Sự cần thiết phải gia nhập wto

 PHẦN I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIA NHẬP WTO 1

 PHẦN II: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA WTO 2

 PHẦN III: TÌNH HÌNH CHUẨN BỊ GIA NHẬP WTO CỦA VN 3

 PHẦN IV: THUẬN LỢI – KHÓ KHĂN KHI GIA NHẬP WTO 6

 PHẦN V: MỘT SỐ CHUYỂN ĐỘNG KHI GIA NHẬP WTO 9

 

doc13 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự cần thiết phải gia nhập wto, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức năng chính: Quản lý các hiệp định về Thương mại quốc tế. Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại. Giải quyết các tranh chấp thương mại. Giám sát các chính sách thương mại. Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các quốc gia đang phát triển. Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác. Cùng với việc ra đời của WTO, phạm vi của tiến trình tự do hóa thương mại đa phương ngày càng mở rộng, không còn dừng ở các vấn đề mang tính chất thương mại thuần tuý. Thương mại ở đây bao hàm cả thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư nước ngoài, chính sách cạnh tranh, minh bạch hóa các thủ tục mua sắm chính phủ, thuận lợi hóa thương mại, thương mại và môi trường... Điều này đòi hỏi các nước cần có sự điều phối chặt chẽ, nhịp nhàng giữa nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Trong thời gian qua, nhiều nền kinh tế với các mức độ phát triển khác nhau đã lần lượt gia nhập WTO. Đặc biệt, sự kiện Trung Quốc – quốc gia với số dân đông nhất thế giới chiếm 1/5 thị trường tiêu dùng của thế giới, khoảng 25% thương mại của VN với nước ngoài – gia nhập WTO vào năm 2001 có tác động mạnh đến kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam (VN) nói riêng. Tính đến nay, số thành viên WTO đã lên tới 148, chiếm 97% thương mại toàn cầu và 25 quốc gia đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Trong tương lai gần, tổ chức này sẽ có số thành viên bằng số thành viên của Liên hợp Quốc (191 nước). Từ khi WTO khởi đầu vòng đàm phán mới (Vòng Doha) đã có một số nước đang phát triển gia nhập vào tổ chức này; gần đây nhất là Campuchia và Nê-pan. Một vài nước đã rút ngắn quá trình đàm phán thậm chí bỏ qua hầu hết các bước để nhanh chóng được kết nạp. Nhân tố đó cho thấy gia nhập WTO đang ngày càng có vai trò hấp dẫn hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá trong đó có VN. Hiện nay, chỉ còn VN cùng với Lào trong ASEAN và ASEM, cùng với Nga trong số 21 nền kinh tế APEC chưa phải là thành viên của WTO. Ngoài ra còn có Ukraina và Arab Saudi là các nền kinh tế đáng kể vẫn đứng ngoài WTO (riêng Arab Saudi đang ở giai đoạn cuối cùng của tiến trình gia nhập). Các nguyên tắc cơ bản của WTO (Mot.gov.vn) WTO vừa là một tổ chức quốc tế chính thức và cũng là một hệ thống quy tắc có liên quan tới đàm phán cạnh tranh, là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương. 1. Không phân biệt đối xử Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác (công dân nước mình) đối xử không kém ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho sản phẩm của một nước thứ ba (người nước ngoài) (Đãi ngộ Tối huệ quốc – MFN/ Đối xử quốc gia - NT) Có một số ngoại lệ trong nguyên tắc này như: các nước có thể thiết lập một hiệp định thương mại tự do áp dụng với những hàng hóa giao dịch trong một nhóm quốc gia, phân biệt với hàng từ bên ngoài nhóm. 2. Thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ thông qua các cuộc đàm phán song và đa phương, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. 3. Dễ dự đoán: Các nhà đầu tư cũng như chính phủ nước ngoài tin chắc rằng các hàng rào thương mại sẽ không bị tăng một cách tuỳ tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp khác bị “ràng buộc” về mặt pháp lý. 4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp, dành các đặc quyền cho một số DN nhất định. 5. Dành cho các thành viên đnag phát triển một số ưu đãi: Cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách. Lợi ích của các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển đã tăng nhiều qua các vòng đàm phán. Các nước giàu trong WTO đã và đang rộng mở hơn đối với hàng xuất khẩu từ những nước kém phát triển như: cho phép nhập khẩu tự do, không thuế, không hạn ngạch và trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. Tình hình chuẩn bị gia nhập WTO của VN * Các giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO của VN (VnExpress) Giai đoạn 1: Nộp đơn xin gia nhập VN đã nộp đơn xin gia nhập WTO vào tháng 1/1995. Ban công tác về việc gia nhập của VN được thành lập vào 31/1/1995 với 38 quốc gia và lãnh thổ thành viên trong đó có EU và Mỹ. Giai đoạn 2: Gửi “Bị Vong lục về Chế độ ngoại thương VN” tới Ban công tác vào tháng 8/1996, giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, các thông tin chi tiết về chính sách thương mại hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Giai đoạn 3: Làm rõ chính sách thương mại Ban công tác tổ chức các phiên họp tại trụ sở WTO (Geneva, Thụy Sỹ) để đánh giá tình hình chuẩn bị của ta và để ta có thể trực tiếp giải thích chính sách (chính sách, bộ máy quản lý, thực thi chính sách, hỗ trợ nông nghiệp, trợ cấp trong công nghiệp, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật). Đến 5/2003, VN đã tham gia 6 phiên họp của Ban Công tác. Về cơ bản, VN đã hoàn thành giai đoạn làm rõ chính sách. Tuy nhiên đây là một quá trình liên tục, các thành viên chính thức của WTO vẫn phải cung cấp thường xuyên các thông tin giải thích chính sách của mình. Giai đoạn 4: Đưa ra các bản chào ban đầu và tiến hành đàm phán song phương Trải qua nửa thế kỷ, các thành viên WTO chỉ duy trì bảo hộ sản xuất trong nước chủ yếu bằng thuế quan với thuế suất nói chung khá thấp. Để được hưởng cơ chế MFN, VN phải cam kết chấp nhận các nguyên tắc đa biên đồng thời giảm mức bảo hộ của mình: cam kết thuế suất thuế NK tối đa, lộ trình loại bỏ hàng rào thuế quan. Mặt khác, VN cũng phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài trong mọi lĩnh vực dịch vụ: tài chính, ngân hàng, xây dựng, vận tải Mức độ mở cửa này tiến hành thông qua đàm phán song phương với tất cả các thành viên quan tâm tới thị trường VN. Dựa trên các bản chào ban đầu về mở cửa thị trường của VN, các thành viên sẽ yêu cầu VN giảm bớt mức độ bảo hộ ở một số lĩnh vực. VN sẽ xem xét điều chỉnh mức độ này cho đến khi mọi thành viên đều chấp nhận. Việc đàm phán được tiến hành với từng nước thành viên yêu cầu đàm phán, về toàn bộ và từng nội dung nói trên cho tới khi kết quả đàm phán thỏa mãn mọi thành viên WTO. Đầu năm 2002, VN đã gửi Bản chào đầu về thuế quan và Bản chào đầu về dịch vụ tới WTO. Bắt đầu từ phiên họp 5 của Ban Công tác (4/2002), VN đã tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên của Ban công tác. Đến nay, chúng ta đã đưa ra 4 bản chào về hàng hóa và dịch vụ. Mức thuế chúng ta chào trung bình là 18% với lộ trình 3-5 năm. Về dịch vụ, chúng ta đã chào 10 ngành gồm: kinh doanh, thông tin, ngân hàng và tài chính, phân phối, xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật có liên quan, y tế và xã hội, du lịch, văn hóa và giải trí, vận tải, giáo dục; và 92 phân ngành. Tính đến 15/12/2004 (thời điểm kết thúc Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9), VN đã kết thúc đàm phán song phương với 6 nước (Argentina, Brazil, Chile, Cuba, EU và Singapore) và gần hoàn tất đàm phán với 7 đối tác song phương khác. Việc kết thúc đàm phán song phương với EU (09/10/2004) – một trong các thành viên quan trọng nhất của WTO và là đối tác thương mại lớn nhất – chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu – là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy việc hoàn tất tiến trình đàm phán gia nhập WTO của VN. Để có mặt trong WTO vào tháng 12/2005, các chuyên gia dự đoán VN cần phải tiến hành 2 phiên đàm phán về nội dung và 2 phiên về kỹ thuật. Theo lịch, vào ngày 31/3/2005, phiên đàm phán đa phương tiếp theo sẽ diễn ra. Như vậy, cần thêm một phiên nữa vào khoảng tháng 6/2005 và kết thúc 2 phiên kỹ thuật vào mùa thu để Ban công tác kịp chuẩn bị cho VN gia nhập WTO nhân Hội nghị Bộ trưởng tại Hồng Kông tháng 12/2005. Giai đoạn 5: Hoàn thành Nghị định thư gia nhập Một Nghị định thư nêu rõ các nghĩa vụ của VN khi trở thành thành viên WTO sẽ được hoàn tất dựa trên các thỏa thuận đã đạt được sau các cuộc đàm phán song phương, đàm phán đa phương và tổng hợp các cam kết song phương. Giai đoạn 6: Phê chuẩn Nghị định thư 30 ngày sau khi Chủ tịch nước hoặc Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư, VN sẽ chính thức trở thành thành viên WTO. Gia nhập WTO là bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của VN, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, theo kịp với sự phát triển của khu vực và thế giới. Song không phải vì vậy mà VN chấp thuận mọi đề nghị của các nước, bằng mọi giá để gia nhập WTO. Trong quá trình đàm phán, mặc dù bị sức ép rất lớn của tất cả các nước, VN vẫn kiên trì nguyên tắc VN là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi nên mức độ mở cửa thị trường phải phù hợp và có thời kỳ quá độ. * Chặng đường tới WTO: Theo ông Hoàng Phước Hiệp – Vụ trưởng Pháp luật Quốc tế – Bộ Tư pháp – Phó đoàn đàm phán Chính phủ về việc gia nhập WTO (VnExpress 19/12/2004) Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 diễn ra tại Geneva ngày 15/12/2004 gồm 3 phần: 1. Rà soát bản dự thảo báo cáo của Ban công tác về vấn đề VN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. 2. Hỏi đáp xoay quanh vấn đề minh bạch hóa chính sách của VN. Các nước thành viên Ban công tác tập trung hỏi về vấn đề luật pháp và khả năng thực thi các cam kết gia nhập. 3. Bàn về hoạt động lập pháp. Các nước sau khi nghe VN trình bày về lộ trình ban hành các văn bản pháp luật liên quan tới WTO, đều ủng hộ với hy vọng quá trình thực thi lộ trình tốt. Nhìn chung, các phần đều diễn ra suôn sẻ. Tuy tại phiên đàm phán lần này, ta chưa kết thúc đàm phán song phương với đối tác nào song một số nước tuyên bố gần như đã kết thúc. Đa số các nước đều hỗ trợ VN gia nhập WTO trong đó nhiều nước có ý ủng hộ VN kết thúc trước Hội nghị Bộ trưởng WTO vào tháng 12/2005 với điều kiện VN phải tích cực hơn nữa trong sửa đổi luật pháp và thực thi các cam kết. Các cam kết VN đưa ra trong tài liệu gửi tới Ban công tác lần này gồm: - Cam kết về thuế quan đã được Chính phủ phê duyệt, khoảng 18,5% với hàng công nghiệp và cao hơn một chút với hàng nông sản. - Đối với vấn đề thực thi các Hiệp định của WTO, VN cam kết sẽ cố gắng xóa bỏ trợ cấp với các mặt hàng nông sản ngay khi gia nhập, song đề nghị có một số nhân nhượng và có giai đoạn quá độ đối với một số lĩnh vực. Đa số các nước thành viên Ban công tác đều yêu cầu VN thực thi ngay mọi cam kết và hiệp định của WTO khi gia nhập như: các biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), Hiệp định về Trị giá Hải quan (CPA), mở cửa sớm ngay khi gia nhập các lĩnh vực giao thông vận tải, kế toán, kiểm toán Các thành viên cũng rất quan tâm tới sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là Đài Loan, Mỹ – 2 trong 10 nước có vốn đầu tư lớn nhất vào VN. Một số nước còn quan tâm đến sự phân biệt đối xử giữa các loại hình DN: thương mại nhà nước, cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề sở hữu trí tuệ trong đầu tư Để được gia nhập, khi ra đại hội đồng để bỏ phiếu, mỗi nước cần ít nhất 2/3 số phiếu đồng ý mới được gia nhập, trong đó tất cả các nước trong “tứ trụ triều đình” phải đồng ý - ngoài Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, sắp tới sẽ có thêm Trung Quốc - được nhận định là đối tác mà VN cần nhiều thời gian để đàm phán nhất trong tổng số khoảng 30 đối tác song phương. Trong “tứ trụ triều đình”, đàm phán với EU đã hoàn tất, Mỹ và Canada cũng bật đèn xanh, ủng hộ VN sớm gia nhập. Trước khi đi đến kết thúc, Mỹ còn muốn xem lại bản chào về nông nghiệp. Riêng Nhật Bản vẫn chưa bày tỏ quan điểm gì. Nhìn chung, sự ủng hộ của các nước rất rõ rệt và khả năng đàm phán trước cuối năm 2005 cũng rất lớn. Để đạt được kết quả này, ít nhất đến tháng 6/2005, VN phải tiến hành xong 2 phiên nội dung, sang mùa thu sẽ xong phiên kỹ thuật. Vấn đề còn phụ thuộc vào khả năng chịu đựng và thực thi các cam kết của VN cũng như mức độ nhân nhượng của các đối tác. Nếu không thể gia nhập trong năm 2005, thương mại VN trên thị trường thế giới sẽ chịu rất nhiều thua thiệt, nhất là khi các nước đã mở rộng cánh cửa cho nhau trừ VN. Thị phần trên thị trường quốc tế do đó sẽ nhỏ lại kèm theo sự thu hẹp khả năng cạnh tranh và cơ hội làm ăn của DN. Đặc biệt khi vòng đàm phán Doha kết thúc, các nước sẽ ký thêm một số thỏa thuận mở cửa thị trường, khi đó VN nghiễm nhiên phải gánh vác các nghĩa vụ lớn hơn nhiều (không được đàm phán mà chỉ chấp nhận). Thuận lợi, khó khăn - Cơ hội, thách thức khi VN gia nhập WTO 1. Những thuận lợi và khó khăn trong và sau quá trình gia nhập WTO a. Thuận lợi: (TBKT 11/11/2004) - Lợi ích lớn nhất khi VN gia nhập WTO là có thị trường toàn cầu để tăng kim ngạch XK do WTO có tới 148 nước thành viên, 25 nước đang đàm phán gia nhập, chiếm 90% thương mại hàng hoá, , 85% thương mại dịch vụ toàn cầu. - Với gần 2/3 kim ngạch xuất khẩu là các loại nông, thuỷ sản, nếu là thành viên đầy đủ của WTO, VN sẽ có lợi ích lớn hơn nếu có bất kỳ một tác động nào dẫn đến làm giảm trợ cấp nông sản tại các nước phát triển. Ngay từ khi còn là quan sát viên, các đối thủ về lĩnh vực hàng nông, thuỷ sản của VN dù có quy chế thành viên của WTO vẫn còn phải cạnh tranh tương đối khó khăn nhờ lợi thế chi phí thấp. Do đó, khi đã chính thức gia nhập WTO, hàng nông, thuỷ sản VN chắc chắn sẽ có vị thế lớn hơn trên thị trường quốc tế. Thu nhập về xuất khẩu các mặt hàng đó sẽ gia tăng kèm theo sự phát triển lớn hơn các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp trong nước, cải thiện thu nhập và việc làm của hàng chục triệu nông dân. - Khi gia nhập WTO, hàng hóa và dịch vụ của VN sẽ được hưởng ưu đãi và đối xử công bằng hơn b. Những khó khăn (vneconomy) - Hiện nay VN chỉ có khoảng 14-15 sản phẩm có khả năng cạnh tranh khi gia nhập WTO. Trong khi đó, phần lớn các DN VN đến nay vẫn có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng cạnh tranh không cao. Theo lộ trình gia nhập WTO, VN sẽ phải cắt giảm các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, áp dụng chế độ MFN đối với các DN nước ngoài trên thị trường VN. Vì vậy, việc đững vững trên thị trường nội địa là một thách thức rất lớn đối với các DN VN. - Khi gia nhập WTO, hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nền kinh tế thị trường sẽ phải điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng các cam kết quốc tế: Cơ chế “xin - cho”, vấn đề bảo hộ, trợ cấp XK sẽ dần bị loại bỏ. Một số bộ ngành sẽ chuyển sang quản lý bằng hình thức tiêu chí kỹ thuật. Trong thời điểm việc đàm phán đã đi được gần 2/3 chặng đường, DN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc “chạy nước rút” vượt các chướng ngại vật để hội nhập kịp thời. + Luật đầu tư nước ngoài sẽ phải sửa đổi để loại bỏ những điều khoản mang tính phân biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài và trong nước vì chúng vi phạm nguyên tắc MFN. + Những quy định mang tính tranh cãi như tỷ lệ nội địa hóa, tỷ lệ xuất khẩu sẽ phải bãi bỏ. + Sẽ không còn bảng giá tối thiểu để áp tính thuế nhập khẩu vì sẽ phải áp dụng thỏa thuận định giá hải quan của WTO. + Bộ Thương mại cũng khó tiến hành thưởng DN có thành tích xuất khẩu vì vi phạm chế độ trợ giá. - Ngoài những luật lệ của WTO, VN còn phải chịu ràng buộc với những nhân nhượng song phương, nếu bất kỳ điều khoản nào trong một Hiệp định song phương nào đó cao hơn ràng buộc WTO thì sẽ tự động chuyển thành cam kết của VN đến mọi thành viên khác. - Là thành viên gia nhập sau, VN còn phải chịu sức ép phải nhận những cam kết giảm thuế, mở cửa thị trường cao hơn các nước thành viên khác. Ví dụ, trong đàm phán song phương với EU, sau này sẽ áp dụng cho mọi thành viên WTO khác, VN chấp nhận mức thuế trần cho nông sản nhập khẩu là 24% (cao hơn mức thuế của hai nước thành viên trong khu vực là Philippines và Thái Lan đến 10%). - Dù VN có vào WTO vào cuối năm 2005, các nước vẫn xem VN là nước có nền kinh tế “phi thị trường”. Sản phẩm VN bán trên thị trường thế giới do đó rất dễ bị kiện phá giá vì người kiện sẽ không chịu so sánh với giá bán ở VN mà sẽ dùng giá ở nơi có lợi cho họ. Thậm chí, quy chế tối huệ quốc mà bất kỳ nước thành viên WTO nào cũng hưởng có thể bị Mỹ từ chối đối với VN vì phụ thuộc vào cái gọi là điều khoản Jackson-Vanik do Mỹ xem xét hàng năm. 2. Cơ hội và thách thức a. Cơ hội (Vneconomy, VnExpress) - Hàng nông sản và dệt may của VN sẽ có cơ hội đẩy mạnh XK và thâm nhập thị trường mới trên toàn cầu: các thành viên WTO đã cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng nông sản 36%, hàng công nghiệp 33%, hàngdệt may 32%. Đặc biệt trong khuôn khổ WTO, từ 1/1/2005, sẽ bỏ toàn bộ hạn ngạch đối với NK hàng dệt may từ các nước thành viên; tiến tới xóa bỏ các khoản trợ cấp trong nước đối với nông nghiệp. - Hàng hóa, dịch vụ của VN sẽ có cơ hội được đối xử bình đẳng như hàng hóa và dịch vụ của tất cả các thành viên khác. - VN được quyền tham gia vào các chính sách thương mại toàn cầu do đó có vị thế quốc tế lớn hơn, tự bảo vệ được quyền lợi của mình cũng như được bảo vệ tốt hơn trong giải quyết tranh chấp thương mại nhờ hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO; hạn chế được các vụ kiện chống bán phá giá. - VN cũng sẽ được hưởng một số ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển trong thời kỳ chuyển đổi cũng như trong việc thực hiện các nghĩa vụ của tổ chức này. - Vào WTO VN buộc phải cải thiện luật pháp và chính sách minh bạch, ổn định, dễ dự đoán. Song đó lại là điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước, hạn chế các tiêu cực trong xã hội. - Những bất lợi chủ yếu như thu nhập thấp, năng suất thấp, khả năng cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài không cao cũng có thể được khắc phục một cách hiệu quả hơn khi không còn bị phân biệt đối xử vì lý do chưa phải là thành viên của WTO như hiện nay. - Gia nhập WTO là cơ hội để các DN VN vươn lên thông qua việc tiếp cận thuận lợi hơn các công nghệ tiên tiến, rút ngắn khoảng cách tụt hậu. - VN khi đã là thành viên chính thức của WTO có thể cải thiện vị trí của mình trong nền kinh tế thế giới thông qua các cơ chế hoạt động của WTO dựa trên những lợi thế so sánh đã được khẳng định trên thị trường thế giới: chi phí nhân công thấp, vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu kinh tế quốc tế b. Thách thức: (vneconomy 5/1/05) Gia nhập WTO, bên cạnh những cơ hội VN cũng phải đối mặt với không ít thách thức nhưng “bộ ba” sau đây có lẽ sẽ là lớn nhất: - Thứ nhất, sẽ có một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các DN trong nước - đa số là các DN vừa và nhỏ với các DN nước ngoài hoạt động ở thị trường nội địa. Trong cuộc cạnh tranh này, nhiều DN sẽ vươn lên nhưng cũng không ít các DN phải dừng lại. Do vậy, cũng phải đặt ra vấn đề an sinh để bảo vệ người lao động, tạo sự ổn định xã hội. - Thứ hai, các sản phẩm của các DN VN có nguy cơ bị loại khỏi cuộc chơi toàn cầu hóa ngay trên sân nhà bởi thiếu sự chăm bẵm, giáo dưỡng đầy đủ của chính những DN đã tạo ra nó. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phù hợp với các quy định của WTO như: hỗ trợ đào tạo cán bộ, hỗ trợ nâng cao chất lượng hàng hóa và bao bì - Thứ ba, hệ thống phân phối sản phẩm với mạng lưới chợ, cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại của nước ta hiện quá yếu kém (theo một quan chức cấp cao Bộ Thương mại), gây khó khăn cho các DN trong quá trình hội nhập: không kiểm soát được toàn bộ quá trình phân phối, nhà sản xuất không những không tiếp cận được thị trường, không quảng bá được thương hiệu của mình mà còn dễ xảy ra sự tăng giá, phá giá, đầu cơ Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ phù hợp như ỗ trợ phát triển mặt hàng mới, thị trường mới, giữ vững thị trường cũ, hình thành các mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường trong nước trước khi mở cửa hoàn toàn để hội nhập và gia nhập WTO. Việc hội nhập vào nền thương mại thế giới là một tất yếu bởi đó là cách duy nhất để tự tạo cơ hội phát triển nhanh, thoát khỏi tình trạng tụt hậu. Tuy nhiên, với thực trạng đội ngũ doanh nhân nhỏ, lạc hậu, các sản phẩm cùng hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại không đáp ứng được những đòi hỏi của nền thương mại văn minh, nguy cơ bị “đo ván ngay trên sân nhà” đang hiển hiện trước mắt. Thách thức lớn, để tồn tại, chỉ có cách vượt lên. Chúng ta đã vào AFTA và APEC một cách suôn sẻ và tất yếu sẽ phải vào WTO vì xét cho cùng đó cũng là một cái đích quan trọng trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới vì lợi ích của đất nước. Một số chuyển động cần thiết khi gia nhập WTO I. Luật TM phải có hơi thở của WTO: (VnExpress 18/11/2004) Theo ý kiến của các đại biểu tại buổi thảo luận dự án Luật Thương mại sửa đổi (08/11/2004): WTO chấp nhận việc gia nhập có lộ trình cho các nước đang phát triển như VN. Do đó, dự án Luật thương mại sửa đổi cũng cần thể hiện các đặc thù này, đảm bảo sự hội nhập của nền kinh tế VN. Trong quá trình hội nhập, Luật cũng cần quản lý chặt các vấn đề hợp tác với nước ngoài, tránh gây bất lợi với doanh nhân trong nước. Dấu ấn của doanh nhân – đối tượng chủ yếu của Luật quá mờ nhạt. Khái niệm thương nhân còn chưa đầy đủ, chưa quy định rõ trình độ, đạo đức, trách nhiệm của thương nhân. II. Chính sách thuế hội nhập của VN (VnExpress 4/1/2005) Theo ý kiến của PGS-TS Quách Đức Pháp – Vụ trưởng Vụ chính sách thuế, Bộ Tài chính - Phó đoàn Đàm phán Chính phủ về việc gia nhập WTO Hội nhập thực chất là việc thực hiện công khai, minh bạch, công bằng trong chính sách và sự tương thích về kỹ thuật thực hiện. Theo quan điểm này, VN vẫn đảm bảo thực hiện đúng các cam kết theo lộ trình: CEPT, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ Riêng lộ trình gia nhập WTO, hiện tại còn 21 quốc gia ta chưa tiến hành đàm phán trong đó quan trọng nhất là về thuế. Chúng ta đã dự kiến về mức trần thuế suất và hiện đang có lợi thế có thể được chấp nhận. Đàm phán với EU, Mỹ, Trung Quốc đang có diễn biến tốt. Hiện đã đến bước viết dự thảo – một bước quan trọng gần tới việc thỏa thuận, chỉ chờ đến các phiên họp tiếp theo. Dự kiến đến tháng 12/2005, chúng ta có thể được gia nhập WTO. Đến thời điểm này, VN vẫn thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết về cắt giảm thuế quan. Đối với 12 loại phí – hiện có phân biệt giữa DN trong và ngoài nước – dự kiến sẽ được thống nhất vào cuối quý I/2005. Một số loại thuế đối với một số mặt hàng vẫn có phân biệt cũng sẽ được thống nhất theo lộ trình. Vấn đề này luôn có sẵn phương án giải quyết (ghi trong luật); trường hợp đến thời điểm thực hiện các cam kết quốc tế đã ký có hiệu lực hoặc có văn bản ký kết mới, sẽ thực hiện theo văn bản mới, tránh việc phải chỉnh sửa luật, đảm bảo tính tương thích linh hoạt đối với các thông lệ quốc tế. Ngành Tài chính đã xây dựng các chiến lược cải cách thuế, chiến lược hiện đại hóa hải quanđể đảm bảo tính tương thích về kỹ thuật thực hiện các chính sách trong quá trình hội nhập. Các chiến lược đã được xây dựng xong và được phê duyệt, sang năm 2005 sẽ được tiếp tục đẩy mạnh thực hiện. Ngành Thuế cũng đã có một sự chuyển biến lớn dựa trên sự công khai, minh bạch của chính sách thuế: bỏ thông báo thuế, chuyển sang phương pháp tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Cũng nhằm mục tiêu gia nhập WTO, VN cũng đang thực hiện cơ chế đối xử tối huệ quốc (MFN) đối với các nước đã có cam kết song phương (đã thực hiện được với 90/146 nước). Đây chỉ là các vấn đề đàm phán kỹ thuật. Nguyên tắc chung là phải công bằng về đối xử, tiến tới một mặt bằng chung về thuế suất với các nước. Để tham gia hội nhập trong những năm tới, công cuộc cải cách thuế, hải quan còn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Song quan trọng nhất là phải phù hợp với thực tế của chúng ta và đặc biệt xây dựng con người hiện đại trong thực hiện nhiệm vụ. III. Một số việc cần làm trước và sau khi gia nhập WTO (cpv.org.vn; vir.com.vn) - Cải cách và sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước cho phù hợp với luật lệ quốc tế: + Cần có các quy định cụ thể, các cơ chế thực thi quyền và nghĩa vụ trong các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ. Riêng ở lĩnh vực thương mại dịch vụ, phải xây dựng và hoàn thiện khung luật pháp để đáp ứng các cam kết với WTO về khoảng 12 nhóm ngành, với trên 150 ngành cụ thể. - Phải xây dựng một hệ thống chính sách minh bạch, ổn định, dễ dự đoán, xóa bỏ cơ chế “xin – cho”, chuyển cơ chế điều hành từ hình thức cấp phép, định lượng sang điều hành gián tiếp bằng luật, tiêu chuẩn kỹ thuật và các công cụ khác, phù hợp với thông lệ của thương mại thế giới. - Tạo mọi điều kiện để các cấp, các ngành đặc biệt là các DN hiểu được các quy định của WTO và những cam kết đa phương, song phương. Đồng thời phải sửa đổi và xây dựng mới hệ thống luật pháp cho phù hợp với các hiệp định đã thỏa thuận và ký kết. - Nhanh chóng đổi mới cơ cấu nền kinh tế, phát huy các ngành hàng có lợi thế trước mắt và lâu dài, tập trung đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu có chất lượng phù hợp với yêu cầu thị trường đồng thời có khả năng cạnh tranh để thâm nhập thị trường thế giới. - Dịch vụ là ngành kinh tế quan trọng, được các nước công nghiệp phát triển coi là thước đo trình độ phát triển kinh tế: Ngành dịch vụ pử Mỹ chiếm 80% GDP, của EU chiếm từ 60-70%. Trong khi đó, ngành dịch vụ của VN lại có xu hướng giảm: năm 2003 chỉ còn có trên 39% GDP. Vì vậy, cần nhanh chóng phát triển ngành này trong đó Nhà nước quản lý các lĩnh vực dịch vụ công, các lĩnh vực khác nên từng bước mở cho các DN thuộc các thành phần khác tham gia. - Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập và tham gia hoạt động trong các tổ chức quốc tế trong đó có WTO. Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý cho DN ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0188.doc
Tài liệu liên quan