài sản. Điều này đặc biệt đúng với các hệ thống ngân hàng
mà ở đó sự tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn nước ngoài đã tạo điều kiện cho vay nợ
bằng ngoại tệ nhằm tài trợ cho các khoản tín dụng bằng nội tệ (do lãi suất đi vay bằng ngoại
tệ thấp hơn so với lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ, nên biên độ trung gian chênh lệch là
lớn). Trong giai đoạn đầu này, tăng trưởng đi kèm với tình trạng mất cân đối về tài chính và
thị trường chỉ nhìn nhận được một cách hết sức phiến diện trước tác động của không khí
« hưng phấn »8 nói chung. Trong giai đoạn thứ hai, ngược lại đó lại là trạng thái « trầm uất » :
thực vậy, trong một bầu không khí ngày càng mất lòng tin khiến các nhà đầu tư và đặc biệt là
các ngân hàng nước ngoài giảm dần thời gian đáo hạn của các các khoản cho vay, tình trạng
mất cân đối của bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ (tài sản có bằng đồng bản tệ được tài trợ
bởi các tài sản nợ bằng ngoại tệ) sẽ đi liền với tình trạng mất cân đối về kỳ hạn (tài sản có
tức là các khoản cho vay thì mang tính dài hạn trong khi đó các khoản này lại được tài trợ bởi
các khoản đi vay tức tài sản nợ với thời hạn đáo nợ ngày càng bị rút ngắn). Tình trạng ngày
càng căng thẳng đối với tính thanh khoản của hệ thống tài chính cũng chính là tình trạng nợ
nước ngoài ngắn hạn ở mức rất cao (hệ số nợ nước ngoài ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối
tăng). Thanh khoản ngân hàng như vậy nằm ở vị trí trung tâm trong các bước trình tự do loại
mô hình này miêu tả.
Như vậy khủng hoảng xảy ra do một cú sốc ngoại sinh hoặc do sự cạn kiệt nội sinh của chu
trình tài chính :
i. Các mô hình có sử dụng cú sốc ngoại sinh nhấn mạnh tới tác động của kỳ vọng9. Đối với
các chủ nợ quốc tế, do tình hình bảng tổng kết tài sản ngày một xấu đi, chỉ cần một sự kiện
tương đối nhỏ là đủ để làm thay đổi đột ngột về dự báo đối với tính bền vững của việc huy
7 P. Pesenti và C. Tille (2000), « The economics of currency crises and contagion: an introduction », trong Federal
Reserve Bank of New York Economic Policy Review, tháng 9 .
P. Krugman (2001), « Crisis : the next generation ? », Razin Conference, Tel Aviv University, 25-26/3.
Tổng hợp : A. Cartapanis (2004), « Les crises de change : qu’avons-nous appris depuis 10 ans ? » , trong
Economie Internationale, Vol. 7, số 1.
8 F. Mishkin (1998), «Lessons from the Asian crisis », trong Journal of International Money and Finance, 18 (4).
9 P. Artus (2000), Crises de pays émergents. Faits et modèles explicatifs, Economica, Paris.
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
8/16
động tài chính phục vụ nền kinh tế. Một cú sốc như vậy có thể làm khủng hoảng xảy ra
nhanh hơn : các ngân hàng trong nước không còn khả năng đáo nợ bằng ngoại tệ dễ dàng
như trước đây, điều này dẫn tới việc các luồng vốn thuần nước ngoài bị rút khi thời hạn trả
nợ đến. Tình trạng căng thẳng về thanh khoản ngoại tệ làm sụt giảm tỷ giá hối đoái và yếu tố
này đến lượt mình lại làm cho các ngân hàng mất khả năng thanh toán do hiện tượng chênh
lệch tiền tệ (currency mismatch). Thu nhập từ tài sản có bằng đồng nội tệ không còn đủ để
chi trả cho các khoản nợ bằng đồng ngoại tệ đã đến kỳ thanh toán khi tỷ giá hối đoái sụt giảm
gây mất giá đối với đồng bản tệ. Tình trạng mất khả năng thanh toán càng nghiêm trọng hơn
khi khủng hoảng lan sang các lĩnh vực của nền kinh tế thực, làm giảm sút chất lượng của tài
sản ngân hàng do tình trạng nợ xấu tăng và do sự sụt giảm của giá chứng khoán và bất động
sản.
ii. Các mô hình mô phỏng tình trạng cạn kiệt nội sinh được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết của Mishkin về chu trình tài chính. Theo chúng tôi, các mô hình này cho phép ta
biết được một cách rất hoàn chỉnh về tình hình căng thẳng tài chính có thể xảy ra trong một
nền kinh tế mới nổi năng động và có sức hấp dẫn cao trong mắt các nhà đầu tư nước
ngoài10. Tăng trưởng GDP mạnh trong một thời gian dài sẽ thu hút vốn nước ngoài và điều
này đẩy giá chứng khoán lên cao. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ thuận lợi khi huy động vốn,
cả từ thị trường (tăng vốn, phát hành trái phiếu) và từ các ngân hàng (giá trị chứng khoán
của các nguồn vốn tự có của các ngân hàng tăng là một tác động). Tuy nhiên, giá chứng
khoán tăng mạnh, khi thổi phồng giá trị thị trường của tài sản vốn tự có của doanh nghiệp,
dần dần có thể dẫn tới tình trạng chênh giữa khu vực tài chính và khu vực thực : hệ số
nợ/vốn tự có có xu hướng giảm trong khi đó hệ số nợ/thu nhập lại tăng. Điều này được giải
thích bằng việc song song với việc khắc phục hạn chế về thanh khoản và tăng đầu tư về khối
lượng, tín dụng tăng trưởng cộng với hiện tượng vốn nước ngoài ồ ạt đổ váo dần dần sẽ dẫn
tới tình trạng khả năng sinh lời của đồng vốn dần dần giảm (tăng tích trữ vốn sẽ làm giảm
năng suất biên). Xét về mặt thực nghiệm, có thể có ba giai đoạn :
trong giai đoạn đầu, chỉ số cổ phiếu và tín dụng ngân hàng tăng nhanh hơn cả giá trị gia tăng
song giá trị gia tăng vẫn tiếp tục có xu hướng tăng đều. Giai đoạn này tương ứng với tình
trạng « hưng phấn » trên thị trường, điều này làm công tác đánh giá đúng rủi ro trở nên phức
tạp. Tuy nhiên, chính trong giai đoạn tăng trưởng này tình hình có nguy cơ dần dần xấu đi ;
trong giai đoạn thứ hai, hiệu ứng của việc đầu tư quá mức bắt đầu có tác động rõ rệt trong
một số lĩnh vực (bất động sản, xây dựng) và tăng trưởng GDP bị chậm lại. Chất lượng tài
sản ngân hàng bị suy giảm (tỷ lệ nợ xấu tăng). Song song với đó, tình trạng nghi ngờ gia
tăng của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, sẽ gây sức ép đối với thanh
khoản bằng ngoại tệ. Tình trạng kinh tế tăng trưởng chậm lại sẽ làm tăng áp lực nợ ;
trong giai đoạn thứ 3, tình trạng mất lòng tin ngày càng lan rộng gây ra tình trạng rút vốn
thuần, làm giảm giá chứng khoán và sụt tỷ giá. Đây chính là giai đoạn trong đó chu trình tài
chính sau một giai đoạn đỉnh cao bắt đầu đi vào giai đoạn tụt dốc trước sức ép của tình trạng
nợ của nền kinh tế thực. Trước đây, tình trạng này đã bị che dấu khi thanh khoản còn dư
thừa : tình trạng tăng của hệ số nợ/thu nhập đã bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn trước sẽ
ngày càng gia tăng và hệ số nợ/vốn tự có cũng tăng theo do giá giảm trên thị trường tài
chính. Căng thẳng về thanh khoản sẽ gây căng thẳng về khả năng thanh toán và tình hình
này sẽ gây khan hiếm thanh khoản theo cơ chế « chu trình tương tác ». Nền kinh tế sẽ lâm
vào khủng hoảng tài chính vĩ mô.
Trong bất cứ trường hợp nào (cú sốc ngoại sinh hay cạn kiệt nội sinh), các luồng vốn đầu
vào sẽ đột ngột giảm (« sudden stop ») và kéo theo tính trạng mất khả năng thanh khoản của
hệ thống ngân hàng và tiếp đó, một cuộc khủng hoảng ngoại hối sẽ dẫn tới tình trạng mất
khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng. Tình hình trên có thể được đánh giá là một
10 M. Aglietta (2005), Macroéconomie financière, La découverte, Paris.
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
9/16
cuộc khủng hoảng kép. Nếu như các chỉ số cơ bản về kinh tế vĩ mô không phải là nguyên
nhân gây khủng hoảng, thì cuộc khủng hoảng này cũng gây ra mất cân đối kinh tế vĩ mô ở
mức độ nghiêm trọng (tỷ giá sụt giảm, lạm phát tăng cao, bùng nổ nợ chính phủ và đặc biệt
là GDP giảm). Một số yếu tố mất cân bằng có thể ảnh hưởng lâu dài tới tính hiệu quả của
chính sách kinh tế vĩ mô : công tác thực hiện ngân sách sẽ gặp khó khăn do tình trạng nợ
công tăng cao vì Nhà nước phải tái cấp vốn cho các ngân hàng và do tỷ giá hối đoái bị mất
giá ; chính sách tiền tệ sẽ được thắt chặt nhằm thiết lập lại tình trạng cân bằng với bên ngoài
và kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, khả năng tăng trưởng có thể chịu tác động tiêu cực từ
kiểu khủng hoảng này. Đó cũng là trường hợp của Inđônêxia sau thời gian 1998, thời điểm
mà khủng hoảng tài chính đã để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Mô hình thế hệ 3 : bùng phát khủng hoảng do cạn kiệt nội sinh của chu trình tài
chính
Giai Đoạn 1 :
Hệ số (Nợ/Vốn tự có theo giá thị trường)
giảm do giá tăng
Giai Đoạn 2 :
Hệ số (Nợ/Thu nhập) bắt đầu
tăng, tương tự như vậy với hệ số
(chi phí tài chính/Thu nhập)
Giai Đoạn 3:
Hệ số (Nợ/Vốn tự có) tăng và các hệ số (Nợ
/Thu nhập) và (Chi phí tài chính/Thu nhập)
cũng tăng theo. Khủng hoảng ở đây là khủng
hoảng bảng tổng kết tài sản.
2.2. Luồng vốn vào, chu trình tín dụng và giá tài sản ở Việt Nam
Phải chăng ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay đang có được sự năng động tài chính
tương tự như ở các giai đoạn hưng phấn tài chính mà chúng tôi vừa mô tả trong các mô hình
trên đây ? Trên thực tế, những năm vừa qua đã chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng của các
luồng vốn đổ vào hệ thống tài chính Việt Nam. Nguyên nhân là do sức hấp dẫn mạnh mẽ của
thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO và liên tục đạt mức tăng trưởng cao qua
nhiều năm. Lấy ví dụ năm 2007, mặc dù mức thâm hụt vãng lai là khá lớn nhưng nền kinh tế
Việt Nam vẫn thu hút được một lượng ngoại tệ ròng lên đến 9 tỷ USD, tức khoảng 13 đến
14% GDP (xem sơ đồ 1 và 2).
Luồng vốn
quốc tế ồ ạt
đổ vào
Đầu tư thái quá/Dư thừa
năng lực sản xuất
Các nhà đầu tư quốc tế mất long tin trước
tình tr hệ số nợ/thu nhập tăng cao
Chênh lệch
tiền tệ trong
bảng tổng kết
tài sản
Giá tài sản tài
chính tăng
Tăng trưởng
tín dụng >
tăng trưởng
GDP
khả năng sinh lời của
vốn giảm trong khu vực
thực
GDP tăng trưởng chậm
lại
Hệ số nợ ngắn hạn/dự trữ
ngoại hối tăng
Rút vốn
Giá tài
sản giảm
GDP giảm + mất khả năng chi trả các cam kết
với bên ngoài
Ng hàng khủng hoảng khả năng thanh toán làm
giảm lượng tín dụng cấp cho doanh ng
Mất cân
đối về kỳ
hạn trong
ngân hàng
Dự trữ và
tỷ giá sụt
giảm
Ngân hàng bị
kh hoảng
thanh khoản
ngoại tệ
ồ ố
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
10/16
Sơ đồ 1 : Cơ cấu cán cân chung
(Tỷ USD)
Sơ đồ 2 : Cơ cấu cán cân chung
(theo tỷ lệ % của GDP)
-5
-3
-1
1
3
5
7
9
11
13
15
2002 2003 2004 2005 2006 2007 (est.)
balance des capitaux
balance courante
balance globale
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
2002 2003 2004 2005 2006 2007
(est.)
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
balance des capitaux (g)
balance courante (g)
balance globale (d)
Chú thích: balance des capitaux = cán cân vốn; balance courante: cán cân vãng lai ; balance globale = cán cân chung
Nguồn : IMF và AFD/RCH (A. Silve)
Các luồng vốn đổ vào nhiều đã tạo tiền đề cho sự tăng trưởng rất mạnh mẽ của tín dụng
ngân hàng trong những năm vừa qua: tổng dư nợ tín dụng đã tăng từ 30% lên 70% GDP kể
từ cuối những năm 1990. Ngoài ra, kể từ năm 2006, lượng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam
cũng tương quan với mức tăng của chỉ số trên sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh (chỉ số VNI – Viet Nam Index tăng 280% trong khoảng thời gian từ đầu năm 2006 đến
tháng 3 năm 2007) và tính bất ổn đáng kể của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, trong tình
hình bất ổn chung của các thị trường tài chính thế giới, chỉ số VN Index đã giảm mạnh từ
cuối năm vừa qua. Sự sụt giảm này cho thấy rằng giá tài sản ở Việt Nam ngày càng nhạy
cảm hơn trước diễn biến của tình hình kinh tế thế giới.
Sơ đồ 3 : Tín dụng ngân hang Chỉ số 4 : Chỉ số chứng khoán
(% GDP)
0
200
400
600
800
1000
1200
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Nguồn : IMF Ecowin, tính toán của AFD (dữ liệu được sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu của tháng 3)
Trong giai đoạn phát triển nóng của VNI, hoạt động tài chính của các ngân hàng Việt Nam đã
góp phần không nhỏ vào sự gia tăng của các chỉ số chứng khoán. Để đối phó với tình hình
này, các cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ đã tìm cách điều tiết những thái quá của chu
trình tài chính trên đà mất kiểm soát. Theo quy định mới ban hành vào tháng 1, trong năm
nay các ngân hàng có nghĩa vụ ngừng cấp vốn cho các quỹ đầu tư của họ, đồng thời nâng
mức đối trọng rủi ro đối với các khoản tín dụng cấp cho các quỹ đầu tư đó từ 100 lên 150%11.
Tiếp đến, kể từ tháng 6, các ngân hàng có nghĩa vụ giới hạn lượng tín dụng cấp cho các quỹ
đầu tư ở mức 3% trên tổng dư nợ. Cuối cùng, các ngân hàng có nghĩa vụ báo cáo hàng
tháng cho Ngân hàng Nhà nước về tình hình tín dụng dành cho các quỹ đầu tư. Hiện tại, các
danh mục đầu tư chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong các bảng tài sản dường như chủ yếu
11 IMF (2007), Vietnam – Staff Report for the 2007 article IV consultation, août.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
11/16
tập trung tại các ngân hàng cổ phần nhỏ, trong khi đó các ngân hàng thương mại nhà nước
nhìn chung đều cho vay đầu tư chứng khoán ở mức thấp hơn nhiều so với mức trần 3%.
Tình hình phát triển nóng của các thị trường vốn Việt Nam trong giai đoạn từ đầu năm 2006
đến giữa năm 2007 đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ hơn một thị trường tài chính còn non trẻ và
đang phát triển trong bối cảnh tính thanh khoản tăng mạnh. Chính vì vậy, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước (State Securities Commission) đã tìm cách tăng cường sự minh bạch tài
chính của các công ty niêm yết. Đây là một việc làm vô cùng cần thiết khi số lượng công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán đã tăng mạnh trong những năm vừa qua (đặc biệt là
trong tháng 12 năm 2006 để tranh thủ ưu đãi về thuế trước khi các ưu đãi này chấm dứt).
Nhìn chung, quá trình tăng độ sâu cho hệ thống tài chính (có thể xác định được thông qua sự
gia tăng tỷ lệ tín dụng/GDP) đương nhiên là một chiều hướng tích cực bởi vì xu hướng này
phù hợp với sự phát triển của hoạt động liên ngân hàng, tức là phù hợp với xu hướng phát
triển năng lực huy động vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến chất lượng
thể chế, vốn khó đong đếm, khi đánh giá tính bền vững của quá trình tăng trưởng tín dụng
ngân hàng. Sở dĩ như vậy là bởi về mặt lý thuyết, các luồng vốn nước ngoài có thể làm tăng
tính thanh khoản của một hệ thống tài chính chưa được giám sát tốt, non yếu về quản lý rủi
ro và tính minh bạch của chủ thể đi vay.
Mặc dù sự tăng trưởng tín dụng cho phép đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm lãi
suất của các khoản vay ngắn hạn, nhưng sự gia tăng nguồn vốn có thể gây bất lợi ở chỗ nó
làm tăng tính dễ bị tổn thương tài chính trong các bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng
và doanh nghiệp. Về mặt kinh tế vĩ mô, những khả năng dễ bị tổn thương đó – đặc biệt là
mức độ đòn bẩy nợ quá cao và sự phụ thuộc quá nhiều vào ngoại tệ - chính là một yếu tố
quan trọng gây ra rủi ro hệ thống thường gặp trong giai đoạn kinh tế cất cánh với tốc độ cao
và có thể làm trầm trọng thêm những căng thẳng tài chính trong trường hợp có sốc (đặc biệt
là sụt giảm tỷ giá hối đoái và tăng lãi suất).
2.3. Xu thế đô la hóa : một rủi ro tiềm tàng nhưng hiện vẫn hạn chế được
Xu hướng đô la hóa là một yếu tố gắn liền với hệ thống tài chính Việt Nam. Xu hướng này
cần phải được tính đến khi đánh giá về rủi ro hệ thống. Do tỷ lệ đô la hóa tiền gửi khá cao –
cho dù có chiều hướng giảm (hiện này là 25%, trong khi năm 2000 là 40%), nên một phần
hoạt động trung gian ngân hàng đã làm phát sinh các khoản tín dụng bằng ngoại tệ (chủ yếu
là đô la). Kết quả là 22% tín dụng hiện nay đã bị đô la hóa, nhưng quá trình đô la hóa này đã
trải qua hai giai đoạn trong những năm vừa qua:
trong giai đoạn từ 2000 đến 2004, tín dụng bằng đồng đô la đã gia tăng cùng
với sự nới rộng khoảng cách chênh lệch về lãi suất tiền đồng và lãi suất đô la – khoảng
chênh lệch này đã tăng từ 240 lên 710 pdb, mà nguyên nhân là sự đối lập giữa hai xu
hướng : xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ của Mỹ và xu hướng thắt chặt chính sách
tiền tệ của Việt Nam ;
trong giai đoạn từ 2004 đến 2007, mức độ đô la hóa đã giảm đi, có thể là do
việc Hoa Kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ.
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
12/16
Sơ đồ 5 : Tỷ trọng tín dụng bằng ngoại tệ trên tổng lượng tín dụng ( %)
0
5
10
15
20
25
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3)
Bảng 1 : Lãi suất và khoảng cách giữa tín dụng bằng đồng Việt Nam và tín dụng bằng đô la ( %)
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Ngắn hạn, tiền đồng 9,8 8,8 9,9 10 10,7 12 11,8 11,8
Trung hạn, tiền đồng 10,4 9,9 10,8 10,7 11,7 13,6 13,7 13,7
Ngắn hạn, ngoại tệ 7 4,6 4,3 3,1 3,6 5,5 5,5 5,7
Spread giữa tín dụng tiền đồng và tín dụng
ngoại tệ 280 420 560 690 710 650 630 610
Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3)
Việc mở tín dụng bằng ngoại tệ đã cho phép các ngân hàng cân đối được
bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ của họ và hạn chế rủi ro ngoại hối trong một môi
trường thiếu vắng các công cụ bảo hiểm trước những dao động về tỷ giá của đồng Việt
Nam. Tỷ lệ bù đắp của lượng tiền gửi bằng ngoại tệ đối với các khoản cho vay bằng đô la
đã tăng nhanh trong những năm vừa qua : từ 40% năm 2001 lên 80% đầu năm 2007 (sơ
đồ 6). Nhìn từ góc độ này, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam có được một bảng tổng kết
tài sản bằng ngoại tệ tương đối cân bằng: các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 3
đến 4 % của GDP đầu năm 2007, trong khi năm 2001 là 11%. Nếu tính cả các tài sản
bằng ngoại tệ khác ngoài các khoản nợ thì bảng tổng kết bằng ngoại tệ có lẽ gần đạt mức
cân bằng. Xét trên khía cạnh này thì có thể kết luận rằng lĩnh vực ngân hàng của Việt
Nam khác biệt rất lớn so với hệ thống ngân hàng châu Á khác trước cuộc khủng hoảng
1997-98, xét trên phương diện cơ cấu của bảng tổng kết tài sản.
Sơ đồ 6 : Tín dụng và tiền gửi bằng ngoại tệ (% GDP)
Và tỷ lệ bù đắp
0,0
2,0
4,0
6,0
8,0
10,0
12,0
14,0
16,0
18,0
20,0
22,0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
0,0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
0,8
0,9
Crédit en devises - échelle de gauche
Dépots en devises - échelle de gauche
Crédit en fx/Dépots en fx - échelle de droite
Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3)
Chú thích : tín dụng bằng ngoại tệ (các cột bên trái – số liệu bên tung trái ) ; tiền gửi bằng ngoại tệ (cột bên phải, số liệu bên
tung trái)
Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]
13/16
Mặc dù lĩnh vực ngân hàng có được bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ tương đối cân bằng
nhưng không vì vậy mà xóa bỏ được hết các rủi ro của tình trạng đô la hóa hệ thống tài
chính:
chế độ hối đoái Việt Nam gắn với đô la, do vậy có thể được người đi vay nhìn
nhận như một sự bảo hiểm ngầm trước những rủi ro về hối đoái, tương tự như trường
hợp của các nước Đông Nam Á trước khủng hoảng 1997-98. Đối với các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực hàng hóa không trao đổi được (tức là những doanh nghiệp không xuất
khẩu và không có nguồn thu bằng ngoại tệ), sự nhìn nhận sai lệch về rủi ro hối đoái có
thể là một yếu tố rủi ro lớn. Nhìn từ góc độ này, như Ngân hàng thanh toán quốc tế đã
nhấn mạnh nhiều lần trong những năm qua, việc mở tín dụng bằng ngoại tệ sẽ cho phép
các ngân hàng hạn chế được rủi ro hối đoái nhưng có thể làm tăng rủi ro tín dụng nếu
như phương thức tài trợ này làm phát sinh rủi ro hối đoái đối với các các bảng tổng kết
của các đối tác của họ ;
ngoài ra, sẽ có sự mất cân đối về kỳ hạn khá lớn giữa các khoản tiền gửi bằng
ngoại tệ (thường tương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31_nc_bl_systemic_risks_afd_vn_4314_.PDF