2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều năm lạm phát
ở mức “vừa phải”. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo (tổng cầu
của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (giá các yếu tố đầu vào tăng), nguồn
cung thiếu hụt ( khi nền kinh tế đạt tới mức sản lượng tiềm năng hoặc
vượt sản lượng tiềm năng), cung tiền tăng quá mức ( việc tăng tổng lượng
phương tiện thanh toán- M2) và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Phân
tích lạm phát ở nước ta các năm gần đây, có đủ các nguyên nhân, vừa là
lạm phát chi phí đẩy-do chi phí đầu vào (nguyên vật liệu, kho bãi, vận tải,
năng lượng, tiền lương, ) tăng, đẩy giá bán ở đầu ra lên cao; vừa là lạm
phát cầu kéo-do nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Chính phủ
tăng cao, kéo theo tăng giá bán các loại hàng hóa, dịch vụ; vừa là lạm
phát kỳ vọng-phát sinh từ các yếu tố tâm lý và đầu cơ. Tuy nhiên, năm
2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát”, tức là nguyên nhân gây
ra lạm phát năm 2008 chủ yếu do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố
đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao kỉ lục (dầu thô vượt ngưỡng
147USD/thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1000 USD/tấn,
phân bón, vải sợi đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nước ta. Đó
là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện, nước sinh
hoạt cũng tăng, chính phủ thực hiện cải cách tiền lương làm cho thu nhập
dân cư tăng và chi phí doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng
thêm áp lực lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, việc sử dụng
công cụ thị trường mở và tỉ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không
đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong
năm 2008, do tỉ giá giữa VND và USD xuống thấp kỉ lục bởi đồng USD
giảm giá do ảnh hưởng suy thoái kinh tế Mỹ và việc FED cắt giảm mức
lãi suất đồng USD xuống thấp nhất trong vòng nhiều năm qua (có lúc
xuống 0.25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam gặp
nhiều khó khăn
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4190 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động chính sách tài chính tiền tệ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam
2. Chính sách tiền tệ
Dường như chính sách tiền tệ từ cuối tháng 5 đến nay đang có hơi hướng
thay đổi, từ thắt chặt sang dần mở rộng.
Trong các thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cũng như phát ngôn chính thức
của lãnh đạo cơ quan này thời gian qua, từ “thắt chặt” gần như không được
dùng đến khi nói về việc điều hành chính sách tiền tệ. Thay vào đó là sự
“linh hoạt” và “thận trọng”.
Nhưng dù thế nào thì việc thắt chặt chính sách tiền tệ cũng đã thể hiện rõ từ
tháng 2/2011, khi Ngân hàng Nhà nước đồng loạt tăng các lãi suất điều hành,
và liên tiếp tăng lên cho đến các quyết định gần nhất là ngày 1/5. Hướng
điều chỉnh này được xem là sự quyết liệt trong việc sử dụng các công cụ lãi
suất để kiềm chế lạm phát.
Từ tháng 5 đến nay, ít nhất là chưa có lần tăng nào tiếp theo ngoại trừ việc
nâng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 14%/năm lên 15%/năm. Và chính
sách tiền tệ dường như đã có sự mở rộng nhất định.. Tuy nhiên, do lạm phát
vẫn còn ở mức cao và chưa có cơ sở để hạ nhiệt vào những tháng cuối năm,
nên trong 5 tháng còn lại, chính sách tiền tệ cũng chưa d dàng nới lỏng
Cung tiền còn rộng và cũng có khả năng việc cung tiền nếu điều tiết hợp lý
sẽ không sợ bị phá vỡ các chỉ tiêu của cả năm đã được hoạch định là tăng
trưởng tín dụng 20% và M2 15-16%. Đây chắc chắn sẽ là những cơ sở để
NHNN nghiên cứu những động thái mới, nhằm kéo giảm lãi suất tín dụng,
tiếp sức cho DN và nền kinh tế mà không để tác động tăng vọt CPI và kéo
theo lạm phát cao.
Tỷ giá hối đoái trên thị trường Việt Nam dần trở nên ổn định: tỷ giá tự do
giảm từ 22.500 (tháng 2/2011) xuống 20.600 (tháng 6/2011), giảm 6%, chỉ
tăng chút ít trong tháng 7. Tỷ giá giao dịch của ngân hàng tháng 5/2011 thậm
chí thấp hơn tỷ giá tham chiếu (lần đầu tiên sau 37 tháng). Dự trữ ngoại tệ tại
các ngân hàng đã tăng trở lại, áp lực lạm phát cũng giảm dần. Chỉ số CPI
tháng 5/2011 là 1,09 %; dưới sức ép của tỷ giá hối đoái đang tăng lên từ nay
tới cuối năm, dự báo CPI cả năm sẽ ở mức 19% -20%. Bên cạnh đó, lãi suất
tuy còn cao nhưng đã có xu hướng giảm nhẹ: lãi suất liên ngân hàng giảm từ
22% xuống còn 12%, lãi suất trái phiếu chính phủ giảm từ 14% xuống 12%,
lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân giảm 1%, thanh khoản tại các ngân
hàng ở mức ổn định. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối cũng được cải thiện đáng kể
II. Hạn chế
1. Chính sách v m
Thị trường tiền tệ năm 2010 có mặt hạn chế là không cung ứng được lưu lượng
tiền cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phát triển dịch vụ. Tuy rằng, lượng tiền
tệ có tăng trên 25% theo chỉ tiêu nhưng không có nghĩa là đi vào sản xuất, dịch
vụ mà đi vào lĩnh vực khác như chứng khoán, đầu tư bất động sản, ngoại tệ...
Thứ hai, có những bất cập trong chính sách tài khóa. Chúng ta đang đầu tư
nhiều vào những dự án thiếu hiệu quả kinh tế. Đặc biệt là quản lý tài khóa
không quản lý được rò rỉ từ các đầu tư của nhà nước.
Nhìn lại những chính sách về tiền tệ được ban hành và thực hiện trong năm
2010 vừa qua, chính sách về tiền tệ không nhất quán và những thông tư, chỉ thị
để làm giảm lãi suất chưa thực hiệu quả. Đến thời điểm này, lãi suất vẫn quá
cao. Ảnh hưởng đến phát triển nền kinh tế.
2. i suất:
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ năm qua không đáp ứng được mục đích chính
của chính sách tiền tệ. Đó là tạo cho nền kinh tế đủ lưu lượng tiền tệ để hoạt
động với lại một lãi suất hợp lý.
Cụ thể, trong những tháng đầu nhà nước đã có những biện pháp làm giảm lãi
suất xuống cũng như có khuyến nghị các ngân hàng nên giảm lãi suất. Nhưng
hững ngày cuối năm,
Chính phủ lại tuyên bố không kìm chế lãi suất mà ấn định theo thị trường.
Với sự bật đèn xanh như vậy, tạo ra nhiều vấn đề.
Thứ nhất, đối với các ngân hàng đang trong tình trạng yếu thế thu hút vốn thì
tăng lãi suất huy động thay vì đi làm khuyến mãi, tặng quà... Rồi sau đó lãi suất
cứ thế tăng dần lên. Đến khi Techcombank công khai huy động 17%, rồi một số
ngân hàng khác cũng tăng lên 18%... thì tạo ra loạn lãi suất.
hông phải vì huy động cao như thế nền kinh tế huy động được thêm tiền trong
nhân dân mà chỉ là đồng tiền chạy vòng từ ngân hàng này qua ngân hàng kia.
Các ngân hàng nhỏ gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề thanh khoản của
mình.
Hệ thống ngân hàng cũng gặp nguy cơ rủi ro nhiều hơn vì huy động cao thì phải
cho vay cao. Nợ xấu của ngân hàng tăng lên. Bên cạnh đó cũng tạo khó khăn
cho doanh nghiệp, không tiếp cận được nguồn vốn có lãi suất hợp lý để sản xuất
kinh doanh.
3.Thị trường chứng khoán
Năm 2011, trước những lo ngại của kinh tế toàn cầu về khủng hoảng nợ
công ở châu Âu và lạm phát gia tăng, thị trường chứng khoán trong nước có
nhiều bất ổn, gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
ể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, năm 2011 là một trong những
năm khó khăn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam và thậm chí còn khó khăn hơn
năm 2008 khi thế giới đối mặt với khủng hoảng tài chính.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 7 tháng đầu năm đã lên tới 14,61% và mục tiêu
kiểm soát CPI cả năm dưới 17% khó có thể đạt được. Tốc độ tăng trưởng GDP
trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 5,57%, thấp hơn mức tăng trưởng GDP cùng kỳ
năm 2010 (6,16%). Việc thi hành chính sách tiền tệ thắt chặt cùng với với lãi
suất vay tăng quá cao, giá nguyên nhiên liệu tăng đã tác động tiêu cực đến các
doanh nghiệp.
Theo báo cáo của Ủy ban inh tế Quốc hội, trong 6 tháng đầu năm có khoảng
30% số doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh phải phá sản, giải thể, đóng cửa,
tạm ngừng sản xuất. Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) của các doanh nghiệp
Việt Nam quí 2-2011 giảm tới 21 điểm xuống còn 88 điểm
Thị trường chứng khoán từ đầu năm đến nay chịu ảnh hưởng và phản ánh
những khó khăn, bất ổn của kinh tế vĩ mô. Đồng thời nó cũng chịu những tác
động trực tiếp của chính sách tiền tệ thắt chặt, đặc biệt là chủ trương cắt
giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng phi sản xuất trên tổng dư nợ của ngành ngân hàng
xuống 22% (30-6-2011) và 16% (31-12-2011). Tính từ đầu năm đến nay
(25-7-2011), chỉ số VN Index tụt giảm 15,54% và chỉ số HNX Index giảm
38,52%. Xu hướng suy giảm của thị trường chứng khoán chiếm ưu thế trong
7 tháng đầu năm 2011
Thanh khoản của thị trường cũng giảm sút mạnh, khối lượng giao dịch cổ
phiếu bình quân phiên từ mức 25-30 triệu cổ phiếu trong quí 1 trên mỗi sàn
xuống mức 15-18 triệu cổ phiếu trong tháng 7. Gần đây đã xuất hiện những
phiên giao dịch tại HSX và HNX mà khối lượng giao dịch nhiều cổ phiếu rớt
xuống mức thảm hại - dưới 100 cổ phiếu trong 1 phiên giao dịch. Thị trường
OTC và UPCOM cũng hầu như bị đóng băng với khối lượng giao dịch rất
ảm đạm không đáng kể.
Mặt bằng giá cổ phiếu, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang là một
trong những thị trường có giá cổ phiếu rẻ nhất trong các thị trường mới nổi.
Tính đến ngày 22-7-2011 có 200/284 cổ phiếu niêm yết tại HSX và 309/383
cổ phiếu niêm yết tại HNX có thị giá dưới giá trị sổ sách, 107/284 cổ phiếu
niêm yết tại HSX và 214/383 cổ phiếu niêm yết tại HNX có giá dưới mệnh
giá 10.000 đồng. Tuy nhiên, trước áp lực lạm phát cao và tốc độ tăng trưởng
chậm có nguy cơ bào mòn lợi nhuận của doanh nghiệp thì chỉ tiêu PEG có
thể bị suy giảm nên thị trường vẫn có thể đi xuống.
Chương 3: chính sách tiền tệ thời hậu suy giảm kinh tế việt nam
I/ Mục tiêu của chính sách tiền tệ thời hậu suy thoái kinh tế:
Sau thời kì suy thoái kinh tế, một chính sách tiền tệ đúng đắn thì trước hết phải
trước hết cần phải kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, ổn định sức mua đối nội
của đồng tiền để làm tiền đề tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Do vậy, Ngân hàng Trung ương luôn coi kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ làm
mục tiêu hàng đầu thuộc chính sách tiền tệ của mình. Tuy nhiên ở thời kì hậu
suy thoái, nền kinh tế cần được kích cầu nên ngân hàng đã thực hiện chủ trương
của chính phủ: nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng để ngăn chặn suy giảm kinh
tế nhưng phải đảm bảo ổn định giá cả, lãi suất, tỷ giá và an toàn hệ thống các cơ
sở tín dụng.
NHNN điều chỉnh nhiều lần lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái
chiết khấu, và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở cũng thay đổi nhiều lần. Cơ chế
điều hành lãi suất này đã kịp thời ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường
tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM những tháng đầu năm 2008;
an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư,
doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, cần tăng sự linh hoạt trong chính sách điều hành tỷ giá để hướng sản
xuất từ khu vực ngoại thương (xuất khẩu) sang khu vực phi ngoại thương (thị
trường nội địa) nhằm giảm sự phụ thuộc vào xuất khẩu, kích thích tiêu dùng
trong nướ. Bên cạnh đó, giảm giá dần VND có kiểm soát. Chính sách này sẽ
giúp thúc đẩy xuất khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại trong bối cảnh
chi tiêu Chính phủ rất lớn.
Và, rà soát đầu tư công theo hướng cơ cấu lại đầu tư khu vực này và xác định
mục tiêu ưu tiên đối với chúng. Theo đó, cần giãn tiến độ đối với các dự án sử
dụng nhiều vốn, tập trung vốn cho các dự án sử dụng nhiều lao động, ít nhập
khẩu
Cần kết hợp điều hành tỷ giá và lãi suất cùng các công cụ khác một cách linh
hoạt, phù hợp với từng gian đoạn cụ thể để đảm bảo nhất quán chính sách vĩ
mô, nhất là chính sách tiền tệ và tài khóa .
II/ Trọng tâm của chính sách và ảnh hưởng của nó đến nề kinh tế
Nhìn chung NHNN điều hành CSTT thận trọng, linh hoạt tùy vào di n biến thị
trường, có lúc thắt chặt có lúc mở rộng.
1. Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt(2007-2008): giai đoạn
2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều năm lạm phát
ở mức “vừa phải”. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo (tổng cầu
của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (giá các yếu tố đầu vào tăng), nguồn
cung thiếu hụt ( khi nền kinh tế đạt tới mức sản lượng tiềm năng hoặc
vượt sản lượng tiềm năng), cung tiền tăng quá mức ( việc tăng tổng lượng
phương tiện thanh toán- M2) và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Phân
tích lạm phát ở nước ta các năm gần đây, có đủ các nguyên nhân, vừa là
lạm phát chi phí đẩy-do chi phí đầu vào (nguyên vật liệu, kho bãi, vận tải,
năng lượng, tiền lương,…) tăng, đẩy giá bán ở đầu ra lên cao; vừa là lạm
phát cầu kéo-do nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Chính phủ
tăng cao, kéo theo tăng giá bán các loại hàng hóa, dịch vụ; vừa là lạm
phát kỳ vọng-phát sinh từ các yếu tố tâm lý và đầu cơ. Tuy nhiên, năm
2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát”, tức là nguyên nhân gây
ra lạm phát năm 2008 chủ yếu do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố
đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao kỉ lục (dầu thô vượt ngưỡng
147USD/thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1000 USD/tấn,
phân bón, vải sợi… đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nước ta. Đó
là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện, nước sinh
hoạt cũng tăng, chính phủ thực hiện cải cách tiền lương làm cho thu nhập
dân cư tăng và chi phí doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng
thêm áp lực lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, việc sử dụng
công cụ thị trường mở và tỉ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không
đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong
năm 2008, do tỉ giá giữa VND và USD xuống thấp kỉ lục bởi đồng USD
giảm giá do ảnh hưởng suy thoái kinh tế Mỹ và việc FED cắt giảm mức
lãi suất đồng USD xuống thấp nhất trong vòng nhiều năm qua (có lúc
xuống 0.25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam gặp
nhiều khó khăn.
Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009
Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỉ USD,
tương đương việc “bơm” khoảng 112.000 tỉ vào nền kinh tế làm cho lạm phát
càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào hơn 7 tỉ USD có những mặt tích cực
là làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (vốn còn ở mức rất thấp so với các nước
trong khu vực), đồng thời tăng giá trị đồng USD để khuyến khích xuất khẩu qua
đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước góp phần giảm bội chi cán cân
thương mại. Mặc dù sau đó NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để hút
tiền trở lại nhưng chỉ thu lại được khoảng 82.000 tỉ. Tuy nhiên, việc làm này
vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một lượng tiền quá lớn đã được
NHNN cung vào nền kinh tế. Thời kỳ này, NHNN thực hiện một loạt các biện
pháp quyết liệt phối hợp cùng chính sách tài khóa của chính phủ nhằm kiềm chế
lạm phát. Thủ tướng Chính phủ Ngy n Tấn Dũng đã thể hiện quyết tâm của
Chính phủ chống lạm phát bằng câu nói nổi tiếng “ hy sinh tăng trưởng để kiềm
chế lạm phát”. NHNN đã sử dụng đồng bộ các chính sách tiền tệ như: lãi suất
cơ bản (LSCB) VND được tăng cao nhất trong nhiều năm qua, được điều chỉnh
tăng lên 8.75%/năm từ ngày 01/02/2008 so với mức 8.25%/năm ổn định trong 2
năm trước đó và nhảy vọt lên mức 12%/năm từ ngày 19/05/2008. Chưa đầy 1
tháng sau đó, từ ngày 11/06/2008, LSCB đã lên đến đỉnh điểm 14%/năm. Cùng
với LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng
với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng thời gian từ
11/06/2008 đến 20/10/2008. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh tăng lên
11%/năm trong khi lãi suất dự trữ bắt buộc bị điều chỉnh giảm. Bên cạnh đó,
NHNN còn buộc các TCTD giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và
chứng khoán ở mức không quá 20% vốn điều lệ hoặc không vượt quá 3% tổng
dư nợ tín dụng, bắt các TCTD mua 20.300 tỉ tín phiếu bắt buộc có kỳ hạn 12
tháng với lãi suất chỉ có 7.58%/năm và không được sử dụng để tái chiết khấu tại
NHNN, thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở để “hút” tiền về.
15700
16200
16700
17200
17700
31/12/07 19/2/08 9/4/08 29/5/08 18/7/08 6/9/08 26/10/08 15/12/08 3/2/09 25/3/09 14/5/09 3/7/09
TGLNH
Bán NHNT
Sàn Biên độ
Trần biên độ
Biểu đồ l i suất cơ bản VND (%/năm)
Nguồn: NHNN Việt Nam
Biến động tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VNĐ ngắn hạn (%)
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt cùng hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo
ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh việc cấp
tín dụng của các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng
và bị đẩy lùi từ đỉnh điểm 3.91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng
5/2008 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng
cuối năm. Tỷ lệ lạm phát năm 2008 chỉ còn 19,89%.
Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện chính sách tài khóa “ thắt lưng buộc bụng”
nhằm hạn chế lượng tiền trong lưu thông như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án
đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả (tiết kiệm hơn 40.000 tỉ VND). Dồn vốn
cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức thời cho nền kinh tế như các dự án
nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng,…Chính phủ còn giao cho các đơn vị
hành chánh sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm chi thường
xuyên 10%, tăng cường chống thất thu thuế và nuối dưỡng nguồn thu, cơ cấu
lại các khoản nợ và rà soát lại các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ
chức đánh giá hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữu
nhà nước.
2. Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ mở rộng (từ cuối năm 2008 cho
đến hết thời điểm nghiên cứu 2009):
CSTT bao giờ cũng có độ tr thời gian nhất định. Việc “thắt chặt” tiền tệ mạnh
tay của Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh nhưng cũng làm
cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại vì luồng tiền dành cho nhu cầu đầu tư,
tiêu dùng giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm cho các doanh nghiệp không thể
tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi
vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Cùng với việc nền kinh tế thế giới
rơi vào khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ do “cho vay dưới chuẩn” trong
lĩnh vực bất động sản gây ra. Mỹ, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác rơi vào suy
thoái khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI
giảm gây khó khăn cho việc xuất khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam đã
càng làm cho kinh tế nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối
năm 2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng là lúc NHNN quay
lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.Từ tháng 10/2008, khi mà lạm phát
đã được kiềm chế thì NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ
“thắt chặt” sang “nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp:
- ênh lãi suất: LSCB đã được hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ
21/10/2008), 12% (từ 05/11/2008) và liên tiếp được điều chỉnh trong
vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/2008,10% từ 05/12/2008,
8.5% từ 22/12/2008) trước khi ổn định ở mức 7% (từ 01/02/2009) và duy
trì cho hết tháng 11/2009; lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh giảm từ
12%/năm xuống còn 5%/năm (10/04/2009); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tiền gửi bằng VND từ 11%/năm xuống còn 3%/năm.
Diễn biến l i suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
1/08 2/08 3/08 4/08 5/08 6/08 7/08 8/08 9/08 10/08 11/08 12/08 1/09 2/09 3/09 4/09 5/09 6/09 7/09
Huy động
Cho vay
Lạm phát
2009
Nguồn: NHNN Việt Nam
Trong tháng 12/2009, để kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù
hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương
của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD huy động các nguồn vốn
từ nền kinh tế để mở rộng kinh doanh và đáp ứng các nhu cầu vốn sản xuất-kinh
doanh có hiệu quả, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7%/năm lên
8%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm lên 6%/năm.
- Nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ: nghiệp vụ thị trường
mở được điều hành linh hoạt, bám sát di n biến cung cầu của các TCTD
với lãi suất được điều chỉnh theo mục tiêu quản lý của NHNN. Nửa đầu
năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất
chào mua giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn
cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho
các chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên chương trình
kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu vốn của nền
kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên nhu cầu
tham gia các phiên chào mua trên nghiệp vụ thị trường mở không cao với
doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN.
hối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1000 tỷ
đồng/phiên.Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các
TCTD có xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính
phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở,
khối lượng trúng thầu bình quân các phiên tăng mạnh, đạt 95% khối
lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỷ đồng/phiên, gấp 6 lần
so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong tháng 12, NHNN đã chào
mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng xấp xỉ 15000 tỷ
đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán
tăng cao trong dịp tết dương lịch. ỳ hạn chào mua được thực hiện linh
hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và
7%-8%/năm. Đồng thời để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh
hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong hệ thống, NHNN đã thực hiện
chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 và 6 tháng,
phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68
phiên đấu thầu bán tín phiếu NHNN có 2 phiên trúng thầu với doanh số
đạt 102 tỷ đồng; mặt khác, NHNN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các
TCTD gặp khó khăn tạm thời về nguồn vốn bằng VND, tạo điều kiện cho
các TCTD cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn VND và ngoại tệ, góp
phần ổn định thị trường tiền tệ và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. ỳ hạn
giao dịch hoán đổi ngoại tệ được thực hiện là 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng
với lãi suất tương ứng là 6%/năm, 6.25%/năm, 6.5%/năm. Đến cuối năm
2009,NHNN chỉ thực hiện giao dịch đối với các kỳ hạn 3 tháng và 6
tháng với lãi suất được điều chỉnh tăng tương ứng lên mức 7.75%/năm và
8%/năm. Bên cạnh đó NHNN còn cho phép các TCTD xin chiết khấu, tái
chiết khấu và thanh toán trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua
trước hạn.
- Về tỷ giá: Di n biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 là hết
sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng
xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong
ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có
lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1%
lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp
khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông,
công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt
Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến
hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn
cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân
cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ,
làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã
thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và
+5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác điển hình
như tiến hành nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm tỷ giá để hỗ trợ nhu cầu
nhập khẩu thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều hoà cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Vì vậy, tỷ giá ngoại
tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng
thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ l i suất: Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao
gồm các nhóm giải pháp cơ bản: (i)Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế
TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với dân cư: trợ cấp người nghèo,
giãn/mi n thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động; (3) Về phía Chính
Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến
thương mại để tăng xuất khẩu. Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính
sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các công
cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ.Đến hết
tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của toàn hệ thống ngân
hàng đã đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp
nhà nước là 61.048 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454
tỷ đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỷ đồng. Để đối phó với suy thoái,
Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ trợ lên tới hàng
ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản xấu, sở
hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền
cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ,
mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1
tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất
“made in Việt Nam”. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà
được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã
kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được
nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phảm, duy trì ổn định sản
xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, … Cũng đã có nhiều ý kiến trái
chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ rằng can thiệp như vậy
sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy thực chất là kích
cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá” qua lãi
suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công
bằng mà nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong
muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn
VND tăng mạnh, một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ
chuyển sang vay bằng VND, …); tạo sức ép cho tỷ giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tế ngày càng
minh chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ
của Chính Phủ có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu
chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực
hiện có thể phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có
thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”[1], các NHTM không huy động được và
cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng
cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi
suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng
và vẫn đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua
tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần tạo ra một nguồn vốn lớn cho
đầu tư và tiêu dùng xã hội.
Các chính sách trên được thực hiện vì các mục đích sau:
Thứ nhất, với việc thực hiện CSTT nới lỏng và thực hiện chương trình kích
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động chính sách tài chính tiền tệ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng kinh tế.pdf