Sự đa diện trong chiến lược kinh tế của Trung Quốc

Nhà nước luôn đóng vai trò lớn trong nền kinh tế

Trung Quốc, nhưng trong phần lớn thời kỳ cải cách từ

cuối những năm 1970, vai trò này đã tạm giảm xuống

khi các trang trại tập thể nhà nước giải thể và các

doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thiếu hiệu quả

phải đóng cửa. Tham gia WTO năm 2001 là canh bạc

lớnmà giới lãnh đạo đặt vào thị trường tự do. Và họ

đã thắng đậm, với tăng trưởng liên tục duy trì cao

trong cả thập niên qua.

pdf9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự đa diện trong chiến lược kinh tế của Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự đa diện trong chiến lược kinh tế của Trung Quốc Nhà nước đang vươn những chiếc vòi khổng lồ của mình chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế trọng yếu ở Trung Quốc. Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các cường quốc thế giới nhìn chung thống nhất tinh thần ủng hộ cạnh tranh thị trường tự do trong các hoạt động kinh tế. Chiến lược kinh tế quốc gia của Trung Quốc từ đó luôn là "kẻ phá ngang" sự đồng thuận đó. Cứ nhìn vào sự phất lên của ông trùm năng lượng Zhu Gongshan sẽ biết tại sao. Năm 2007, việc thiếu silic đa tinh thể - nguyên liệu chính để sản xuất pin mặt trời - đe dọa tới ngành công nghiệp điện mặt trời đang ở vào thời kỳ non trẻ của nước này. Giá silic đa tinh thể tăng chóng mặt, đạt tới 450 USD/kg năm 2008, tức gấp 8 lần trong một năm. Các công ty nước ngoài chi phối sản xuất và đẩy chi phí này lên cao khiến Trung Quốc bị ảnh hưởng. Bắc Kinh cũng phản ứng mau lẹ: tuyên bố phát triển nguồn cung silic đa tinh thể là ưu tiên quốc gia. Tiền được đổ vào các nhà sản xuất từ các công ty và ngân hàng nhà nước; chính quyền địa phương giải quyết nhanh các thủ tục cấp phép cho nhà máy mới. Ở trời Tây, xây dựng nhà máy silic đa tinh thể phải mất vài năm trời, đòi hỏi thông qua nhiều thủ tục dài dòng. Ông Zhu, một doanh nhân đã bỏ 1 tỷ USD để xây dựng một nhà máy, bắt đầu sản xuất chỉ trong vòng 15 tháng. Vài năm sau, ông đã gây dựng được một trong những cơ ngơi sản xuất silic đa tinh thể lớn nhất thế giới mang tên GCL-Poly Energy Holding Ltd. Quỹ đầu tư quốc gia của Trung Quốc chi 710 triệu USD sau đó mua lại 20% cổ phần GCL-Poly. Hiện nay, Trung Quốc chiếm khoảng ¼ sản lượng silic đa tinh thể của thế giới và kiểm soát gần một nửa thị trường thiết bị điện mặt trời thành phẩm toàn cầu. Phương Tây tỏ ra bức bối chủ yếu vì chính sách định giá nội tệ thấp của Bắc Kinh; tổng thống Mỹ Barack Obama phản đối mạnh mẽ việc làm này tại hội nghị thượng đỉnh G20 vừa rồi. Cú chạy "thần tốc" của ông Zhu càng xoáy sâu hơn vào vấn đề: chiến lược kinh tế quốc gia của Trung Quốc rất phức tạp và đa diện, và chiến lược ấy đang thách thức Mỹ và các cường quốc khác trên nhiều mặt trận. Trọng tâm trong cách tiếp cận của Trung Quốc là dành ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh tiếp thu công nghệ tiên tiến và quản lý tỷ giá hối đoái để hỗ trợ các nhà xuất khẩu, thúc đẩy kiểm soát nhà nước đối với hệ thống tài chính nhằm tập trung nguồn vốn chi phí thấp cho các ngành công nghiệp nội địa và các nước giàu tài nguyên, khoáng sản mà Trung Quốc cần để duy trì tăng trưởng nhanh. Chính sách của Trung Quốc một phần là sản phẩm của vị thế độc nhất mà nước này đang có: một quốc gia đang phát triển, đồng thời là một siêu cường đang lên. Các nhà lãnh đạo nước này không cho rằng thị trường là ưu việt. Thay vào đó, họ coi quyền lực nhà nước là thiết yếu để duy trì ổn định và tăng trưởng. Nhà nước vươn những chiếc vòi của mình chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế trọng yếu Mô hình này đang tỏ ra ưu thế, đặc biệt khi niềm tin vào tính hiệu quả của thị trường và năng lực của các chính trị gia đang lung lay ở hầu khắp phương Tây. Vốn đã là cường quốc xuất khẩu lớn nhất thế giới, Trung Quốc tiếp tục vượt Nhật trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trong năm nay. Nhà nước luôn đóng vai trò lớn trong nền kinh tế Trung Quốc, nhưng trong phần lớn thời kỳ cải cách từ cuối những năm 1970, vai trò này đã tạm giảm xuống khi các trang trại tập thể nhà nước giải thể và các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thiếu hiệu quả phải đóng cửa. Tham gia WTO năm 2001 là canh bạc lớn mà giới lãnh đạo đặt vào thị trường tự do. Và họ đã thắng đậm, với tăng trưởng liên tục duy trì cao trong cả thập niên qua. Nhưng nhà nước đã bắt đầu lấy lại vai trò của mình. Nhiều nhà phân tích cho rằng tốc độ tự do hóa đã chậm lại. Bằng chứng là một loạt các ngành vẫn do các công ty nhà nước chi phối và các doanh nghiệp nước ngoài bị hạn chế chặt chẽ. Chính phủ sở hữu gần như toàn bộ các ngân hàng lớn tại Trung Quốc, cùng ba công ty dầu lửa lớn, ba hãng viễn thông và các công ty truyền thông tầm cỡ. Theo Bộ Tài chính Trung Quốc, tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước năm 2008 là 6 nghìn tỷ USD, tương đương 133% sản lượng kinh tế hàng năm của năm đó. So sánh với Pháp, nơi chính phủ được cho là "lớn nhất" phương Tây, tổng tài sản của cơ quan kiểm soát doanh nghiệp chính phủ tại đây là 686 tỷ USD năm 2008, chưa bằng 28% quy mô kinh tế nước này. Nhà nước có vai trò ngày càng lớn trong trong các ngành từ khai thác than cho tới internet. Điều này tạo cho họ sức mạnh to lớn trong việc theo đuổi các mục tiêu chính sách đặt ra trong các kế hoạch 5 năm (đôi khi là 15 năm). Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Bắc Kinh là: dần chấm dứt phụ thuộc vào công nghệ đắt đỏ của nước ngoài. Đây là quá trình khởi đầu với các chính sách kinh tế "mở cửa" do Đặng Tiểu Bình khởi xướng năm 1978, tạo ra làn sóng thu hút các công ty công nghệ nước ngoài. Những công ty như Microsoft, Motorola đều đã thành lập cơ sở R&D (nghiên cứu và phát triển) và giúp đào tạo một thế hệ các nhà khoa học, kỹ sư, quản lý Trung Quốc. Quá trình đó đang diễn ra rất sôi động. Năm 2006, lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố "Kế hoạch phát triển khoa học - công nghệ trung hạn và dài hạn", một kế hoạch chi tiết đưa Trung Quốc trở thành trung tâm công nghệ vào năm 2020. Chương trình này tham vọng tăng gần gấp đôi tỷ trọng tổng sản phẩm nội địa cho nghiên cứu và phát triển, từ 1,3% năm 2005 lên 2,5%. Trong khi tìm kiếm công nghệ mới, nhà nước cũng sử dụng quyền kiểm soát ngân hàng để phân phối tín dụng rẻ cho các ngành họ muốn "nuôi dưỡng". Chính phủ định lãi suất cho người gửi tiền tại các ngân hàng tương đối thấp so với tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát. Điều đó có nghĩa là các hộ gia đình trung Quốc, thông qua các ngân hàng, đã trợ cấp một cách hiệu quả cho các ngành thuộc ưu đãi của nhà nước. Nhà sản xuất thiết bị viễn thông Huawei Techologies đã "bành trướng" ra nước ngoài từ lâu, nhờ sự ủng hộ của Ngân hàng Phát triển Trung Quốc. Năm 2004, ngân hàng này đã gia hạn gói tín dụng thời hạn 5 năm trị giá 10 tỷ USD và liên tục cho người mua hàng nước ngoài vay tiền mua sắm sản phẩm của Huawei. Doanh thu của Huawei tăng hơn 200% trong 5 năm qua, và trở thành một trong ba công ty viễn thông hàng đầu, cùng với Nokia Siemens Networks vàTelefon AB LM Ericsson. Sprint Nextel mới đây đã loại Huawei và ZTE (công ty truyền thông khác của Trung Quốc) ra khỏi hợp đồng trị giá hàng tỷ đôla, do Mỹ lo ngại các công ty này có quan hệ với quân đội Trung Quốc. Quyết định của Sprint là bước lùi đối với Huawei tại một thị trường khó thâm nhập như Mỹ và cho thấy những quan ngại đối với chính sách của Trung Quốc đang bắt đầu khiến nước này phải trả giá. Với Trung Quốc, nguy cơ lớn nhất lại đến từ bên trong. Một vài nỗ lực tạo đột phá trong công nghệ cao bằng sắc lệnh đã thất bại. Việc sản xuất bộ vi xử lý 100% bằng công nghệ trong nước phải mất nhiều năm mới bắt chước được các tính năng như các sản phẩm của Intel và Advanced Micro Devices, trong khi các hãng này còn không ngừng tiến bộ. Công nghệ điện thoại di động của Trung Quốc vẫn chưa thể đứng vững ở nước ngoài, dù chính phủ ra điều kiện công ty điện thoại lớn nhất của Trung Quốc phải thực hiện nhiệm vụ này. Trong dài hạn, Trung Quốc cũng gặp phải không ít thách thức đe dọa tới tăng trưởng, như dân số đang già hóa do duy trì chính sách một con suốt mấy thập niên trở lại đây, môi trường kém bền vững do tốc độ công nghiệp hóa quá cao và "ẩu".

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf22_2189.pdf
Tài liệu liên quan