Để tìm hiểu sự khác biệt về phổ băng ADN của mẫu ốc
BSMĐ và BSCT chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật RAPD-PCR với hệ thống mồi ngẫu nhiên. Kếtquả phân tích phổ
băng RAPD với 3 mồi đơn là OPA4, OPA 10 và OPA 12
cho thấy có sự đồng hình rất cao giữa hai mẫu BSMĐ và
BSCT, cụ thể chúng tôi không phát hiện ra sự sai khác nào
về các băng được nhân bản. Để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
chúng tôi đã tiếnhành thực hiện phản ứng RAPD cải tiến
bằng cách phối hợp từng cặp mồi với nhau. Kết quả ở hình
10 cũng cho thấy sự đồng hình di truyền cao giữa mẫu
BSMĐ và BSCT. Tuy nhiên trong trường hợp này chúng
tôi đã phát hiện thấy trong số 36 băng nhân bản thì một
băng với kích thước khoảng 500bp chỉ thấy ở mẫu ốc
BSCT (hình 10, cột 4) và băng có kích thước khoảng 750bp
chỉ thấy ở mẫu ốc BSMĐ (hình 10, cột 5). Cả hai băng đều
do kết hợp mồi OPA4 với OPA12.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh hoạt độ của một số enzym bảo vệ tổn thương oxy hoá và phổ băng ADN của ốc bradybaena similaris thu thập ở Mã Đà và Cát Tiên tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SO SÁNH HOẠT ĐỘ CỦA MỘT SỐ ENZYM BẢO VỆ
TỔN THƯƠNG OXY HOÁ VÀ PHỔ BĂNG ADN
CỦA ỐC BRADYBAENA SIMILARIS THU THẬP Ở
MÃ ĐÀ VÀ CÁT TIÊN TỈNH ĐỒNG NAI
Đặng Quang Hưng, Nguyễn Quang Huy, Phan Tuấn
Nghĩa
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
1. MỞ ĐẦU
Các tác nhân oxy hoá như peroxit hydro, các gốc tự do
superoxit (O2.-), gốc hydroxyl (OH.) luôn được hình thành
trong các hoạt động sống của các cơ thể sinh cũng như
trong quá trình tương tác của sinh vật với môi trường.
Chính những tác nhân này là nguyên nhân gây ra các tổn
thương oxy hoá [5]. Để chống lại tác dụng tổn thương của
các tác nhân này, sinh vật đã hình thành các cơ chế bảo vệ
khác nhau, trong đó chủ yếu dựa vào các enzym có hoạt
tính phân huỷ các hợp chất oxy hoá như là superoxit
dismutase (SOD) triệt tiêu gốc superoxit hay NADH
oxidase (NOX), catalase (CAT), alkyl hydroperoxide,
glutathion reductase có tác dụng phân huỷ peroxit
hydro...Chính vì vậy, nghiên cứu các enzym này sẽ là cơ sở
để tìm hiểu sự đáp ứng của cơ thể với các tác nhân oxy hoá
khác nhau bao gồm các tác nhân nội sinh cũng như ngoại
sinh.
Bài báo này trình bày các kết quả nghiên cứu bước đầu về
việc so sánh hoạt độ của enzym SOD, CAT, NOX, phổ
băng protein và ADN của loài ốc Bradybaeana similaris
thu thập từ hai vùng Mã Đà và Cát Tiên (tỉnh Đồng Nai),
đặt cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về sự tác động của
môi trường lên cơ thể.
2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Nguyên liệu.
Loài ốc Bradybaena similaris (Ferussae) được thu thập ở
Mã Đà và Cát Tiên thuộc tỉnh Đồng Nai, được PGS. TS.
Nguyễn Xuân Quýnh định tên khoa học. Mẫu vật được giữ
sống hoặc giữ ở –80oC cho đến khi phân tích.
Mồi dùng cho phân tích phổ băng RAPD bao gồm: OPA4
(5'-AATCGGGCTG), OPA10 (5'-CAGGCCCTTC),
OPA12 (5'-GGGCGGTACT) và thang chuẩn ADN được
đặt từ hãng Invitrogen (Mỹ). Xanthine, xanthine oxidase,
nitro tetrazolium blue (NTB) và riboflavin được mua từ
hãng Sigma (Mỹ), các hoá chất còn lại đều đạt độ tinh sạch
dùng cho phân tích.
Phương pháp nghiên cứu:
Dịch chiết mẫu ốc được chuẩn bị bằng cách loại bỏ vỏ,
cắt lấy phần cơ và nghiền trong cối sứ ở 4oC với tỷ lệ 1g
nguyên liệu: 10 ml đệm chiết (Tris-HCl 100mM, pH 7 chứa
KCl 50mM). Mẫu sau khi nghiền được ly tâm ở tốc độ
10.000 vòng/phút ở 4oC trong10 phút để thu dịch trong
dùng cho phân tích protein và hoạt độ enzym.
ADN của ốc được tách chiết theo phương pháp được
mô tả trong [14] sau đó được hoà tan trở lại trong đệm TE
(Tris-HCl, 10 mM, pH 8 có chứa 2 mM EDTA)
Protein được xác định theo phương pháp của Lowry [8],
dùng albumin huyết thanh bò làm chất chuẩn.
Hoạt độ SOD được xác định theo phương pháp Mc Cord
và Fredovich [11].
Điện di trên gel polyacrylamit được tiến hành theo
phương pháp của Laemmli [7].
Phổ băng SOD được xác định theo phương pháp của
Beauchamp và Fredovich [4].
Hoạt độ NOX được xác định theo phương pháp Poole
& Clairborne [15].
Hoạt độ catalase được xác định theo phương pháp của
Thibodeau và cộng sự [17] và Mottola và cộng sự [12].
Phản ứng RAPD-PCR
Hỗn hợp phản ứng RAPD (25l ) có chứa 0,2mM mỗi loại
dNTPs, 1l mồi (20 pmol) và 2,5 l10X đệm phản ứng (có
25mM MgCl2) và 2,5 đơn vị Taq ADN polymerase. Giai
đoạn biến tính được thực hiện ở 95oC trong 3 phút; tiếp
theo 45 chu kỳ, mỗi chu kỳ gồm các bước thay đổi nhiệt độ
và thời gian: 94oC-30 giây; 36oC- 45 giây;72oC-1 phút tiếp
theo là ử ở 72oC trong 7 phút. Sản phẩm RAPD được điện
di trên gel agarose 1%, nhuộm với ethidium bromide, soi
dưới đèn UV và chụp ảnh.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. So sánh hoạt độ SOD, NOX, CAT của ốc Bradybaena
similaris thu thập từ Mã Đà (BSMĐ) và Cát Tiên (BSCT).
1.1 Hoạt độ SOD của ốc BSMĐ và BSCT
Hình 1: Hoạt độ SOD tổng số của ốc BSMĐ và BSCT.
A: Hoạt độ tính theo mg chất khô, B: Hoạt độ tính theo mg
protein.
Kết quả phân tích hoạt độ SOD của mẫu ốc ở hình 1 cho
thấy hoạt độ SOD của ốc B. similaris ở Mã Đà (BSMĐ) là
khoảng 22 đv/mg chất khô còn ở Cát Tiên (BSCT) là
khoảng 40 đv/mg chất khô và hoạt độ riêng (HĐR) tương
ứng là 1100 đv/mg protein và 2600 đv/mg protein. Như vậy
hoạt độ SOD của BSMĐ là cao hơn so với của BSCT là 1,8
lần.
Kết quả nghiên cứu phổ băng SOD (hình 2) cho thấy hai
mẫu ốc BSMĐ và BSCT đều có phổ băng như nhau với 1
băng rõ nét có Rf 0,13 và một vùng sáng có thể chứa vài
băng SOD với Rf nằm trong khoảng 0,23 - 0,25. Như vậy,
sự khác biệt về hoạt độ SOD của ốc BSMĐ và BSCT ở trên
không liên quan đến số lượng SOD của chúng có mặt trong
mẫu phân tích.
Hình 2: Phổ băng SOD của ốc BSMĐ và BSCT (A:
BSMĐ, B: BSCT)
SOD là nhóm enzym có cofactơ là ion kim loại [5,11]. Để
sơ bộ tìm hiểu ion kim loại có mặt trong SOD của ốc
Bradybaena similaris, chúng tôi đã tiến hành thẩm tích dịch
chiết mẫu trong đệm có chứa EDTA nhằm loại bỏ các ion
kim loại ra khỏi enzym của mẫu nghiên cứu, sau đó tiến
hành xác định hoạt độ SOD với sự bổ sung các ion kim loại
khác nhau. Kết quả thu được ở hình 3 cho thấy quá trình
thẩm tích đã không làm mất hoàn toàn hoạt độ SOD của
mẫu ốc BSMĐ cũng như BSCT. Tuy vậy, trong số 4 loại
ion kim loại hoá trị 2 (Ni2+, Mn2+, Fe2+, Zn2+) được bổ sung
vào hỗn hợp phản ứng thì chỉ Fe2+ có khả năng làm tăng
một phần hoạt độ SOD (khoảng 5%) của BSMĐ cũng như
của BSCT. Việc bổ sung các ion kim loại khác có tác dụng
kìm hãm một phần hoạt độ SOD của BSMĐ và BSCT. Có
thể SOD của BSMĐ và BSCT đều cần Fe2+ cho hoạt động
xúc tác của SOD và SOD của chúng có thể thuộc nhóm
FeSOD.
Hình 3: Ảnh hưởng của ion kim loại lên SOD của ốc
BSMĐ và BSCT
Kết quả phân tích độ bền của SOD trong mẫu ốc BSMĐ và
BSCT với nhiệt (hình 4) cho thấy SOD của cả hai mẫu
nghiên cứu đều không bền với nhiệt. Sau khi xử lý nhiệt ở
80oC trong 15 phút, hoạt độ SOD của cả hai mẫu ốc BSMĐ
và BSCT đều bị mất hoàn toàn và không có sự sai khác
đáng kể về mức độ bền với nhiệt giữa hai mẫu nghiên cứu.
Hình 4: Độ bền với nhiệt của SOD của ốc BSMĐ và BSCT
Hình 5: Hoạt độ NOX của ốc BSMĐ và BSCT
A: Hoạt độ tính mg chất khô, B: Hoạt độ tính theo mg
protein.
Kết quả xác định hoạt độNOX (hình 5) cho thấy hoạt độ
NOX của mẫu ốc BSMĐ là 0,0022 đv/mg chất khô và của
ốc BSCT là 0,0027 đv/mg chất khô. HĐR NOX tương ứng
của BSMĐ và BSCT là 0,12 đv/mg protein và 0,175 đv/mg
protein. Như vậy là hoạt độ NOX của mẫu ốc BSCT cao
hơn BSMĐ khoảng 1,2 lần.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ lên hoạt độ NOX
(hình 6) cho thấy NOX của dịch chiết BSMĐ tỏ ra kém bền
nhiệt hơn so với BSCT, cụ thể khi xử lý ở nhiệt độ 60oC và
80oC dịch chiết của ốc BSMĐ mất tương ứng 25% và 98%
hoạt độ, trong khi đó dịch chiết của BSCT chỉ mất tương
ứng 30% và 60% hoạt độ.
Hình 6: Độ bền với nhiệt của NOX của ốc BSMĐ và BSCT
1.3. CAT của ốc BSMĐ và BSCT
Catalase (CAT) là enzym chủ yếu giữa vai trò phân huỷ các
H2O2 trong hầu hết các cơ thể sinh vật. Kết quả xác định
hoạt độ CAT của mẫu ốc ở hai vùng Mã Đà và Cát Tiên
(hình 7) cho thấy hoạt độ CAT của mẫu ốc BSMĐ là
khoảng 16 đv/mg chất khô và của ốc BSCT là khoảng
20đv/mg chất khô. Hoạt đô riêng CAT của ốc BSMĐ là
900 đv/mg protein và của ốc BSCT là 1400 đv/mg protein.
Như vậy hoạt độ CAT của mẫu BSCT cao hơn của BSMĐ
1,25 lần.
Hình 7: Hoạt độ CAT của ốc BSMĐ và BSCT.
A: Hoạt độ tính theo mg chất khô, B: Hoạt độ tính theo mg
protein.
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ lên hoạt độ
CAT (hình 8) cho thấy không có sự khác nhau đáng kể về
mức độ ảnh hưởng của nhiệt độ lên hoạt độ CAT giữa mẫu
BSMĐ và mẫu BSCT. CAT trong cả hai mẫu đều kém bền
với nhiệt, gần như mất hoàn toàn hoạt độ ở nhiệt độ 80oC.
Hình 8: Độ bền với nhiệt của CAT của ốc BSMĐ và BSCT
Hình 9: Phổ băng protein của mẫu ốc BSMĐ và BSCT. (A:
BSMĐ, B: BSCT).
Kết quả phân tích phổ băng protein của dịch chiết mẫu ốc
bằng điện di (hình 9) cho thấy cả hai loại mẫu ốc BSMĐ và
BSCT có điện di đồ về cơ bản là giống nhau với khoảng 15
băng chính. Tuy nhiên, chúng tôi cũng phát hiện thấy rằng
trong phổ băng protein của ốc BSMĐ (cột A) thấy có xuất
hiện thêm một băng protein với khối lượng phân tử khoảng
21kDa và băng protein này không có mặt ở ốc BSCT (cột
B).
2. Sự đa hình di truyền của ốc Bradybaena similaris ở Mã
Đà và Cát Tiên.
Để tìm hiểu sự khác biệt về phổ băng ADN của mẫu ốc
BSMĐ và BSCT chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật RAPD-
PCR với hệ thống mồi ngẫu nhiên. Kết quả phân tích phổ
băng RAPD với 3 mồi đơn là OPA4, OPA 10 và OPA 12
cho thấy có sự đồng hình rất cao giữa hai mẫu BSMĐ và
BSCT, cụ thể chúng tôi không phát hiện ra sự sai khác nào
về các băng được nhân bản. Để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
chúng tôi đã tiến hành thực hiện phản ứng RAPD cải tiến
bằng cách phối hợp từng cặp mồi với nhau. Kết quả ở hình
10 cũng cho thấy sự đồng hình di truyền cao giữa mẫu
BSMĐ và BSCT. Tuy nhiên trong trường hợp này chúng
tôi đã phát hiện thấy trong số 36 băng nhân bản thì một
băng với kích thước khoảng 500bp chỉ thấy ở mẫu ốc
BSCT (hình 10, cột 4) và băng có kích thước khoảng 750bp
chỉ thấy ở mẫu ốc BSMĐ (hình 10, cột 5). Cả hai băng đều
do kết hợp mồi OPA4 với OPA12.
Hình 10: Kết quả điện di sản phẩm RADP-PCR của ốc
BSMĐ và BSCT với các cặp mồi OPA4+OPA10 (cột 2 và
3); OPA4+OPA12 (cột 4 và 5) và OPA10+ OPA12 (cột 6
và 7)
Cột 1: Thang chuẩn ADN 1kb
Cột 2,4,6: mẫu ốc BSCT; Cột 3,5,7: mẫu ốc BSMĐ.
4. THẢO LUẬN
Superoxide dismutase, NADH oxidase, catalase là các
enzym bảo vệ tổn thương oxy hoá có mặt phổ biến trong
các cơ thể sinh vật. Rất nhiều enzym đã được tinh sạch,
nghiên cứu tính chất, gen mã hoá cũng như xác định về mặt
chức năng từ các đối tượng sinh vật khác nhau [5]. Tuy vậy
cho đến nay vẫn còn rất ít công trình nghiên cứu về sự liên
quan của các enzym này với các tác động của môi trường.
Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi về SOD, NOX và
CAT ở ốc B. similaris, thu thập ở hai vùng Mã Đà và Cát
Tiên cho thấy hoạt độ enzym tổng số trong mẫu ở Cát Tiên
luôn cao hơn so với hoạt độ của các enzym tương ứng ở Mã
Đà. Cụ thể hoạt độ SOD, NOX và CAT của mẫu BSCT cao
hơn so với của BSMĐ tương ứng là 1,8 lần (hình 1), 1,2
(hình 5) và 1,25 lần (hình 7). Khi phân tích phổ băng SOD
bằng kỹ thuật điện di cho thấy sự giống nhau giữa các mẫu
BSMĐ và BSCT (hình 2). Sự giống nhau về SOD còn được
thể hiện ở mức độ ảnh hưởng của các ion kim loại lên hoạt
độ SOD (hình 3), điều này chứng tỏ sự khác nhau về hoạt
độ SOD giữa hai mẫu là không liên quan đến số SOD có
mặt trong mẫu nghiên cứu.
Khác với SOD, chúng tôi chưa có điều kiện để phân tích
phổ băng của NOX cũng như của CAT, vì vậy chúng tôi
chưa thể khẳng định được sự sai khác về hoạt độ của NOX
và CAT của các mẫu nghiên cứu giữa hai vùng thu mẫu Mã
Đà và Cát Tiên có phải là do sự khác nhau về số lượng
enzym có mặt hay do mức độ biểu hiện của các gen hay do
các nguyên nhân khác. Những sai khác về hoạt độ của một
số enzym oxy hoá như glutathionine peroxidase,
glutathionine reductase ở chuột do xử lý bằng dioxin cũng
đã được đề cập trong một vài nghiên cứu trước đây [1,2,6].
Tuy vậy các tác giả cũng chưa có các điều tra chi tiết về
những sai khác này.
Mayuree và cộng sự [9,10] khi nghiên cứu tác động của
H2O2 và Fe2+ lên sự biểu hiện của gen catalase (kat) hay
peroxidase (per) ở B. subtillis đã cho thấy các hợp chất này
không tác động trực tiếp lên cat hay per của tế bào mà đã
hoạt hoá một số protein điều hoà mà có ái lực với promoter
của các gen này, do đó dẫn đến làm tăng hoạt độ của các
enzym. Sự có mặt của băng protein 21 kDa ở mẫu BSMĐ
mà không có ở mẫu BSCT (hình 9) là cơ sở để nghĩ rằng sự
khác nhau về hoạt độ SOD, NOX và CAT có thể liên quan
đến cơ chế hoạt hoá/ức chế biểu hiện gen tương tự như các
gen kat và per ở B. subtillis.
Kết quả phân tích sự ảnh hưởng của nhiệt độ lên hoạt độ
NOX của mẫu ốc B. similaris cũng cho thấy có những sự
khác biệt nhất định về mức độ ảnh hưởng việc xử lý nhiệt
lên hoạt độ enzym này giữa các mẫu BSMĐ và BSCT, mặc
dầu không thấy có sự khác biệt đáng kể về ảnh hưởng của
nhiệt độ lên hoạt độ SOD và CAT giữa hai mẫu BSMĐ và
BSCT.
Tóm lại, chúng tôi đã phát hiện được những sai khác về
hoạt độ SOD, NOX, CAT về phổ băng protein và phổ băng
ADN giữa hai mẫu ốc B. similaris thu thập được ở hai vùng
Mã Đà và Cát Tiên. Tuy vậy, sự khác biệt trong phổ băng
protein, phổ băng ADN có liên quan với nhau hay không và
có liên quan đến sự khác biệt về hoạt độ của 3 enzym SOD,
NOX và CAT đã được điều tra hay không là vấn đề thú vị
cần được tiếp tục nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albayati, Z. A., Wahba, Z. Z., Stohs, S. J., 1988.
2,3,7,8-tetrachlorodibenzo -p-dioxin (TCDD)-induced
alterations in lipid peroxidation, enzymes and divalent
cations in rat testis. Xenobiot. 18:1281-1289.
2. Albert, P. Senft., Timothy, P. Dalton., Daniel, W.
Nebert., Mary, B. G., Richard, J. Hutchinson., Howard, G.
Shertzer., 2002. Dioxin increases reactive oxygen
production in mouse liver mitochrondria. Toxicol. Appl.
Pharmacol., 178: 15-21.
3. Aruoma, O. I., Halliwell, B., 1991. DNA damage and
free radicals. Chem. Br., 2:149-152.
4. Beauchamp, C., Fridovich, I., 1971. Superoxide
dismutase: improved assays and assay applicable to
acryamide gels. Anal. Biochem., 44: 276-287.
5. Farr, S.B. and Kogoma, T. 1991. Oxidative stress
responses in Escherichia coli and Salmonel typhimurium.
Microbiol. Rev. 55:561-585.
6. Hermanski, S. J., Holcslaw, T. L., Murray, W. J.,
Markin, R. S., Stohs, S. J., 1988. Biochemical and
functional effects of 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin
(TCDD) on the heart of female rats. Toxicol. Appl.
Pharmacol., 95: 175-184.
7. Leammli, V. K., 1970. Cleavage of structure protein
during the assembly of the head of bacterophage T4.
Nature., 227: 680-685.
8. Lowry, O. H., Rosebrough, N. J., Farr, A. L., Randall.
R. J., 1951. Protein measurement with the folin phenol
reagent. J. Biochem., 193: 265-270.
9. Mayuree, F., Andrew, F. H., Nada, B., John, D. H.,
2002. Regulation of the Bacillus subtilis of the PerR
regulon are peroxide inducible. J. Bacteriol., 184(12):
3276-3286.
10. Mayuree, F., Andrew, F. H., Nada, B., John, D. H.,
2002. Regulation of the Bacillus subtilis of the PerR
regulon are peroxide inducible. J. Bacteriol., 184(12):
3276-3286.15. Mayuree, F., John, D.H., 2002. The OhrR
repressor senses organic hydroperoxides by reversible
formation of a cysteine-sulfenic acid derivative.
Proc.Natl.Acad.Sc 99 (10): 6690-6695.
11. Mc Cord, J. M., Fridovich, I., 1969. Superoxid
dismutase an enzymic function for erythocuprein. J. Bio.
Chem., 244: 6049-6055.
12. Mottola, H. A., Simpson, B. E., Gorin, G., 1970.
Absorptiometric determination of hydrogen peroxide in
submicrogram amount with leuco crystal violet and
peroxidase as catalyst. Anal. Chemistry., 42: 410 – 411.
13. Park, J. Y., Shigenaga, M. K., Ames, B. N., 1996.
Induction of cytochrome P450A1 by 2,3,7,8-
tetrachlorodibenzo-p-dioxin or indolo (3,2-b) carbazole is
associated with oxidative DNA damage. Proc. Nat. Acad.
Sci. USA., 93: 2322-2327.
14. Phan Tuấn Nghĩa, Trần Công Tước, Huỳnh Thị Thu
Huệ và Phạm Văn Lập, 1999. Tạp chí Di truyền và ứng
dụng. Số 3: 56-60
15. Poole, L.B. and Claiborne, A. 1986. Interactions of
pyrimidine nucleotide with redox forms of the flavin-
containing NADH peroxidase form from Streptococus
faecalis. J. Biol. Chem. 261:14525-14533.
16. Poland, A., Knutson, J. C., 1982. 2,3,7,8-
tetrachlorodibenzo-p-dioxin and related halogenated
aromatic hydrocarbons: Examination of the mechanism of
toxicity. Annu. Rev. Pharmacol. Toxicol., 22: 517-554.
17. Thibodeau, E. A., Keefe, T. E., 1990. pH-dependent
fluoride inhibition of peroxidase activity. Oral Microbiol.
Immunol., 5: 328-331.
Summary
COMPARISION OF ACTIVITIES OF SOME
ENZYMES OF PROTECTION AGAINST
OXIDATIVE DAMAGE AND DNA BANDING
PATTERNS OF Bradybaena similaris COLLECTED
FROM MA DA AND CAT TIEN
(DONG NAI PROVINCE)
The activities and thermostabilities of 3 enzymes:
superoxide dismutase (SOD), NADH oxidase (NOX) and
catalase (CAT) involved in protection against oxidative
damage and the protein and DNA banding patterns of
Bradybaena similaris collected from Ma Da and Cat Tien
(Dong Nai Province) were compared.
It was found from the study that the activities of SOD,
NOX and CAT of Bradybaena similaris collected from Cat
Tien were (1.8, 1.2 and 1.25 times respectively) higher than
those collected from Ma Da. The protein profiles of the
samples from both sites appaered to be similar, however,
one band of 21 kDa was found only in the sample collected
from Ma Da. The DNA banding patterns of the both
samples were very similar; however, one band of
approximately 500 bp was present only in the MA Da
sample, whereas one band of approximately 750 bp was
found only in the Cat Tien sample. The results suggested
that futher investigation of the differences in activities of
the studied enzymes and the protein and DNA banding
patterns is needed to elucidate the effects of the
environment on the system.
Người thẩm định nội dung khoa học: GS. Lê Đình Lương.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 107_1007.pdf