Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA, APEC và WTO

 

Lời nói đầu 1

Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt nam. 3

A/ Khủng hoảng tài chính tiền tệ 3

I. Diễn biến cuộc khủng hoảng. 3

II. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. 8

III/ Tính chất của cuộc khủng hoảng 16

B. Những tác động 16

I/ Đối với các nước trong khu vực. 16

II/ Đối với Việt Nam 18

1/ Thương mại 19

2/ Đối với đầu tư nước ngoài. 22

3/ Tâm lí xã hội 23

4/ Sản xuất trong nước 24

5/ Ngân sách Nhà nước 24

6/ Tác động đến lĩnh vực ngân hàng - tài chính : 25

B/ Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA , APEC và WTO. 26

I Đối với các nước trong khu vực. 29

1/Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước 29

2/ Các biện pháp trục vớt và cải thiện hệ thống tài chính quốc gia. 30

II/ Đối với Việt Nam 34

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA, APEC và WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9,5 11,7 Tổng cộng 847,0 100,0 1589,5 1218,9 100,0 Nguồn : Nền kinh tế TháI lan đối mặt với điều chỉnh cơ cấu - Nhóm nghiên cứu kinh tế Châu á FUMYUKI-TESTUJI SANO , Viện Nomura. Điều nguy hiểm hơn là các khoản tín dụng trên do nhiều lí do đã không được bảo đảm. Chính vì vậy khi nền kinh tế bị đình đốn, xuất khẩu giảm sút làm cho các doanh nghiệp vay vốn không có khả năng hoàn trả đã đưa các tổ chức ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản, gây lên các cú sốc trong hệ thống tài chính ngân hàng và và khởi đầu cho sự khủng hoảng. Thêm vào đó, chính sách quản lí nợ của hệ thống ngân hàng các nước bị khủng hoảng chưa được coi trọng đúng mức. Trong khi thị trường tài chính tại các nước này có mức độ tự do hoá mạnh, các luồng vốn được di chuyển dễ dàng thì cơ chế quản lí, giám sát của NHNN đối với các NHTM và của NHTM đối với các doanh nghiệp lại lỏng lẻo và không kiểm soát dẫn đến tình trạng vạy nợ nước ngoài tràn lan. Tại hầu hết các nước bị khủng hoảng đều duy trì chính sách lãi suất trong nước cao hơn nhiều so với lãi suất bên ngoài nên càng khuyến khích hàng loạt các công ty vay nợ từ nước ngoài để hưởng chi phí vốn thấp. Chẳng hạn, tại Thái lan 9/10 công ty do Viện Pharta Thankit thống kê đã vay nợ tại nước ngoài với lãi suất là 8,5% năm thấp hơn rất nhiều so với lãi suất trong nước là 13,5% / năm. Đồng thời hệ thống ngân hàng tại các nước này đã không điều chỉnh hợp lí tỷ lệ vay nợ ngắn hạn và dài hạn. Khoản vay ngắn hạn ngày càng gia tăng. Chỉ tính riêng ở Thái lan đã tăng gần 42% trong vòng 2 năm từ 29,3 tỷ USD năm 1994 lên đến 41,5 tỷ USD năm 1996. Còn đối với Indonesia theo ước tính số nợ nước ngoài ngắn hạn chiếm 34,3 tỷ USD trong tổng số 120,5 tỷ vay nợ nước ngoài. Trong khi đó các nước đều duy trì tỷ giá cố định theo USD vì vậy khi nền kinh tế các nước bị lâm vào tình trạng sa sút về xuất khẩu , tăng trưởng chậm kéo theo tình trạng thiếu ngoại tệ để thanh toán nợ nước ngoài đã đến hạn. Tình hình đó dẫn đến sức ép về phá giá đồng bản tệ ngày càng mạnh. Điều này càng xấu thêm khi những lời đồn đại về khả năng phá giá đồng bản tệ đã thúc dục các công ty và cá nhân đổ xô đi mua ngoại tệ nhằm trang trải các khoản nợ. Hành động này cộng hưởng với sự gia tăng đầu cơ càng làm tăng sức ép đối với đồng bản tệ vốn được coi là bị đánh giá quá cao trong bối cảnh nền kinh tế đình đốn của các nước. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng các nước này còn thể hiện trong việc chậm trễ có các giải pháp đối phó với tình trạng di chuyển vốn ngoại tệ một cách khá tự do. Chính sách quản lí ngoại hối quá lỏng lẻo đã tạo điều kiện cho sự chuyển đổi dễ dàng giữa đồng bản tệ và ngoại tệ dẫn đến không kiểm soát được sự rời đi của các dòng vốn do sự bán tháo đồng nội tệ để lấy USD khi xuất hiện các dấu hiệu bất ổn định trên thị trường tiền tệ . Tóm lại, theo chúng tôi khủng hoảng tiền tệ tại các nước Châu á năm 1997 là kết quả của một nền kinh tế hướng ngoại bị lệ thuộc nặng nề vào một số ngành công nghiệp xuất khẩu và vào các khoản vay nợ, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn bên ngoài không được kiểm soát. Trong khi đó các nước lại duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc với sự vận hành của hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém. III/ Tính chất của cuộc khủng hoảng Tính chất của cuộc khủng hoảng ở Châu á hiện nay cũng là một vấn đề quan trọng được bàn cãi. Ban đầu khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra người ta cho rằng đó là sự biến động tiền tệ hay khủng hoảng tiền tệ thông thường, dần dần với mức độ tác động mạnh và ngày càng sâu rộng nhiều quan điểm nhận định đây là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ rồi khủng hoảng tài chính. Theo chúng tôi cần thiết phải có quan điểm đúng về tính chất của cuộc khủng hoảng, cùng với xác định đúng nguyên nhân việc xác định chuẩn xác tính chất của cuộc khủng hiện nay sẽ là cơ sở để các nước đề ra các biện pháp phục hồi lại nền kinh tế và đối với các nước chịu ảnh hưởng ít sẽ là cơ sở để có các biện pháp ngăn chặn. Căn cứ vào diễn biến và nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng đã phân tích ở trên chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay đã thực sự trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế -tài chính và mang tính quốc tế hoá sâu sắc. Cuộc khủng hoảng diễn ra theo cơ chế hình sóng, lan toả từng đợt và tác động, xâm nhập vào các nền kinh tế khác theo cơ chế “Đôminô “theo nguyên tắc càng xa, càng cách biệt trong quan hệ kinh tế thì mức độ càng nhẹ. Những tác động I/ Đối với các nước trong khu vực. Sự phá giá của đồng Baht và các đồng tiền khác của các nước Đông Nam á gây ra hậu quả nghiêm trọng lâu dài và tác động xấu đến mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hôị của đất nước. Trong thời gian trước và trong khủng hoảng, các nước đều phải tiêu tốn số lượng ngoại tệ lớn để chống đỡ giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá mức. Thái lan sử dụng 15 tỷ USD trong tổng số 33 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Nhà nước để cứu nguy cho đồng Baht, Philippines cũng sử dụng 20% tổng số dự trữ để hỗ trợ cho đồng peso. Các nước khác như Malaysia, Indonesia cũng sử dụng nhiều tỷ đôla Mỹ vào mục đích nói trên. Nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ tăng lên khoảng 25-40 % tuỳtheo mức độ phá giá của đồng tiền. Như vậy, nợ nước ngoài của Thái lantừ 85 tỷ USD lên 119 tỷ USD ; Malaysia từ 29 tỷ lên 36,5 tỷ USD ; Philippines từ 43, 5 tỷ lên 54,4 tỷ USD ; Indonesia từ 109,3 tỷ lên150,5 tỷ USD. Hoạt động đầu tư, kinh doanh bị đình đốn. Hàng loạt các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản. Do đồng tiền bị mất giá, nền kinh tế vĩ mô không ổn định, nguồn đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm sút và có thể sẽ chuyển sang khu vực khác ổn định và có nhiều lợi thế hơn như Trung quốc, khu vực Mỹ Latinh... Hệ thống tài chính đổ vỡ gây sức ép lớn tới lạm phát, giảm thu nhập của người lao động, tác động xấu đến các mặt của đời sống chính trị, xã hội. Cuối cùng để khắc phục được hậu quả khủng hoảng, ổn định trở lại nền kinh tế trên thế cân bằng mới, các quốc gia này phải tiêu tốn một lượng tài chính rất lớn, theo ước tính vào khoảng trên dưới 10% GDP. Đây là khó khăn lớn nhất không thể giải quyết ngay được trong một thời gian ngắn. Bên cạnh những tác động tiêu cực, cuộc khủng hoảng cũng có những yếu tố tích cực sau : Giảm giá đồng tiền lại góp phần khuyến khích xuất khẩu, hàng xuất khẩu của các nước này có thêm cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế nhất là trong tương quan so sánh với các mặt hàng cùng loại của các nước trong khu vực có đồng tiền ổn định hơn. Các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ, bao gồm tiền lương, đất đai, dịch vụ... giảm một cách tương đối cao so với các nước khác, nên khi khủng hoảng kết thúc thì chính các nước này lại có lợi thế thu hút vốn đầu tư, cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Nếu xét về lâu dài, thì đây là dịp các nước này rút ra được các bài học điều chỉnh lại các chính sách vĩ mô, điều chỉnh lại cơ quan phát triển kinh tế. Những kết quả của các cải cách này sẽ tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững hơn. Không chỉ ảnh hưởng tới các nước trong khu vực châu á, cuộc khủng hoảng còn có tác động tới nền kinh tế khoẻ mạnh của Mỹ. Năm 1997 là năm sức khoẻ nền kinh tế Mỹ tốt hơn bao giờ hết. Giới kinh doanh Mỹ tự nhủ nếu không có khủng hoảng châu á, năm 1998 này họ đã có thể dễ dàng tiên đoán thêm một năm ăn nên làm ra nữa. Cuộc khủng hoảng đang làm các nhà xuất khẩu Mỹ đau đầu : thâm hụt mậu dịch chừng 115 tỷ USD trong năm 1997 sẽ tăng vọt quá con số kỷ lục là 153 tỷ USD như năm 1987, nếu các công ty Mỹ không tìm được thị trường mới ở châu á và châu Mỹ để bù đắp vào xuất khẩu sang châu á đang giảm sút. Vì vậy, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ khoảng 2,4 % so với 3,7 % của năm 1997, năm có mức tăng trưởng cao nhất của Mỹ kể từ 1988. Lạm phát trong năm 1997 chỉ còn 2,1%, thấp nhất kể từ năm 1965, nhưng nhiều người tin rằng con số này sẽ tăng lên 2,5% năm nay. Tỷ lệ thất nghiệp đã xuống còn 4,6 % vào tháng 11 năm ngoái, cũng là mức thấp nhất trong vòng 24 năm qua, sẽ nhích lên 5% vào đầu năm 1998 II/ Đối với Việt Nam Là một quốc gia nằm trong khu vực khủng hoảng, trong bối cảnh quốc tế hoá cao như hiện nay, rõ ràng Việt Nam không tránh khỏi những tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn, tốt và xấu của nó đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Ban đầu khi cuộc khủng hoảng vừa bùng nổ nhiều ý kiến phân tích nhận định rằng nền kinh tế Việt nam sẽ không bị ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể , căn cứ của luận điểm trên mới chỉ dừng ở sự phân tích bề ngoài như : + Đồng tiền Việt nam chưa phải là đồng tiền được chuyển đổi dễ dàng , chưa tham gia vào thị trường tiền tệ khu vực. + Việt nam chưa có thị trường chứng khoán Tuy nhiên theo chúng tôi việc phân tích các tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu á đến nền kinh tế Việt nam phải xuất phát từ góc độ Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN , bước đầu gia nhập AFTA và tới đây trong xu thế hội nhập sẽ gia nhập APEC , WTO . Chỉ có như vậy mới có thể đưa ra được những đánh giá mang tính khoa học. Đối với Việt nam cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã có những tác động ở mức độ khác nhau trên nhiều lĩnh vực chủ yếu như : thương mại, đầu tư , tâm lí xã hội và vấn đề nợ nước ngoài. Sau đây ta sẽ di xem xét những ảnh hưởng trên từng lĩnh vực cụ thể : 1/ Thương mại So với các nước, tỷ trọng thương mại của Việt nam với các nước trong khu vực Châu á đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong đó về nhập khẩu các nướ ASEAN chiếm tỷ trọng trên 25%, các nước Châu á khác chiếm trên 45% tổng kim ngạch nhập nhẩu của Việt nam. Tính chung lại thì hàng năm Việt nam nhập khẩu từ các nước Châu á với tỷ trọng lớn trên 70%. Các mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ các nước này vào Việt nam gồm : xăng dầu, sắt thép, phân bón, xi măng, linh kiện điện tử, ôtô, xe máy. Về xuất khẩu, đối với thị trường các nước ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt nam chiếm tỷ trọng không dưới 20%, thị trường Châu á chiếm 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam. Tính chung, Việt nam xuất khẩu hàng hoá sang các nước Châu á chiếm khoảng trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm : dầu thô, than đá, cao su, cà phê hạt, gạo, dệt may, da giầy và hải sản . Bảng 10: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt nam và ASEAN . Nguồn : Bộ thương mại Các nước Năm 1996 Năm 1997 Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng Tổng số 11.668 100 7.350 100 11.150 100 8.760 100 Các nước Asean 2.948 25,2 2.252 30,6 3.098 27,8 1.787 20,4 Các nước Châu á khác 5.537 47,4 2.177 37,0 5.391 48,3 3.740 42,7 Phần còn lại 3.195 27,4 2.379 32,4 2.661 23,9 3.323 36,9 Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á hoạt động xuất nhập khẩu của Việt nam cũng có một số biến động. Thứ nhất : Về xuất khẩu. Do đồng nội tệ của các nước bị khủng hoảng mất giá hơn so với Việt nam Đồng nên theo nguyên lí xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang các nước này sẽ bị hạn chế do giá của các hàng hoá này trở lên đắt tương đối và nhu cầu nội địa tại các nước bị khủng hoảng giảm sút. Bên cạnh đó như phần trên đã chỉ ra cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam cũng giống như cơ cấu hàng xuất của các nước ASEAN do đó chắc chắn vễ xuất khẩu của Việt nam hiện tại và trong tương lai sẽ có sự sụt giảm đáng kể. Điều này được phản ánh qua số liệu tình hình xuất nhập khẩu năm 1997 khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng, xuất khẩu của Việt nam thời gian này giảm từ 2.252 triệu USD năm 1996 xuống còn 1.787 triệu USD ( bảng trên ) , mức giảm là 465 triệu USD. Đặc biệt phân tích tình hình xuất khẩu cho thấy thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đang có xu hướng bị thu hẹp. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang các nước ASEAN, Nhật và Hàn Quốc đạt khoảng 42,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu trong đó trên 24% là sang các nước ASEAN nhưng trong đó 65-79% là hàng xuất sang Singapore một quốc gia bị ảnh hưởng ít của cuộc khủng hoảng. Dự đoán của các chuyên gia sang năm 1998 và kéo dài ít nhất 1-2 năm nữa mức ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến xuất khẩu của Việt nam còn lớn hơn . Số liệu đầu năm 1998 ( tháng 1/98) cho thấy xuất khẩu của Việt nam sang các nước ASEAN đã giảm 57% so với tháng 12 năm 1997 , xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 24% và sang Đài loan giảm 50%, theo báo cáo của NHNN xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% ( trong khi đó cùng kì năm 1997 tăng 32%). Vì vậy trong thời gian tới Chính phủ cần có các biện pháp kịp thời nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng và thúc đẩy xuất khẩu . Thứ hai : Về nhập khẩu. Theo lí thuyết thì nhập khẩu của Việt nam từ các nước bị khủng hoảng Châu á sẽ tăng mạnh song thực tế ngay từ đầu năm 1997 Chính phủ Việt nam đã áp dụng các biện pháp để hạn chế nhập siêu, đặc biệt là đối với các mặt hàng trong nước có khả năng đáp ứng và những mặt hàng tiêu dùng. Vì vậy qua tình hình nhập khẩu năm 1997 cho thấy các mặt hàng nhập khẩu vào Việt nam bao gồm các loại vật tư, nhiên liệu, máy móc phục vụ cho sản xuất đều được nhập khẩu khá dễ dàng nhờ thuế suất thấp, rõ ràng đây là mặt lợi mà cuộc khủng hoảng trong khu vực đem lại cho Việt nam. Theo báo cáo của Bộ thương mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20-40% so với trước khi xảy ra khủng hoảng, giá nguyên liệu nhựa giảm 10-30%, linh kiện điện tử giảm 10-30%, bông xơ các loại giảm 10-15%. Đây thực sự là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt nam tận dụng để giảm chi phí đầu vào . Bên cạnh đó do tác động của cuộc khủng hoảng tệ nạn buôn lậu ngày càng gia tăng do giá cả hàng hoá tại các nước này rẻ so với hàng hoá tại Việt nam và các nước không bị ảnh hưởng mạnh. Điều này nếu không có sớm các biện pháp ngăn chặn sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Theo chúng tôi, hiện nay có thể áp lực của cuộc khủng hoảng đối với nhập khẩu không là đáng kể song trong thời gian tới mức độ tác động sẽ lớn hơn khi Việt nam phải thực hiện các chương trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu theo quy định của AFTA . 2/ Đối với đầu tư nước ngoài. Đầu tư dưới dạng ODA : Thực tế về huy động vốn đầu tư ODA của Việt nam cho thấy hiện nay đang diễn ra quá trình cạnh tranh và giành giật hết sức quyết liệt giữa các nước nghèo, các nước đang phát triển nguồn vốn ODA từ các nước phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Số liệu cho thấy trong các hiệp định cho vay đa phương thì WB ( World Bank ) chiếm 22% tổng số vốn cam kết, tiếp sau là ADB 16%. Như vậy sau khi xảy ra khủng hoảng chắc chắn mức cam kết của ADB sẽ giảm xuống. Các nước trước đây thường cho Việt nam vay vốn ODA như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng nên việc gia tăng các nguồn vốn ODA từ các nước này cũng sẽ rất khó khăn . Như vậy việc huy động nguồn vốn ODA sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng. Về thu hút đầu tư dưới dạng FDI ( Foreign Direct Invesment ) : Đầu tư ở Việt nam từ sau khi ban hành Luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ( năm 1987 ) đã ngày càng tăng mạnh cả về chất và lượng. Bảng 11 : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Số dự án cấp phép 155 193 272 362 404 501 479 Vốn đăng kí ( Tr.USD) 1388 2271 2987 4071 6616 9212 5548 Số dự án giải thể 38 48 34 58 56 52 55 Số vốn giải thể 293 401 79 217 477 1024 243 Số dự án tăng vốn 6 10 51 73 122 134 143 Số vốn tăng 7,7 49 222 504 1247 684 1095 Vốn thực hiện 221 398 1106 1952 2652 2371 2950 Tỷ lệ VTH/VĐK(%) 24 22,7 28 34,1 34,8 33 53,1 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Số liệu năm 1997 cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam đã có dấu hiệu chững lại. 3/ Tâm lí xã hội Cơn bão tài chính tiền tệ tại các nước Châu á mà tâm điểm là khu vực Đông Nam á nổ ra đã tác động mạnh đến tâm lí của người dân Việt nam. Những ảnh hưởng này thể hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và các tổ chức kinh tế quy đổi sang ngoại tệ hoặc các loại tài sản khác như vàng, đá quý vì lo sợ sự mất giá nghiêm trọng của VNĐ. Trong cơ cấu tiền gửi tại ngân hàng tiền gửi bằng Việt nam đồng có xu hướng tăng chậm trong khi tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cả tiền gửi ngoại tệ của dân chúng và của các doanh nghiệp. Tuy nhiên theo chúng tôi tác động tâm lí mạnh nhất của cuộc khủng hoảng là đã có không ít những quan điểm cho rằng : cơn bão tài chính tiền tệ chỉ xảy ra và lan truyền theo hiệu ứng đến những quốc gia có nền kinh tế đang trong thời kỳ tự do hoá và hội nhập vào khu vực và trên thế giới và như vậy, để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự Việt nam không vội vàng gì phải đẩy nhanh quá trình hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, và cuối cùng cần phải xem lại mô hình và đường lối phát triển kinh tế của Việt nam. Thêm nữa, sau khi nhận thấy một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng là do việc điều hành chính sách tỷ giá không hợp lí tại các nước bị khủng hoảng không ít những nhà kinh tế đã lên tiếng cho rằng việc giữ ổn định tỷ giá hiện nay của Việt nam là sai lầm và cần phải phá giá VNĐ để trả lại giá trị đích thực cho đồng bản tệ , chỉ có như vậy mới có thể thúc đẩy xuất khẩu. Về gián tiếp, những quan điểm này đã tác động mạnh đến xu hướng đầu cơ và tích trữ ngoại tệ ở Việt nam trong thời gian này . 4/ Sản xuất trong nước Do biến động của tỷ giá VNĐ/USD và hiệu ứng tâm lí của cuộc khủng hoảng làm cho quá trình đầu tư trong nước có xu hướng giảm. Khi có biến động về tiền tệ các khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành các ngoại tệ mạnh và các loại taì sản quý để tích trữ điều này gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn trong nước của ngành ngân hàng. Mặc dù qua số liệu năm 1997 lượng vốn huy động trong nước qua hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục tăng trưởng 21 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 1996 ( tăng 25% ), trong đó tốc độ tiền gửi ngoại tệ tăng 27,9%, tiền gửi bằng VNĐ tăng 24,8% đưa tỷ lệ tiền gửi so với GDP tăng từ 25% năm 1996 lên 28%. Song hiện tại ngân hàng mới chỉ đáp ứng được được khoảng 45-46% nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh. Trong khi đó việc các nước trong khu vực phá giá đồng nội tệ đã làm cho hàng sản xuất từ các nước này trở lên rẻ tương đối và cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất của Việt nam. Như vậy cuộc khủng hoảng đã làm cho việc đầu tư mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu vốn và bị cạnh tranh gay gắt bới hàng hoá rẻ từ các nước trong khu vực. 5/ Ngân sách Nhà nước Về thu ngân sách : Như đã phân tích ở phần trên, do tác động của cuộc khủng hoảng lượng hàng nhập sẽ có xu hướng gia tăng vì vậy thu thuế từ nhập khẩu sẽ tăng lên. Song theo chúng tôi, xét về dài hạn thì mức tăng thêm sẽ không nhiều vì để đảm bảo các điều kiện cho quá trình hội nhập về kinh tế Việt nam phải cắt giảm hàng loạt thuế các mặt hàng nhập khẩu. Do tác động của cuộc khủng hoảng sẽ dẫn đến thu ngân sách Nhà nước có hai hiệu ứng trái ngược nhau : Một là : có khả năng tăng thu thuế xuất nhập khẩu. Hai là : gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên vật liệu tăng lên có thể làm cho các doanh nghiệp sản xuất Việt nam bị đình đốn thậm chí là phá sản và như vậy tác động của khủng hoảng sẽ làm giảm thu ngân sách. Về chi ngân sách : Trong thời gian tới do VNĐ mất giá 10-15% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng lên việc chi ngân sách Nhà nước sẽ tăng lên để đối phó với lạm phát có thể lên cao và chi trả nợ nước ngoài. Các khoản nợ tính bằng VNĐ của Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ tăng lên do VNĐ mất giá sẽ là gánh nặng cho các doanh nghiệp và Nhà nước, làm giảm đáng kể dự trữ quốc tế của Việt nam. 6/ Tác động đến lĩnh vực ngân hàng - tài chính : Cuộc khủng hoảng đã gây ra sức ép giảm giá đồng Việt nam trên thị trường hối đoái. Do đồng tiền của các nước trong khu vực mất giá từ 30-70% nên trên thực tế VNĐ đã lên giá so với đồng tiền các nước này và gây sức ép phá giá. Thực tế, tâm lí lo sợ VNĐ phá giá đã dẫn đến việc vội vàng chuyển từ VNĐ sang USD để tích trữ, đẩy tỷ giá USD trên thị trường tự do tăng mạnh trong một thời gian, có thời điểm lên tới 1USD=14.600 VNĐ. Để đối phó lại NHNN đã phải dùng nhiều biện pháp để đối phó như tung ngoại tệ ra bán, nâng mức biên độ dao động, tăng cường các biện pháp kiểm soát ngoại hối. Cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng. Vào thời điểm đầu năm 1998, lượng tiền gửi bằng VNĐ tăng chậm trong khi đó tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh ( kể cả tiền gửi của dân cư và của các doanh nghiệp ). Nhiều doanh nghiệp giữ lại ngoại tệ trên tài khoản mà không bán lại cho NHNN để tránh rủi ro do sự mất giá của VNĐ. Tình hình trên đã gây mất cân đối ngoại tệ ở từng thời điểm, gây sức ép đến tỷ giá VNĐ và sự ổn định của thị trường hối đoái. Ngoài ra ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng còn được thể hiện rõ qua hoạt động giao dịch ngoại tệ. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tính từ đầu năm đến tháng 3/1998, các hoạt động giao dịch có chiều hướng giảm sút , các ngân hàng thương mại chỉ tiến hành mua vào mà không bán ra ngoại tệ dẫn đến cầu vượt xa cung gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ từ đó gây sức ép tăng lãi suất và dễ làm mất ổn định hệ thống ngân hàng. Ngoại tệ tăng giá làm tăng nhu cầu vay vốn bằng Việt nam đồng do lãi suất thấp và tránh rủi ro về tỷ giá song khi nhu cầu vay vốn bằng VNĐ tăng lên tạo sức ép tăng lãi suất VNĐ, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến việc khuyến khích đầu tư trong khi đó hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về huy động vốn, cho vay và khả năng thanh toán trong nước và quốc tế. B/ Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA , APEC và WTO. Theo các mục tiêu của AFTA : tăng chu chuyển thương mại nội bộ giữa các nước ASEAN và thế thương lượng cạnh tranh thương mại của toàn ASEAN với thế giới, tạo lập khu vực hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực và làm cho nền kinh tế ASEAN thích ứng với mọi biến đổi của nền kinh tế thế giới.. thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã hoàn toàn ảnh hưởng đến mục tiêu và các định hướng đặt ra. Do đó tiến trình rút ngắn thời hạn thực hiện AFTA của một số nước thành viên trong bối ảnh hiện nay là hết sức khó khăn. Vì vậy đối với Việt nam tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới bằng việc gia nhập ASEAN, APEC, WTO chắc chắn sẽ không tránh khỏi những trở ngại. Như phần trên đã phân tích xét về lâu dài những tác động của cuộc khủng hoảng trong khu vực đối với nền kinh tế Việt nam không phải là nhỏ, thêm vào đó ở trong nước, Việt nam cũng đang vấp phải những hiện tượng kinh tế có những nét tương tự giống như tình hình của các nền kinh tế ASEAN trước khi bị khủng hoảng như : hệ thống ngân hàng yếu kém, xuất hiện các khoản nợ khó đòi trong hệ thống các ngân hàng thương mại, thâm hụt ngoại thương và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút.. Những dấu hiệu này sẽ ảnh hưởng và làm giảm sút khả năng phát triển kinh tế của việt nam vào những năm tới. Theo đó, lộ trình thực thi AFTA mà Việt nam cam kết hoàn thành vào năm 2006 sẽ không dễ dàng thực hiện chứ chưa nói gì đến mong muốn rút ngắn thời hạn hoàn thành vào năm 2003 như một số người đã kỳ vọng trước khi cuộc khủng hoảng trong khu vực xảy ra. Điều này lại càng trở lên khó khăn hơn khi cuộc khủng hoảng đã diễn ra hết sức sâu sắc và nghiêm trọng, quy mô tác động của nó không chỉ giới hạn ở Châu á mà đã lan toả ảnh hưởng khắp toàn cầu. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN sẽ chậm lại trong một vài năm tới do đó sẽ làm chậm tốc độ chu chuyển thương mại của các nước ASEAN với nội bộ khu vực cũng như thế giới. Mức độ bổ sung lẫn nhau giữa các nước ASEAN theo đó sẽ không được tăng cường. Vì vậy mục tiêu của AFTA đặt ra là tăng chu chuyển thương mại nội bộ và thế thương lượng cạnh tranh thương mại của toàn ASEAN với thế giới ngày càng trở lên khó khăn hơn . Bên cạnh đó, khó khăn đối với tiến trình hội nhập của Việt nam hiện nay là quá trình thúc đẩy tự do hoá tài chính diễn ra chậm chạp trong khi quá trình xúc tiến tự do hoá thương mại và đầu tư mới đang ở bước đầu triển khai. Thêm nữa, trong khu vực, ảnh hưởng của khủng hoảng đã làm đầu tư nước ngoài giảm sút, nhu cầu trong nước do đồng tiền các nước bị mất giá cũng trở lên yếu kém cộng hưởng với nguy cơ sụt giảm và thâm hụt cán cân vãng lai tại thị trường Mỹ và Châu âu do tác động mang tính toàn cầu của cuộc khủng hoảng làm cho tiến trình AFTA của các nước ASEAN nói chung và Việt nam nói riêng trở lên khó khăn khi các thị trường làm điều kiện cho sự tăng trưởng năng động của nền kinh tế ASEAN cũng rơi vào tình trạng suy thoái. Tuy vậy, xét về lâu dài, theo chúng tôi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á đã tạo ra sự cần thiết phải đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế các nước ASEAN theo xu hướng toàn cầu hoá và theo đó với những lợi thế của mình tiến trình thực hiện gia nhập APEC, WTO trong một số năm sau cuộc khủng hoảng sẽ được thúc đẩy nhanh hơn . Phần II : Biện pháp hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ I Đối với các nước trong khu vực. 1/Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước Sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0614.doc
Tài liệu liên quan