Trong hai loài sâu đục quả đậu đỗ ở khu vực phụ cận Hà Nội, loài M. vitrata chiếm ưu thế hơn so với E. zinckenella. Kết quả phân tích số liệu điều tra trên tất cả các giống đậu đỗ như đậu trạch, đậu đũa, đậu xanh, đậu đen và đậu tương, trong số 942 mẫu sâu non thu thập được, có 885 mẫu là loài M. vitrata, cũn lại chỉ cú 57 mẫu là loài E. zinckenella.
Xột về sự lựa chọn thức ăn của loài sâu đục quả theo giai đoạn sinh trưởng và phát triển của đậu đỗ, sâu non thường gặp tập trung trên hoa và quả non, tỷ lệ sâu đục quả đậu đỗ gặp trên hoa và trên quả non gần như nhau (hỡnh 2). Chớnh đặc điểm gây hại của sâu đục quả đậu đỗ ngay từ noón hoa cũng làm tăng khả năng sâu non bị nhiễm loài ong ký sinh Bassus javanus.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự xuất hiện và hoạt động của ong ký sinh Bassus javanus (Bhat & Gupta) (Braconidae) Trên sâu đục quả đậu đỗ Maruca vitrata (Fabricius) ở khu vực phụ cận Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự xuất hiện và hoạt động của ong ký sinh
Bassus javanus (Bhat & Gupta) (Braconidae) Trên sâu đục quả đậu đỗ
Maruca vitrata (Fabricius) ở khu vực phụ cận Hà Nội
THE APPEARANCE AND ACTIVITY OF BRACONID WASP
Bassus javanus (Bhat & Gupta) (Braconidae), A PARASITOID OF BEAN BORER
Maruca vitrata (Fabricius) IN HA NOI VICINITY
Khuất Đăng Long, Đặng Thị Hoa
Viện Sinh thỏi và Tài nguyờn sinh vật
Abstract
The paper presents a survey of larval parasitoids reared from bean borers Maruca vitrata and Etiella zinckenella, that infected on different bean crops in Hanoi vicinity. There were six prasitoids found: two species of the family Ichneumonidae: Trathala flavo-orbitalis (Cameron) and Sinophorus sp., four other species of the family Braconidae: Agathis fabiae (Nixon), Bassus javanus (Bhat & Gupta), Bassus sp.A and Bracon sp., in which B. javanus is the dominant wasp that occures on different bean crops in Ha Noi vicinity from March to August. Maximal percentage of bean borer larvae were parasitized up from 30 to 40%, and the lowest percentage of parasitism is 3%. One pesticide treatment made before beans flowered may lightly decrease the activity of parasotoids.
I. Đặt vấn đề
Ở khu vực phụ cận Hà Nội, hầu hết các giống đậu đỗ đều bị hai loài đục quả Maruca vitrata và Etiella zinckenella gây hại, trong đó loài đục quả M. vitrata thường chiếm ưu thế. Loài sâu hại này xuất hiện trên tất cả các giống đậu trạch, đậu đũa, đậu xanh, đậu đen và đậu tương, thời gian hoạt động mạnh nhất từ tháng 3 đến tháng 8.
Cụng trỡnh gần đây nhất (Khuất Đăng Long, 2004) đó thống kờ 4 loài ong ký sinh sõu non đục quả đậu đỗ, trong số đó có 2 loài chưa được xác định tên. Trong bài này, chúng tôi đưa ra kết quả nghiờn cứu về nhúm ong ký sinh ở sõu non sõu đục quả đậu đỗ ở khu vực phụ cận Hà Nội, sự xuất hiện và hoạt động của 1 loài ong ký sinh chuyờn hoỏ ở sõu non đục quả M. vitrata.
Cụng trỡnh này là kết quả của đề tài NCCB 6 017 06 do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm điều tra, khu vực trồng màu thuộc các huyện Từ Liêm (Phú Diễn), Long Biên (Tư Đỡnh), Súc Sơn (Hiền Ninh) và huyện Hoài Đức (Vân Côn) thuộc Hà Tây. Điều tra thu sâu đục quả gặp trên hoa và quả ở tất cả các giống đậu đỗ như đậu trạch, đậu đũa, đậu xanh, đậu đen và đậu tương. Thời gian nghiên cứu tập trung từ tháng 3 đến tháng 8 trong hai năm 2006-2007.
Nuôi sinh học riêng rẽ sâu non đục quả thu được từ hoa và từ quả của từng giống đậu, sâu non thu từ ruộng không phun thuốc và ruộng có phun thuốc. So sánh tỷ lệ sâu non đục quả bị chết do ký sinh từ mỗi giống đậu theo phương pháp vẽ đồ thị trong Excel thông thường.
III. KẾT QUẢ NGHIấN CỨU
VÀ THẢO LUẬN
Theo dừi nuụi sinh học 942 mẫu sõu non đục quả thu được trên các giống đậu đỗ trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 ở các địa điểm nghiên cứu nói trên, chúng tôi thu được 68 trường hợp sâu non bị nhiễm 5 loài ong ký sinh khác nhau. Trong số đó có 25 trường hợp bị nhiễm ong cự Trathala flavo-orbitalis (Cameron), hai loài ký sinh chỉ gặp 1 trường hợp là loài ong cự Sinophorus sp. và 1 loài ong vàng (Braconidae: Braconinae), cũn lại 41 trường hợp gặp ba loài khác thuộc phân họ Agathidinae (họ Braconidae): Agathis fabiae (Nixon), Bassus javanus (Bhat & Gupta) và Bassus sp.A.
Khuất Đăng Long, 2004, đó cú cụng trỡnh đề cập đến 4 loài ong ký sinh ở pha sâu non đục quả đậu đỗ ở Việt Nam, trong đó 2 loài đó được xác định tên gồm A. fabiae và B. javanus (= Baeognatha javana), cũn 2 loài chưa xác định được tên khoa học đều thuộc giống Agathis (Agathis sp.A và Agathis sp.B). So với tài liệu đó được công bố trong nước, loài Trathala flavo-orbitalis lần đầu tiên được ghi nhận ký sinh ở nhóm sâu đục quả đậu đỗ, cũn loài Agathis sp.B được chúng tôi xác định là Bassus gossypiella (Bhat & Gupta), loài cũn lại Bassus sp.A (=Agathis sp.A) sẽ được đề cập đến trong một công trỡnh hệ thống phõn loại học gần đây.
Theo tài liệu [5], A. fabiae có phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Malaixia và là loài ong ký sinh ở sõu loang Earias vittella, sõu xanh Helicoverpa armigera và sõu hồng Pectinophora gossypiella, loài B. javanus có phân bố ở Malaixia và Inđônêxia, loài này gặp ký sinh trờn hai loài sõu đục quả Etiella zinckenella và Maruca vitrata, cũn loài B. gossypiella ký sinh ở sõu hồng Pectinophora gossypiella ở Ấn Độ và Xrilanca.
Hỡnh 1. Bassus javanus (Bhat & Gupta)
a. Ong cái, b. Biến thái của ô submarginal cánh trước, c. Đốt trung gian
d. Các đốt bàn 3+4+5 và móng+đệm móng chân sau, e. Đỉnh máng đẻ trứng,
c. Mặt lưng bụng
Như vậy, ở khu vực phụ cận của Hà Nội, trên sâu đục quả đậu đỗ có 6 loài ong ký sinh, 2 loài thuộc họ Ichneumonidae và 4 loài thuộc họ Braconidae. Trong số 6 loài ong ký sinh ở pha sõu non, loài B. gossypiella chưa gặp lại, cũn ong đen ngực đỏ Bassus javanus là loài chiếm ưu thế (hỡnh 1). Loài này gần như có mặt liên tục trên nhiều giống đậu đỗ từ tháng 3 đến tháng 8 cùng với sự có mặt của hai loài sâu đục quả.
Trong hai loài sâu đục quả đậu đỗ ở khu vực phụ cận Hà Nội, loài M. vitrata chiếm ưu thế hơn so với E. zinckenella. Kết quả phân tích số liệu điều tra trên tất cả các giống đậu đỗ như đậu trạch, đậu đũa, đậu xanh, đậu đen và đậu tương, trong số 942 mẫu sâu non thu thập được, có 885 mẫu là loài M. vitrata, cũn lại chỉ cú 57 mẫu là loài E. zinckenella.
Xột về sự lựa chọn thức ăn của loài sâu đục quả theo giai đoạn sinh trưởng và phát triển của đậu đỗ, sâu non thường gặp tập trung trên hoa và quả non, tỷ lệ sâu đục quả đậu đỗ gặp trên hoa và trên quả non gần như nhau (hỡnh 2). Chớnh đặc điểm gây hại của sâu đục quả đậu đỗ ngay từ noón hoa cũng làm tăng khả năng sâu non bị nhiễm loài ong ký sinh Bassus javanus.
Hỡnh 2. So sỏnh sự cú mặt của sõu non M. vitrata trên hoa và quả đậu đũa
và tỷ lệ nhiễm ký sinh (Phỳ Diễn, Từ Liờm 2007)
.
Hỡnh 3. Hiệu quả hoạt động của ong ký sinh B. javanus trên 2 sâu đục quả M. vitrata
hại đậu Trạch và đậu đũa (Phú Diễn, Từ Liêm, 2007)
Kết quả nuôi sinh học riêng rẽ sâu đục quả đậu đũa thu được từ hoa và quả cho thấy, tỷ lệ sâu non bị nhiễm ký sinh trên hoa đạt cao hơn so với tỷ lệ ký sinh ở sâu non thu từ quả. Điều này cũng đó được chúng tôi kết luận khi nghiên cứu tập tính hoạt động ký sinh ở hai loài A. fabiae và B. javanus, trong đó chúng tôi nhận thấy rằng hai loài ong ký sinh này cú tập tớnh đẻ trứng vào sâu non tuổi nhỏ khi chúng chuẩn bị đục vào noón quả khi bờn ngoài vẫn cũn cỏnh hoa chưa rụng (Khuất Đăng Long, 2004). Dựa vào đặc điểm này, việc khuyến cáo phun thuốc trừ sâu trước thời điểm đậu đỗ ra hoa hoặc khi đậu đó vào quả cú thể giảm được tác động có hại của thuốc trừ sâu đến hiệu quả của nhóm ong ký sinh này.
Trong cùng một thời điểm có nhiều giống đậu đỗ khác nhau trên đồng, sâu đục quả thường gặp nhiều trên đậu trạch, đậu đũa, sau đó đến đậu xanh và đậu đen, gặp ít hơn trên đậu tương. Cũng chính do sự lựa chọn thức ăn khá rừ rệt ở sõu đục quả đậu đỗ, hai loài ong ký sinh A. fabiae và B. javanus cũng xuất hiện khá sớm trên đậu trạch và đậu đũa (tháng 3 đến tháng 4), cũn vào thời điểm trên cánh đồng chỉ cũn lại đậu xanh + đậu đen và đậu tương, sự xuất hiện của 2 loài ong ký sinh này tập trung nhiều hơn trên đậu xanh + đậu đen (tháng 5 đến tháng 7).
Trên những cánh đồng trồng đậu đỗ ở Từ Liêm Hà Nội trong thời gian từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 5, sự xuất hiện và hoạt động liên tục của sâu đục quả M. vitrata trên đậu trạch và đậu đũa đó làm tăng cơ hội cho loài ong ký sinh B. javanus, tỷ lệ sâu non bị chết bởi ký sinh đạt đỉnh cao trên đậu trạch vào giữa tháng 4 và trên đậu đũa vào đầu tháng 6 (hỡnh 3). Cũn trong khoảng thời gian từ sau tháng 6 trở đi, sâu đục quả chuyển sang gây hại cho đậu xanh, đậu đen và đậu tương vụ hè thu, khi đó sự xuất hiện nhiều và hoạt động mạnh rừ rệt của ong ký sinh cú thể quan sỏt thấy vào cuối thỏng 6 đầu tháng 7 trên đậu xanh và đậu đen.
Hỡnh 4. So sánh hiệu quả hoạt động của ong ký sinh B. javanus
trên sâu đục quả M. vitrata trong điều kiện phun thuốc trừ sâu
So sánh hiệu quả hoạt động của ong ký sinh B. javanus đối với sâu đục quả đậu đũa M. vitrata trong điều kiện có phun thuốc trừ sâu trước khi đậu ra hoa và sau khi đậu quả cho thấy, trong cả hai trường hợp đối với sâu non đục quả thu trên hoa và thu từ quả đậu đũa, tỷ lệ ký sinh ở ruộng phun thuốc đều có xu hướng thấp hơn so với ruộng không phun (hỡnh 4).
IV. KẾT LUẬN
- Ở khu vực phụ cận Hà Nội, sâu đục quả đậu Maruca vitrata chiếm ưu thế hơn so với loài đục quả khác là Etiella zinckenella, cú 6 loài ong ký sinh ở pha sõu non của chỳng được phát hiện, trong số đó, họ Ichneumonidae cú 2 loài: cự Trathala flavo-orbitalis (Cameron) và Sinophorus sp., họ Braconidae cú 4 loài: Agathis fabiae (Nixon), Bassus javanus (Bhat & Gupta), Bassus sp.A. và Bracon sp., cũn loài Bassus gossypiella (Bhat & Gupta) chưa thấy xuất hiện trở lại.
- Trong số 6 loài ong ký sinh ở sõu đục quả, loài B. javanus chiếm ưu thế, loài này hoạt động ký sinh ở sâu non sâu đục quả tuổi nhỏ ngay từ khi sâu non cũn trong quả noón. Loài ong ký sinh này xuất hiện trờn đậu đỗ từ tháng 3 đến tháng 8, hoạt động mạnh nhất từ tháng 3 đến tháng 6. Trong thời gian này, tỷ lệ sâu non sâu đục quả bị nhiễm ký sinh đạt cao nhất tới 40%, thấp nhất trờn 3%.
Trên cánh đồng có trồng nhiều giống đậu khác nhau, ong ký sinh B. javanus thường hoạt động tích cực và có tỷ lệ ký sinh cao nhất ở sõu non trờn đậu trạch, sau đó đến đậu đũa, đậu xanh+đậu đen, ít hơn trên đậu tương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bhat S., Gupta V.K, 1977. Oriental Insects Monograph. 6:1-353.
Khuat Dang Long, Belokobylskij S. A., 2003. Russian Entomogical Journal, 12(4): 385-398.
Khuất Đăng Long, 2004. Tạp chớ Sinh học, t. 26(3A): 8-14.
Khuất Đăng Long, 2004. Tạp chí BVTV, s. 5(197): 30-35.
Yu D. S., Achterberg K. van & Horstmann K., 2005: Biological and taxonomical information: Ichneumonoidea 2004. Taxapad Interactive Catalogue, Vancouver.
ảnh hưởng của một số thuốc trừ nhện đỏ hại bông
đến loài nhện nhỏ bắt mồi Neoseiulus longispinosus Evans (Mesostigmata: Phytoseiidae)
Side effect of some pesticides for controlling the red
spider mite on the predator mite, Neoseiulus longispinosus Evans (Mesostigmata: Phytoseiidae)
Mai Văn Hào(1), Hoàng Thị Mỹ Lệ(1)
Nguyễn Viết Tựng(2)
Abstract
The study was carried out at the Research Institute for Cotton and Agricultural Development of Vietnam. Eight pesticides (Petis 24,5EC, VINEEM 1500EC, PolytrinP 440EC, Pegasus 500SC, Comite 73EC, Bifentox 30ND, Secure 10EC, Sokupi 0.36AS) were evaluated their side effect on the predator mite, Neoseiulus longispinosus Evans.
The result show that Sokupi 0.36AS (Matrine), Vineem 1500EC (Azadirachtin), Comite 73EC (Propargite), Petis 24EC (Abamectin + Petroleum oil), Bifentox 30ND (Dimethoate + fenvalerate) harmless to the predator mite, N. longispinosus. These chemicals are expected to be promising pesticides on IPM for cotton in Vietnam, where N. longispinosus is major natural enemy of red spider mite. Besides, Pegasus 500SC (Diafenthiuron), Secure 10EC (Chlorfenapyr) and PolytrinP 440EC (Profenofos+Cypermethrin) are harmful to N. longispinosus.
Key words: Neoseiulus longispinosus Evans, predator mite, Phytoseiidae, pesticide, cotton.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
(1) Viện Nghiờn cứu Bụng và Phỏt triển Nụng nghiệp Nha Hố
(2) Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội
Các loài nhện nhỏ bắt mồi thuộc họ Phytoseiidae là những kẻ thù tự nhiên chủ yếu của nhện nhỏ hại thực vật. Rất nhiều loài thuộc họ này được nhân nuôi hàng loạt và ứng dụng như tác nhân sinh học quan trọng trong phũng chống nhện nhỏ hại thực vật (Nguyễn Văn Đĩnh, 2004). Loài nhện nhỏ bắt mồi Neoseiulus longispinosus Evans được xem là loài thiên địch quan trọng của nhện đỏ Tetranychus urticae Koch tại Thỏi Lan, Úc, Trung Quốc, Ai Cập, Ấn Độ, Malaysia, Triều Tiên, Đài Loan (Manita Kongchuensin và Akio Takafuji, 2006; Eberhard Schicha, 1987). Loài N. longispinosus cũng là loài bắt mồi quan trọng của nhện đỏ T. urticae hại bông ở Việt Nam (Mai Văn Hào và cộng sự, 2006).
Tại Việt Nam, để phũng chống nhện đỏ hại bông hiện vẫn dựa vào thuốc hóa học là chủ yếu. Việc phun thuốc trừ nhện đỏ không những diệt trừ được nhện đỏ mà cũn cú thể ảnh hưởng đến các loài thiên địch, trong đó có loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus. Để có cơ sở khuyến cáo sử dụng thuốc trừ nhện đỏ hại bông hợp lý nhằm giảm đến mức thấp nhất việc ảnh hưởng của thuốc đến loài nhện nhỏ bắt mồi N. Longispinosus, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của một số loại thuốc trừ nhện đến loài nhện nhỏ bắt mồi Neoseiulus longispinosus.
II. VẬT LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiờn cứu
Nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus được thu thập trên cây bông và nhân nuôi tại Viện Nghiên cứu bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố,. giống bụng lai VN15.
08 loại thuốc gồm Petis 24,5EC (Abamectin + Petroleum oil), VINEEM 1500EC (Azadirachtin), PolytrinP 440EC (Profenofos+Cypermethrin), Pegasus 500SC (Diafenthiuron), Comite 73EC (Propargite), Bifentox 30ND (Dimethoate + fenvalerate), Secure 10EC (Chlorfenapyr) và Sokupi 0.36AS (Matrine) và một số vật liệu chuyờn dụng khỏc.
Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện theo phương pháp của FAO (1984), Overmeer (1985), Manita Kongchuensin và Akio Takafuji (2006), có điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế.
Nhện nhỏ bắt mồi trưởng thành của loài N. longispinosus được thu ngoài đồng về cho đẻ trứng và nuôi trong phũng thớ nghiệm. Khi cú pha trưởng thành xuất hiện, cho ghép đôi rồi sau đó 2-3 ngày tiến hành khảo nghiệm. Đĩa lá bông (diện tích 25cm2) có trưởng thành cái hoặc trứng của nhện nhỏ bắt mồi (NNBM) N. longispinosus được nhúng vào dung dịch thuốc trong thời gian 5 giây. Mỗi đĩa lá có 10 trứng (các trứng từ 8 giờ – 1 ngày tuổi) hoặc 10 cá thể cái trưởng thành (2-3 ngày tuổi) của loài NNBM N. longispinosus. Sau khi nhỳng mẫu lá vào dung dịch nước thuốc, dùng panh nhấc đĩa lá đặt lên giấy thấm trong thời gian 15 phút để bay hết hơi nước rồi đếm tổng số nhện hoặc trứng nhện cũn trờn đĩa lá. Sau đó chuyển lên đĩa petri có bông ẩm. Sau 24, 48 giờ đếm số nhện nhỏ bắt mồi trưởng thành sống và sau 24, 48, 72 giờ đếm số trứng nở. Các thao tác đếm nhện được thực hiện dưới kính lúp. Những cá thể NNBM không phản ứng khi dùng bút lông chạm vào cả 2 chân được coi là chết. Thí nghiệm gồm 9 công thức với 3 lần lặp lại. Tính độ hữu hiệu của thuốc theo cụng thức của Abbott (1925).
Đánh giá ảnh hưởng độc của mỗi loại thuốc đến NNBM N. longispinosus theo bảng phân hạng độ độc của IOBC (Hassan, 1994) gồm 4 cấp: cấp 1, không độc (tỷ lệ nhện trưởng thành cái chết 99%).
III. KẾT QUẢ NGHIấN CỨU
VÀ THẢO LUẬN
Kết quả thớ nghiệm cho thấy trong 8 loại thuốc trừ nhện đỏ hại bông (Petis 24,5EC, Vineem 1500EC, PolytrinP 440EC, Pegasus 500SC, Comite 73EC, Bifentox 30ND, Secure 10EC và Sokupi 0.36AS) có hai loại thuốc PolytrinP 440EC và Secure 10EC gây ảnh hưởng lớn đến pha trứng của loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus (bảng 1).
Bảng 1. Ảnh hưởng của thuốc trừ nhện đỏ hại bông đến trứng nhện nhỏ bắt mồi
Neoseiulus longispinosus Evans trong phũng thớ nghiệm (Nha Hố - Ninh Thuận, 2006)
STT
Tờn thuốc
Nồng độ (‰)
Độ hữu hiệu của thuốc sau khi xử lý (%)
Tỷ lệ trứng nở sau 72 giờ (%)
24 giờ
48 giờ
72 giờ
1
Petis 24,5EC
0,35
46,67 b
17,78 b
10,37 b
96,30 a
2
Vineem 1500EC
0,35
23,33 c
3,33 d
3,33 cd
100,0 a
3
PolytrinP 440EC
0,75
70,00 a
46,30 a
31,11 a
68,89 b
4
Pegasus 500SC
0,40
23,33 c
10,74 c
10,37 b
92,96 a
5
Comite 73EC
0,20
23,33 c
10,74 c
3,33 cd
100,0 a
6
Bifentox 30ND
0,50
23,33 c
3,33 d
6,67 bc
100,0 a
7
Secure 10EC
0,25
46,67 b
42,96 a
34,44 a
70,93 b
8
Sokupi 0.36AS
0,30
6,67 d
3,33 d
6,67 bc
100,0 a
LSD0,05
9,92
6,43
6,52
7,36
Đối chiếu với kết quả nghiên cứu của (Nguyễn Thị Hai, Mai Văn Hào và ctv, 2005), chúng tôi thấy, mặt dù PolytrinP 440EC là loại thuốc ít độc đối với trứng nhện đỏ nhưng lại rất độc đối với trứng NNBM loài N. longispinosus. Thuốc Secure 10EC có khả năng tiêu diệt trứng nhện đỏ cao, đồng thời đây cũng là loại thuốc rất độc hại cho trứng NNBM loài N. longispinosus. Hai loại thuốc PolytrinP 440EC và Secure 10EC làm cho tỷ lệ nở của trứng NNBM loài N. longispinosus giảm tương ứng đến 31,11% và 29,07% sau khi xử lý thuốc 72 giờ. Đặc biệt, các quan sát cũn cho thấy thuốc PolytrinP 40EC khụng những tỏc động làm cho trứng không nở mà cũn làm cho 20,69% số trứng khụ teo hẳn đi. Kết quả thí nghiệm cũn cho thấy thuốc Petis 24,5EC và Pegasus 500SC cũng có ảnh hưởng đến tỷ lệ nở của trứng NNBM loài N. longispinosus. Bốn loại thuốc cũn lại là Sokupi 0.36AS, Vineem 1500EC, Comite 73EC và Bifentox 30ND ít ảnh hưởng đến trứng của NNBM loài N. longispinosus. Trứng của NNBM loài N. longispinosus nở đạt 100% sau 3 ngày xử lý cỏc loại thuốc này. Từ kết quả thớ nghiệm cú thể sắp xếp độ độc của các loại thuốc đến trứng nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus theo thứ tự tăng dần như sau Sokupi 0.36AS, Vineem 1500EC, Comite 73EC, Bifentox 30ND, Pegasus 500SC, Petis 24,5EC, Secure 10EC, PolytrinP 440EC.
Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của 8 loại thuốc trừ nhện đỏ đến nhện trưởng thành cái của loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus cho thấy tất cả 8 loại thuốc đều có độ độc cao. Đặc biệt, ba loại thuốc PolytrinP 440EC, Pegasus 500SC và Secure 10EC đó gõy chết 100% nhện trưởng thành cái chỉ 24 giờ sau khi xử lý thuốc (bảng 2).
Bảng 2. Ảnh hưởng của thuốc trừ nhện đỏ hại bông đến nhện cái trưởng thành
Neoseiulus longispinosus Evans trong phũng thớ nghiệm (Nha Hố - Ninh Thuận, 2006)
STT
Tờn thuốc
Nồng độ (‰)
Độ hữu hiệu của thuốc
sau khi xử lý (%)
Tỷ lệ nhện chết sau 48 giờ (%)
Phõn hạng IOBC
24 giờ
48 giờ
1
Petis 24,5EC
0,35
54,17 b
77,59 b
76,85 b
2
2
Vineem 1500EC
0,35
7,50 d
48,15 d
50,00 d
2
3
PolytrinP 440EC
0,75
100,0 a
-
-
4
4
Pegasus 500SC
0,40
100,0 a
-
-
4
5
Comite 73EC
0,20
15,00 c
55,19 c
53,71 d
2
6
Bifentox 30ND
0,50
50,00 b
74,26 b
75,19 b
2
7
Secure 10EC
0,25
100,0 a
-
-
4
8
Sokupi 0.36AS
0,30
50,00 b
58,89 c
59,35 c
2
CV(%)
6,55
5,46
4,31
LSD0,05
6,01
6,45
5,10
Vineem 1500EC là loại thuốc ít gây độc nhất trong 8 loại thuốc được nghiên cứu đối với nhện trưởng thành cái loài N. longispinosus. Tỷ lệ nhện sống sút sau 48 giờ là 50%. Cỏc thuốc Comite 73EC và Sokupi 0.36AS gây độc cho loài N. longispinosus cao hơn so với thuốc Vineem 1500EC, nhưng vẫn ít gây độc hơn cho nhện N. longispinosus so với thuốc Petis 24,5EC và Bifentox 30ND. Tỷ lệ sống sút trung bỡnh của nhện trưởng thành cái sau 48 giờ tương ứng ở cỏc cụng thức này là 46,29% và 40,65% so với 23,15% và 24,81%.
Theo phân hạng của IOBC, 3 loại thuốc PolytrinP 440EC, Pegasus 500SC và Secure 10EC thuộc nhóm thuốc gây độc cao (cấp 4) cho trưởng thành cái loài N. longispinosus; 5 loại thuốc cũn lại gồm Vineem 1500EC, Comite 73EC, Sokupi 0.36AS, Petis 24,5EC và Bifentox 30ND thuộc nhóm độc nhẹ (cấp 2) cho trưởng thành cái loài N. longispinosus.
Tóm lại, kết quả đánh giá ảnh hưởng của các loại thuốc đến loài nhện nhỏ bắt mồi Neoseiulus longispinosus Evans cho thấy năm loại thuốc (Vineem 1500EC, Comite 73EC, Sokupi 0.36AS, Petis 24,5EC và Bifentox 30ND) ít độc đối với NNBM loài N. longispinosus. Năm loại thuốc này cũng là những loại thuốc có hiệu lực trừ nhện đỏ T. urticae Koch khỏ cao ngoại trừ thuốc Comite 73EC (Mai Văn Hào và ctv, 2006). Mặt dù thuốc PolytrinP 440EC hiệu lực trừ nhện đỏ hại bông có cao hơn so với Comite 73EC nhưng lại là loại thuốc độc hại cho loài N. longispinosus. Riêng 2 loại thuốc Pegasus 500SC, Secure 10EC có hiệu lực cao đối với cả trứng và trưởng thành cái của nhện đỏ T. urticae hại bông nhưng lại khá độc đối với loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus. Vỡ vậy, khụng nờn sử dụng 3 loại thuốc PolytrinP 440EC, Pegasus 500SC và Secure 10EC để trừ nhện đỏ hại bông khi có sự tồn tại của nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Hai loại thuốc PolytrinP 440EC, Secure 10EC là những loại thuốc rất độc đối với trứng và nhện trưởng thành cái của loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus trờn cõy bụng.
Pegasus 500SC ít độc đối với trứng nhưng lại rất độc đối với nhện trưởng thành cái của loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus trờn cõy bụng.
Năm loại thuốc ít độc với loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus tồn tại trờn cõy bụng là Vineem 1500EC, Comite 73EC, Sokupi 0.36AS, Petis 24,5EC và Bifentox 30ND.
Đề nghị
Không sử dụng các loại thuốc Pegasus 500SC, Secure 10EC và PolytrinP 440EC để trừ nhện hại bông và các loài sâu chích hút khi trên đồng có sự tồn tại của loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus.
Để trừ nhện đỏ T. urticae hại bông, nên sử dụng loại thuốc Sokupi 0.36AS, Vineem 1500EC, Petis 24EC và Bifentox 30ND nhằm hạn chế ảnh hưởng đến loài nhện nhỏ bắt mồi N. longispinosus.
TÀI LIệU THAM KHảO
Nguyễn Văn Đĩnh, 2004. Giỏo trỡnh nhện nhỏ hại cõy trồng, Nxb Nụng nghiệp.
Eberhard Schicha, 1987. Phytoseiidae of Australia and neighboring areas. Indira publishing house.
FAO, 1984. Recommended methods for the detection and measurement of resistance of agricultural pests to pesticides – Method for phytoseiid predatory mites. FAO Plant Protection Bulletin, 32(1), p. 25-27.
Nguyễn Thị Hai, Mai Văn Hào, Phan Công Kiên và ctv, 2005. Bỏo cỏo kết quả đề tài KHCN cấp Bộ "Nghiờn cứu phũng trừ sõu chớch hỳt và bệnh cõy bụng con trồng vụ Đông xuân". Viện Nghiờn cứu và Phỏt triển Cõy bụng.
Mai Văn Hào, Phan Công Kiên, Nguyễn Văn Chính và ctv, 2006. Bỏo cỏo kết quả đề tài KHCN cấp Bộ “Nghiên cứu nhện hại bông và biện pháp phũng chống”. Viện Nghiờn cứu và Phỏt triển Cõy bụng.
Hassan, 1994. Activities of the IOBC/WPRS Working Group “Pesticides and Beneficial Organisms”. In: Pesticides and Beneficial Organisms, (ed. Vogt H.), IOBC/WPRS Bulletin, 17, p.1-5.
Manita Kongchuensin, Akia Takafuji, 2006. Effects of some pesticides on the predatory mite, Neoseiulus longispinosus (Evans) (Gamasina: Phytoseiidae). Journal of the Acarological Society of Japan, 15(1), p. 17-27.
Overmeer, W.P.J., 1985. Toxicological methods. Spider mite, 1(B) (eds., Helle, W. and M. W. Sabelis), p. 183-189, Elsevier,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sự xuất hiện và hoạt động của ong ký sinh.doc