Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước kiểu mới trong cách mạng giải phóng dân tộc

Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 là Hiệp định, văn kiện ngoại giao đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký với nước ngoài. Quyền dân tộc cơ bản đã bước đầu được khẳng định trong văn bản ngoại giao. Đó cũng là cơ sở pháp lý quan trọng không chỉ có ý nghĩa quan hệ với Pháp mà cả quan hệ với các nước khác. Tiếp tục những vấn đề do Hiệp định sơ bộ đặt ra, Hội nghị trù bị họp ở Đà Lạt giữa đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn Chính phủ Pháp ngày 19-4-1946 để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức sẽ diễn ra ở nước Pháp. Hội nghị trù bị Đà Lạt không có kết quả, phía Việt Nam kiên quyết bác bỏ ý đồ của Pháp thiết lập trở lại chế độ thuộc địa ở Việt Nam.

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12717 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước kiểu mới trong cách mạng giải phóng dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh vai trò và sự tổ chức quản lý của bộ máy chính quyền nhà nước các cấp trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Người cũng thẳng thắn và nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém, lỗi lầm của bộ máy chính quyền ở một số nơi. “Ta nhận thấy xung quanh các uỷ ban nhân dân, một vài nơi tiếng phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng người khen. Dân chúng tín nhiệm ở Chính phủ trung ương nhiều hơn các uỷ ban địa phương... dân ghét các ông chủ tịch, các ông uỷ viên vì cái tật ngông ngênh cậy thế, cậy quyền”1 . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.47. . Đặc biệt trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (Báo Cứu quốc số 69 ngày 17-10-1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ 6 căn bệnh trong bộ máy chính quyền nhà nước Trái phép, Cậy thế, Hủ hoá, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo cần phải hết sức sửa chữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phê phán những thói hư tật xấu trong bộ máy chính quyền ở nơi này hay nơi khác mà điều quan trọng là người đã nêu ra những quan điểm và những giải pháp xây dựng, củng cố nhà nước. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”1 . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 4, tr 56-57. . Cách tổ chức và phương thức, phong cách làm việc của các uỷ ban nhân dân đã được Hồ Chí Minh đề ra một cách căn bản và rất cụ thể, thể hiện tinh thần dân chủ triệt để, động viên tổ chức nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Cùng với 20 vạn quân Quốc dân Đảng Trung Hoa vào miền Bắc giải giáp quân Nhật ở nam vĩ tuyến 16 quân Anh kéo vào và đã giúp cho quân Pháp xâm lược lại miền Nam. Ngày 23-9-1945 thực dân pháp đánh Nam Bộ, xâm phạm đến độc lập và Nhà nước cách mạng Việt Nam. Nhân dân miền Nam đã đứng lên kháng chiến thực hiện lời thề trong Tuyên ngôn độc lập. Ngày 22-11-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 36/SL về bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xứ, tỉnh và huyện để thành lập Uỷ ban hành chính các cấp. Ngày 31-10-1945 Chính phủ công bố dự thảo Hiến pháp để lấy ý kiến nhân dân mong muốn tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc lập Hiến pháp. Phải tập trung sửa đổi theo ý kiến của nhân dân. Ngày 25-11-1945, trong Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc đã nêu lên những chủ trương quan trọng để tăng cường xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước. Trung ương Đảng chủ trương “chấn chỉnh lại các bộ, và nếu vì lý do cần thiết thống nhất dân tộc và xúc tiến ngoại giao thì có thể cải tổ Chính phủ trước ngày họp Quốc hội. Chính phủ cải tổ ấy vẫn là Chính phủ lâm thời. Chiểu theo tinh thần bản dự thảo Hiến pháp mới và nhu cầu của tình thế mà ban hành những sắc lệnh để mang lại ngay những tự do, và hạnh phúc thực tế cho nhân dân, trong phạm vi điều kiện cụ thể của hoàn cảnh cho phép. Xem xét lại các nghị định của cả uỷ ban nhân dân xứ và địa phương để sửa chữa hay thủ tiêu nếu cần. Giải quyết một cách hợp lý vấn đề ruộng đất và thuế khoá. Trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khăn về nội trị và ngoại giao và dựa vào thế lực người mà ngóc đầu dậy, trừng trị bọn chia rẽ, bọn thất bại (defaitisme), bọn đầu cơ tích trữ và bọn lạm quyền nhiễu dân. Trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến Nam Bộ và Trung Bộ (phái Uỷ viên Chính phủ vào điều khiển Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ và Nam Trung Bộ). Cải cách chính quyền nhân dân ở địa phương và thanh trừng những uỷ ban nhân dân địa phương và cải thiện cách làm việc của uỷ ban ấy”1 . Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.30 - 31. . Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt khó khăn và phức tạp về nội trị và ngoại giao, Đảng Cộng sản Đông Dương phải rút vào bí mật (11-11-1945), song Đảng vẫn giữ vững sự lãnh đạo đối với Nhà nước với Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể yêu nước. Đảng vận dụng từ hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai, kịp họp đảng viên mới. Hệ thống chính trị của đất nước được xây dựng và củng cố. Mặt trận Việt Minh được củng cố hệ thống tổ chức thống nhất trên cả nước. Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tích cực, khẩn trương xây dựng Hiến pháp của nước Việt Nam mới. Cùng với chuẩn bị bầu cử Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp thực hiện chức năng lập pháp, bộ máy hành chính được chú trọng kiện toàn ở các cấp để thực hiện chức năng hành pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận rõ vai trò của công tác tư pháp, toà án. Ngày 1-12-1945 Bộ trưởng Bộ tư pháp ban hành nghị định số 37 về cơ cấu tổ chức bộ máy Bộ tư pháp. Chức năng của Nhà nước về tư pháp, xét xử thi hành án đã được đề cập rõ. Bộ máy Nhà nước được xây dựng, củng cố và thực thi những chức năng, nhiệm vụ quan trọng. Nhà nước tổ chức toàn dân tham gia chiến dịch tăng gia sản xuất và tiết kiệm để cứu dân nghèo đang còn bị đói. Chú trọng khắc phục hậu quả lũ lụt ở Bắc Bộ sửa chữa đê điều phát triển sản xuất nông nghiệp. “Khuyến nông, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau để tiếp tục cầy cấy như thường, thực hành khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích trữ, tổ chức cứu tế, thực hành khẩu hiệu “Sẻ cơm nhường áo” của Hồ Chủ tịch”1 . Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đã dẫn trang 32-33. . Mở lại các nhà máy, khai thác mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy, hầm mỏ, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Lập quốc gia ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại các ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ và các tỉnh. Nhà nước chăm lo phát triển giáo dục, nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ. Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9-1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng về chiến lược phát triển giáo dục và ý nghĩa của chiến lược ấy đối với sự phát triển của đất nước. Nhà nước chú trọng xây dựng đời sống mới, khắc phục những hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến, chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân. Chủ trương đó nhấn mạnh: “Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá”2 . Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đã dẫn tr. 28. . Chính phủ và chính quyền các địa phương ở Nam bộ và Nam Trung bộ tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cả nước chi viện cho kháng chiến ở miền Nam - phong trào Nam tiến. Quân đội quốc gia được xây dựng trên cơ sở quân giải phóng Việt Nam, Vệ quốc đoàn. Nhà nước thực hiện chức năng chuyên chính với kẻ thù. Ngày 19-8-1945 lực lượng công an nhân dân ra đời để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhà nước và nhân dân. Chính quyền và công an nhân dân thực hiện phương châm khoan hồng mà không nhu nhược như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn. Về ngoại giao, tại miền Nam nhân dân và quân đội ta kiên quyết kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nhưng sẵn sàng giải quyết hoà bình cuộc xung đột thông qua đàm phán. ở miền Bắc 20 vạn quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa vào để giải giáp quân Nhật. Song lại thực hiện âm mưu “lật đổ chính quyền do Việt Minh lập ra để đặt một chính phủ bù nhìn lên thay”1 . 2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đã dẫn tr. 25, 27. . Trước tình thế khó khăn phức tạp đó, chính sách ngoại giao của Nhà nước Việt Nam là phải giữ vững độc lập. Đối với Tàu, ta chủ trương Hoa-Việt thân thiện, coi Hoa kiều như dân tối huệ quốc. Đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế. “Kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”. Phải đặc biệt chú ý những điều này: một là thuật ngoại giao là làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết; hai là muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”2. Những bước đi đầu tiên của Nhà nước cách mạng non trẻ phải đương đầu với sự bao vây và tiến công của các thế lực đế quốc và phản động bên ngoài; sự chống phá của các lực lượng phản động trong nước; khó khăn về kinh tế, tài chính và chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của đồng chí, bè bạn trên thế giới. Cái thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó đã thử thách và kiểm chứng bản chất và sức mạnh của Nhà nước kiểu mới. Bộ máy Nhà nước mới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại, chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm để sửa chữa khuyết điểm. Không chỉ quyết tâm nâng cao trình độ tổ chức, quản lý hành chính và bộ máy chính quyền nhà nước, mọi cán bộ, công chức còn phải quyết tâm sửa chữa những yếu kém thuộc về ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân và thái độ, tác phong, phong cách làm việc sao cho đúng là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Để mở rộng hơn nữa đại đoàn kết dân tộc và nhu cầu của ngoại giao, Chính phủ trung ương đã được mở rộng thành Chính phủ liên hiệp lâm thời. Ngày 1-1-1946 Chính phủ liên hiệp lâm thời ra mắt quốc dân, có thêm các gương mặt đại biểu cho các lực lượng, đảng phái, kể cả đảng phái đối lập như Việt Cách, Việt Quốc. Trước đó, ngày 24-12-1945 Việt Minh, Việt Cách và Việt Quốc đã ký văn bản về biện pháp đoàn kết gồm 14 điều chính và 4 điều phụ trong đó có 3 khoản chủ yếu: 1) Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết. Thân ái, thẳng thắn giải quyết những vấn đề khó khăn trước mắt. Nếu ai dùng vũ lực gây rối loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ; 2) ủng hộ Tổng tuyển cử Quốc hội và kháng chiến ; 3) Đình chỉ công khích lẫn nhau bằng ngôn luận và hành động. Công việc soạn thảo Hiến pháp và chuẩn bị Tổng tuyển cử được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo khẩn trương nhưng vững chắc. Ngày 10-11-1945, trên báo Cứu quốc đã công bố Bản dự án Hiến pháp và thông cáo của Chính phủ mong muốn toàn dân tham gia ý kiến vào dự thảo Hiến pháp. Công việc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội có ý nghĩa trọng đại về xây dựng Nhà nước, khẳng định sức mạnh và cơ sở pháp lý của Nhà nước cách mạng. Việc tuyên truyền, hướng dẫn công dân tham gia bầu cử trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Báo Cứu quốc của Việt Minh và báo Cờ giải phóng của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ tháng 12-1945 đổi thành báo Sự Thật cơ quan ngôn luận của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) đã tập trung tuyên truyền, hướng dẫn việc bầu cử. Tờ nhật báo Quốc hội ra 15 số từ 17-12-1945 đến 6-1-1946 nêu rõ mục đích của bầu cử: 1. Định rõ giá trị cuộc Tổng tuyển cử đối với ngoài nước và trong nước; 2. Giải thích thể lệ Tổng tuyển cử cho người công dân Việt Nam hiểu quyền hạn và bổn phận của mình trong khi chọn và cử người đại biểu vào Quốc hội; 3. Giúp các bạn ứng cử một cơ quan vận động chung để giới thiệu thành tích, khả năng và chương trình của mình. Ngày 31-12-1945 trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài nêu rõ ý nghĩa Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết. Người mong toàn thể quốc dân sẽ hăng hái tham gia Tổng tuyển cử. Tuyên bố chính sách của Chính phủ liên hiệp lâm thời cũng nêu rõ mục tiêu làm cho Tổng tuyển cử toàn quốc thành công và thống nhất các cơ quan hành chính theo nguyên tắc dân chủ. Trong Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu ngày 5-1-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ. “Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”1 . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.145. . Ngày 6-1-1946 cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra thành công trên cả nước. ở miền Nam, trong hoàn cảnh phải kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cuộc Tổng tuyển cử vẫn diễn ra đúng kế hoạch. Nhiều tỉnh ở miền Nam đã bầu cử từ ngày 23-12-1945. Nhiều đồng chí, đồng bào đã anh dũng hy sinh trong ngày bầu cử. Riêng ở Sài Gòn - Chợ Lớn có 42 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử. Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử ở Hà Nội và trúng cử với tỉ lệ phiếu cao nhất 169.222 phiếu, 98,4%. Tại Hà Nội 91,95% cử tri đi bỏ phiếu. 6 trong số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội, người trúng cử số phiếu thấp nhất là 52,5%. Tính chung trên cả nước 89% số cử tri đi bỏ phiếu và đã bầu được 333 đại biểu Quốc hội trong đó 87% số đại biểu là công nhân, chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu là phụ nữ và 34 đại biểu là dân tộc thiểu số. Thắng lợi của tổng tuyển cử đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể chế cộng hoà dân chủ Việt Nam. Ngay sau bầu cử Quốc hội, bộ máy Nhà nước tiếp tục được kiện toàn và phát triển. Ngày 21-2-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL thống nhất các tổ chức cảnh sát và Liêm phóng thành cơ quan Việt Nam Công an vụ thuộc Bộ nội vụ. Bộ máy tổ chức công an gồm 3 cấp: Công an trung ương, công an kỳ, công an tỉnh. Sắc lệnh số 27/SL ngày 8-2-1946 quy định mức xử phạt đối với những kẻ phạm tội. Sau cách mạng tháng Tám quân giải phóng Việt Nam được đổi thành Vệ quốc đoàn và ngày 22-5-1946 theo Sắc lệnh số 71/SL đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Bộ máy tư pháp và tổ chức toà án cũng đã sớm được thiết lập và hoạt động. Ngày 13-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33L/SL về Lập toà án quân sự để xét xử bọn phản cách mạng. Hệ thống toà án các cấp được xây dựng. Bộ tư pháp ban hành nghị định về tổ chức toà án ngày 3-12-1945. Ngày 24-1-1946 Sắc lệnh số 13/SL quy định về hệ thống tổ chức các toà án. ở xã có ban tư pháp xã, ở quận, huyện, châu có toà án sơ cấp, tỉnh có toà án đệ nhị cấp, cấp kỳ có thượng thẩm. Vai trò của luật sư và quyền bào chữa của các luật sư đã được xác định. Nhà nước cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt đề ra nhiều chính sách, biện pháp để quản lý đất nước, xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, chăm lo đời sống nhân dân, tiến hành kháng chiến và trấn áp phản cách mạng, nghĩa là giải quyết những vấn đề nội trị, mặt khác phải giải quyết những quan hệ ngoại giao rất phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần bày tỏ chính sách ngoại giao của Nhà nước Việt Nam. Đối với Trung Hoa. Khi quân đội Trung Hoa quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật nhưng ý đồ thật là lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam, mặc dầu vậy Chính phủ Việt Nam vẫn chân thành hợp tác thực hiện chính sách thân thiện nhưng kiên quyết và khôn khéo làm thất bại âm mưu và hành động của họ. Chính phủ Việt Nam đã cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân đội tưởng. Không xung đột về quân sự với quân Tưởng để phá tan âm mưu khiêu khích, lật đổ của họ. Nhân nhượng để cho những tổ chức đảng phái thân Tưởng (Việt Cách, Việt Quốc) được tham gia Chính phủ liên hiệp. Ngày 23-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trung Hoa và Việt Nam có quan hệ mấy ngàn năm với nhau về mọi phương diện văn hoá, chính trị, kinh tế. Cái quan hệ ấy càng ngày càng thêm sâu xa, mà có thể ngày càng thêm thắm thiết. Nước Việt Nam được thắng lợi trong sự độc lập, thì sự thắng lợi ấy sẽ là một điều lợi cho Trung Hoa. Trung Hoa và Việt Nam có chung với nhau một biên giới rộng mấy ngàn dặm. Nay Việt Nam không phải là thuộc địa của Pháp nữa, nước Trung Hoa sẽ bớt đi một lo ngại về miền Nam, vì trong dự định của một vài chính khách Pháp như P.Đume (P.Doumer) chẳng hạn, thì bọn thực dân Pháp vẫn ngấm ngầm định nhòm ngó mấy tỉnh trù phú miền Nam Trung Hoa như Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Trung Hoa và Việt Nam có quan hệ như răng với môi vậy”1 .2. 3. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr.72, 73, 80. . Đối với Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đối với bọn thực dân Pháp cố tâm dùng võ lực lập lại chủ quyền của chúng ở đây, chúng ta nhất định chống lại chúng kỳ cùng, và nhất định chúng ta sẽ phải thắng lợi. Sự hy sinh của đồng bào ta trong cuộc chiến đấu oanh liệt trong Nam Bộ bây giờ... tỏ ra rằng một dân tộc đã có tinh thần cao đến bực ấy thì không sức mạnh nào có thể đè bẹp được”. “Nhưng chúng ta không chống tất cả nước Pháp, tất cả dân chúng Pháp. Nếu có những người Pháp muốn qua đây điều đình một cách hoà bình (từ trước tới nay chưa có một cuộc điều đình như vậy, nhưng giả sử có, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ hoan nghênh, thì điều kiện căn bản của cuộc điều đình ấy là người Pháp phải thừa nhận nền độc lập của Việt Nam”2. Cũng cần thấy rõ rằng, Nhà nước Cách mạng Việt Nam đã sớm chú trọng về quan hệ với Hoa Kỳ. Ngày 17-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh có điện văn gửi Tổng thống Mỹ H.Tơruman khẳng định cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý của nền độc lập và của Chính phủ Việt Nam. Ngày 22-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư cho Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, khẳng định nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam phải được Liên hiệp quốc công nhận. Đặc biệt trong thư gửi Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Giêm Biếcnơ ngày 1-11-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân danh Hội Văn hoá Việt Nam tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”3. Những quan điểm và ý tưởng về quan hệ bang giao của Nhà nước ta với các nước trên đây thể hiện sự thẳng thắn, chân thành, thân thiện, thể hiện tư duy chính trị đúng đắn và tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước cách mạng Việt Nam. Gần hai tháng sau cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội đã họp kỳ đầu tiên ngày 2-3-1946 để thành lập Chính phủ chính thức - Chính phủ liên hiệp kháng chiến và quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Thành phần Quốc hội được bầu gồm 333 đại biểu. Quốc hội cũng đã chấp nhận mở rộng thêm 70 đại biểu không qua bầu cử (đại biểu trung nhận) nên số đại biểu của Quốc hội là 403 vị. Quốc hội họp tại nhà hát lớn Hà Nội và 9 giờ sáng ngày 2-3-1946 khai mạc. Quốc hội đã bầu Ban Thường trực Quốc hội gồm 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết, do cụ Nguyễn Văn Tố làm Trưởng ban. Trong Diễn văn khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhờ sức đoàn kết mạnh mẽ của toàn dân, chúng ta đã giành được chính quyền. Nhưng mới vừa giành được chính quyền, vừa lập nên Chính phủ thì chúng ta gặp nhiều sự khó khăn, miền Nam bị nạn xâm lăng, miền Bắc bị nạn đói khó. Song nhờ ở sự ủng hộ nhiệt liệt của toàn thể đồng bào và lòng kiên quyết phấn đấu của Chính phủ, chúng ta đã làm được đôi việc: - Việc thứ nhất là ra sức kháng chiến - Việc thứ hai là giảm bớt sự đói kém bằng cách thực hành tăng gia sản xuất. - Việc thứ ba là Chính phủ đã tổ chức Tổng tuyển cử. - Việc thứ tư là do kết quả cuộc Tổng tuyển cử ấy mà có Quốc hội hôm nay”1 . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000 tập 4, tr.190-191. . Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng báo cáo về việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến Trong lời tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng tôi, Chính phủ kháng chiến nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Tối cao cố vấn đoàn và Uỷ viên kháng chiến hội, trước bàn thờ thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội, thề xin cương quyết lãnh đạo nhân dân kháng chiến, thực hiện nền dân chủ cộng hoà Việt Nam, mang lại tự do hạnh phúc cho dân tộc. Trong công việc giữ gìn nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi nỗi khó khăn dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ”1 . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr.195. . Quốc hội cũng đã bầu Ban Thường trực Quốc hội gồm 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết do cụ Nguyễn Văn Tố làm Trưởng ban, Phạm Văn Đồng, Cung Đình Quỳ làm Phó trưởng ban. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội cũng quyết định lập Ban dự thảo Hiến pháp. Trong khi chờ đợi Hiến pháp ghi nhận quốc kỳ, quốc ca, Quốc hội quyết định lá cờ đỏ Sao vàng là Quốc kỳ và bài Tiến quân ca là Quốc ca. Với thành công của kỳ họp đầu tiên của Quốc hội, Nhà nước đã được xây dựng, củng cố vững chắc cả về thực tế và cơ sở pháp lý. Cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ) và cơ quan tư pháp tạo thành cơ cấu đồng bộ của bộ máy Nhà nước. Bộ tư pháp là thành viên Chính phủ đã chỉ đạo quản lý tốt hơn về hoạt động tư pháp. Ngày 16-3-1946 thành lập Hội đồng cố vấn pháp luật. Tiếp tục củng cố các toà án. Ngày 29-3-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về bảo vệ tự do cá nhân. Chủ tịch Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp luật khác. Trên thực tế đã xây dựng Nhà nước cách mạng theo hướng nhà nước pháp quyền. Khi Quốc hội và Chính phủ chính thức được thành lập cũng là thời điểm vô cùng khó khăn phức tạp. Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng thời chính quyền Quốc dân đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Pháp có sự nhân nhượng về vấn đề Việt Nam và Đông Dương, để cho quân Pháp vào Đông Dương thay thế quân Tàu làm nhiệm vụ của quân Đồng Minh để giải giáp quân Nhật. Đổi lại Pháp phải nhường một số quyền lợi cho Chính phủ Trung Hoa. Hiệp ước Hoa-Pháp đã được ký kết ngày 28-2-1946. Hạn cuối cùng để quân đội Tưởng rút khỏi miền Bắc là 31-3-1946. Đảng ta xác định “Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai, của chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định chúng cũng thi hành hiệp định ấy”1 . Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.41. . Họ đặt Nhà nước ta vào chuyện đã rồi. Tình hình phức tạp trên đây đòi hỏi Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có sự lựa chọn thích hợp. Nếu chủ trương tiếp tục đánh Pháp đến cùng thì không những làm cho ta bị cô lập vì chống lại Đồng Minh. Thực lực tiêu hao mà cần phải có thêm thời gian để phát triển lực lượng. Nếu hoà với Pháp cũng có sự bất lợi là bọn phản động lợi dụng vu cáo Nhà nước ta bán nước cho Pháp và cũng có khả năng Pháp gia tăng lực lượng và bội ước để diệt Nhà nước ta. Sau khi phân tích tình hình, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến chủ trương tạm thời hoà với Pháp để mau chóng gạt bỏ quân Tưởng về nước. Chỉ thị Tình hình và chủ trương của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 3-3-1946 đã quyết định điều đó. Nhà nước ta với tư cách người chủ hợp pháp chủ động đàm phán để cho quân Pháp ra miền Bắc với những điều kiện của ta. Phía Pháp cũng cần có sự dàn xếp đó và không thể nhìn nhận vai trò chủ thể hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam được cử đàm phán trực tiếp với phía Pháp. Chiều ngày 6-3-1946 tại nhà số 38 phố Lý Thái Tổ Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp Jean Sainteny (Giăng Xanh tơ ny) bản Hiệp định sơ bộ. Nước Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có nghị viện, Chính phủ, quân đội và tài chính riêng, đứng trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam thuận để quân đội Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa, hạn cho quân Pháp ở Đông Dương không quá 5 năm. Hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức và trong khi đàm phán, quân hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 là Hiệp định, văn kiện ngoại giao đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký với nước ngoài. Quyền dân tộc cơ bản đã bước đầu được khẳng định trong văn bản ngoại giao. Đó cũng là cơ sở pháp lý quan trọng không chỉ có ý nghĩa quan hệ với Pháp mà cả quan hệ với các nước khác. Tiếp tục những vấn đề do Hiệp định sơ bộ đặt ra, Hội nghị trù bị họp ở Đà Lạt giữa đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn Chính phủ Pháp ngày 19-4-1946 để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức sẽ diễn ra ở nước Pháp. Hội nghị trù bị Đà Lạt không có kết quả, phía Việt Nam kiên quyết bác bỏ ý đồ của Pháp thiết lập trở lại chế độ thuộc địa ở Việt Nam. Nhận lời mời của Chính phủ Pháp, ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp. Bộ trưởng Bộ nội vụ Huỳnh Thúc Kháng được giao giữ chức quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu với 17 thành viên cũng lên đường sang Pháp để thực hiện cuộc đàm phán chính thức. Ngày 6-7-1946 cuộc đàm phán đã diễn ra ở Phôngtennơblô (Fontainnebleau). Cuộc đàm phán cũng không mang lại kết quả do lập trường thực dân phản động của phía Pháp. Để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng ở trong nước và tỏ rõ mong muốn hoà bình, hữu nghị với nước Pháp trước khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại M.Mutê (M.Moutet) bản Tạm ước 14-9-1946. Ngày 20-10-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Đó là cuộc đi thăm nước ngoài đầu tiên của người đứng đầu Nhà nước cách mạng Việt Nam và cũng là chuyến đi thăm nước ngoài dài ngày nhất của một vị nguyên thủ quốc gia. Đó cũng là nét độc đáo của ngoại giao của Nhà nước cách mạng Việt Nam. Lịch sử sẽ mãi mãi ghi đậm chuyến đi thăm nước Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thời gian ở thăm nước Pháp thay mặt cho Nhà nước và dân tộc Việt Nam, Chủ tịch H

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa mác-lênin của hồ chí minh và đảng cộng sản việt nam về xây dựng nhà nước kiểu mới trong cách mạng giải ph.doc
Tài liệu liên quan