Trong khi ngành du lịch đem lại những nguồn lợi ở tầm vĩ mô cho mỗi quốc gia dưới hình thức thu nhập ngoại tệ, thu ngân sách quốc gia, thì hậu quả của các hoạt động du lịch lại mang tính chất cục bộ địa phương, tức là cộng đồng địa phương phải chịu tác động của các vấn đề ngoài ý muốn như lượng du khách quá lớn, sức ép về tài nguyên, nguy cơ đối với nền văn hoá bản địa và các yêu cầu khác của ngành du lịch đối với địa phương. Những vấn đề này không phải là quá nặng nề nếu cư dân địa phương được hưởng lợi từ du lịch. Trừ phi những người này được hưởng ít nhất là một phần lợi nhuận kinh tế cũng như tài chính từ các hoạt động du lịch tại địa phương, thì lợi nhuận thu được từ du lịch vẫn không thể bù đắp được những tổn thất mà nó gây ra. Tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn đến thái độ bất mãn, thậm chí là thù địch đối với du khách. Đây là một vấn đề mà các nhà quản lý du lịch cần quan tâm nếu không muốn mất đi sự hợp tác của cộng đồng địa phương trong chiến lược phát triển du lịch.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10331 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động xã hội của du lịch - Báo cáo đề dẫn của GS. C.L.Jenkins, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên cạnh những chiến lược nhằm tăng cường lợi ích kinh tế của du lịch, các nhân tố xã hội, văn hoá, môi trường cũng cần được quản lý một cách hiệu quả.
Việc kiểm soát những tác động xã hội của du lịch không chỉ là trách nhiệm của riêng cấp chính quyền. Du lịch là một tập hợp gồm nhiều tiểu ngành, do đó sự phối hợp trong cam kết và hành động là cần thiết nhằm kiểm soát và hướng tới xoá bỏ các vấn đề tồn tại. Điển hình là việc Tổ chức Du lịch Thế giới WTO đưa ra kế hoạch xây dựng Lực lượng Đặc Nhiệm Giám sát Mại dâm Trẻ em và Mại dâm Du lịch (Tourism and Child Prostitution Watch Task Force) tại Đại hội Quốc tế về Phòng chống Khai thác Tình dục Trẻ em vì Mục đích Thương mại (World Congress against Commercial Sexual Exploitation of Children) tổ chức tại Stockholm, Thụy Điển (tháng 8/1996). Việc xoá bỏ những ảnh hưởng ngoài ý muốn của du lịch về mặt xã hội cũng như trong các lĩnh vực khác là mối quan tâm chung của các nhà đầu tư du lịch trên thế giới. Nếu hành động này không được thực hiện, thế giới sẽ phải đối mặt với thực tế các điểm đến du lịch có thể sẽ quay lưng lại với các hoạt động du lịch, trong không khí đó khách du lịch cảm thấy họ không hề được chào đón. Điều này sẽ dẫn đến sự giảm sút về lượng khách du lịch và theo đó, giảm sút về lợi ích kinh tế. Chỉ riêng lý do này cũng đã cho thấy sự cần thiết phải xem xét vấn đề phát triển du lịch theo hướng lạc quan hơn, thúc đẩy các tác động tích cực, kiểm soát và giảm thiểu các tác động ngoài ý muốn. Việc tạo ra sự cân bằng như vậy có thể là không đơn giản, nhưng nếu chúng ta không thực hiện các biện pháp quản lý và điều tiết, hình ảnh đẹp của du lịch như một nguồn lợi kinh tế không nhỏ có thể sẽ biến mất bởi những vấn đề xã hội gắn liền với nó.
MỤC TIÊU
Tài liệu này nhằm vào ba mục tiêu. Thứ nhất, xác định những tác động xã hội phổ biến nhất của phát triển du lịch. Thứ hai, đưa ra những lý do dẫn đến những tác động tiêu cực. Thứ ba, đề xuất các chính sách và chiến lược cho thế kỷ 21 nhằm giúp các quốc gia hạn chế các yếu tố tiêu cực, tăng tối đa những tác động tích cực đối với cư dân các điểm đến du lịch, từ đó đưa du lịch trở thành một ngành trong sạch, lành mạnh, đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao.
TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA DU LỊCH
Do phạm vi hạn hẹp, tài liệu này chỉ có thể đề cập đến một số tác động xã hội phổ biến nhất mà phát triển du lịch đem lại. Dù ít hay nhiều, những tác động này cũng xuất hiện ở tất cả các điểm đến du lịch. Đặc biệt, cần đề cập đến những vấn đề nổi cộm tại một số quốc gia. Mức độ ảnh hưởng về mặt xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có mô hình và mức độ tăng trưởng du lịch, tỉ lệ giữa du khách và cư dân địa phương, các xu hướng mang tính mùa vụ và tính co giãn của nền văn hoá - xã hội địa phương. Những yếu tố này thay đổi trên phạm vi từng vùng, từng quốc gia, nhưng tất cả đều góp phần tạo nên môi trường xã hội của cư dân địa phương. Sự đa dạng về tính chất của từng lượt khách cũng là một khó khăn trong việc phân tích các tác động xã hội. Ví dụ, du khách từ Nhật Bản có nền tảng văn hoá cũng như yêu cầu khác xa so với du khách từ châu Âu. Tương tự như vậy, xét trên khía cạnh cung, các nước chủ nhà cũng có những kỳ vọng ở khách du lịch và lối ứng xử riêng bắt nguồn từ nền văn hoá bản xứ. Mâu thuẫn này được đẩy lên ở mức độ sâu sắc hơn bởi du khách quốc tế thường có xu hướng không muốn hoà nhập vào cộng đồng bản địa. Qua quá trình quan sát tình hình phát triển du lịch toàn cầu, chúng tôi đã xác định được những phạm vi quan tâm liên quan đến tác động xã hội của du lịch. Như đã đề cập ở trên, các tác động về mặt xã hội không phải là những hiện tượng độc lập mà luôn chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, văn hoá, môi trường trong từng cộng đồng dân cư.
Dưới đây là một số tác động xã hội phổ biến gắn liền với quá trình phát triển du lịch. Các tác động tiêu cực sẽ được đề cập trước tiên bởi những vấn đề này thường được liên hệ một cách trực tiếp với du lịch. Tuy nhiên, chúng tôi cũng sẽ chỉ ra một số tác động tích cực để đảm bảo sự cân bằng trong việc hoạch định chính sách phát triển trong tương lai.
CÁC TÁC ĐỘNG XÃ HỘI TIÊU CỰC
1. Hình ảnh về điểm đến
Một điểm đến du lịch có thể là một quốc gia hay một địa điểm trong một quốc gia; đôi khi một tour du lịch cũng bao gồm nhiều quốc gia trong khu vực. Việc xây dựng một hình ảnh đẹp bao giờ cũng là mối quan tâm của mọi điểm đến bất kể cao cấp hoặc trung bình. Trong trường hợp du khách muốn lựa chọn một địa điểm du lịch còn mới mẻ với họ, quyết định của họ hiển nhiên sẽ chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như tờ rơi, phim ảnh, thư khuyến mại và các chương trình giới thiệu trên các phương tiện đại chúng. Chiến lược tiếp thị là trọng tâm của phát triển du lịch với nhiệm vụ xây dựng nên một hình ảnh hấp dẫn nhất về điểm đến. Tuy nhiên, các hoạt động tiếp thị thường vấp phải những hạn chế về mặt ngân sách, kéo theo việc đại bộ phận các cơ quan quản lý nhà nước về Du Lịch (NTA - National Tourism Administration) phải tìm đến sự trợ giúp từ phía đối tác nước ngoài mà chủ yếu là những công ty thương mại du lịch tại địa điểm xuất phát. Mặt khác, các đối tác tư nhân sẽ tự xây dựng những quan hệ quốc tế riêng như việc tiến hành quảng bá cho các tiện nghi và dịch vụ của mình. Hợp tác quốc tế mang lại cả những cơ hội và thách thức. Khả năng chia sẻ chi phí và mở rộng thị trường là những cơ hội có được, nhưng nếu chính phủ hoặc các cơ quan quản lý nhà nước về Du Lịch (hoặc cả hai cơ quan này) không có chính sách quản lý hiệu quả, đất nước sẽ đứng trước nguy cơ bị gắn liền với một hình ảnh không đáng có – kết quả của quảng bá du lịch. Xin đưa ra một ví dụ đơn giản nhất, đứng trước từ “rẻ tiền” (cheap) trong mẫu quảng cáo về một đất nước nào đó, không chỉ liên quan đến vấn đề tài chính mà còn bao hàm cả ý nghĩa về xã hội. Cụm từ “cuộc sống vô tư về đêm” (care-free night life) cũng có thể gây hiểu lầm. Hình ảnh là một phần rất quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch, đòi hỏi phải có sự tham gia của cấp chính phủ trong việc định hướng quảng bá cho đất nước, vạch ra đường lối chỉ đạo thực hiện chính sách, hướng dẫn các cơ quan quản lý nhà nước về Du Lịch và các tổ chức tư nhân hoạch định chiến lược phát triển du lịch đúng đắn, tránh những hình ảnh sai lệch ngoài ý muốn.
Khả năng xảy ra mâu thuẫn về mục đích quảng bá là hoàn toàn có thể khi hình ảnh mà chính phủ hoặc ngành du lịch tại nước chủ nhà muốn xây dựng không thống nhất với những gì mà các nhà điều hành du lịch ở nước ngoài cho rằng có nhu cầu cao hơn. Tuy nhiên, mâu thuẫn này có thể được giải quyết thông qua đàm phán; không lý do nào có thể bào chữa cho việc xây dựng nên hình ảnh một đất nước rẻ tiền, băng hoại về xã hội với các điều kiện không thể chấp nhận. Đây có lẽ là trường hợp mà sự phát triển du lịch tác động xấu đến cộng đồng địa phương. Kiểu quảng bá này nếu không được kiểm soát sẽ chỉ thu hút những đối tượng du khách ngoài ý muốn, điển hình là loại hình du lịch tình dục.
2. Tình trạng bóc lột
Bóc lột là một khái niệm nhạy cảm mà tầng lớp bóc lột thường phủ nhận, trong khi tầng lớp bị bóc lột lại cảm nhận nó một cách sâu sắc. Trên thực tế, phần lớn khách du lịch quốc tế đều xuất phát từ những nước giàu hơn để đến những đất nước nghèo hơn. Xét trên khía cạnh tích cực, xu hướng này góp phần tái phân phối thu nhập trên bình diện quốc tế và điều tiết lợi nhuận kinh tế tại nước nước chủ nhà. Về mặt xã hội, xu hướng này giúp nước chủ nhà tiếp cận với những nền văn hoá và lối sống mới. Tác nhân biểu hiện này tạo ra những ảnh hưởng về mặt kinh tế, xã hội và chính trị, đồng thời khiến người dân bản xứ thèm muốn mức sống của du khách nước ngoài. Khi so sánh giá cả tương đối thấp của các dịch vụ tại địa phương với thu nhập của du khách nước ngoài, người dân bản xứ thường nhận ra sự chênh lệch, và do đó cảm thấy bị bóc lột.
Tình trạng này có thể được giải thích dựa trên cơ sở trình độ phát triển của từng quốc gia. Tuy nhiên, do phần lớn du khách đều phải tiết kiệm trong một thời gian tương đối dài để trang trải cho chuyến đi, không phải lúc nào họ cũng có khả năng tiêu pha như vậy. Những du khách có vẻ giầu có thường kéo theo nhiều dịch vụ tiêu cực như ma tuý và mại dâm. Sự lan tràn của những dịch vụ này sẽ làm thay đổi hình ảnh của điểm đến, thu hút chỉ một bộ phận khách du lịch nhất định. Cùng với sự phát triển của những dịch vụ như vậy, cư dân địa phương, đặc biệt là những người không tham gia vào các hoạt động này, lại càng cảm thấy bị bóc lột nặng nề. Điều này khiến cho tư tưởng chống đối du lịch và du khách trở nên trầm trọng hơn, ảnh hưởng xấu đến chiến lược phát triển lâu dài của ngành du lịch.
3. Sự suy giảm các giá trị văn hoá
Như đã bàn ở trên, sự phát triển du lịch hiển nhiên sẽ ảnh hưởng đến nền văn hoá địa phương, và mức độ ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào một số yếu tố. Có lẽ yếu tố quan trọng nhất là tính co giãn của nền văn hoá bản địa và khả năng đáp ứng nhu cầu của khách du lịch mà không phải hi sinh những giá trị truyền thống. Việc phân tích những yếu tố này gặp nhiều trở ngại do những dữ liệu nghiên cứu và ngoài nghiên cứu đều thiếu đồng nhất. Như hầu hết các biến đổi khác về văn hoá, quá trình suy giảm các giá trị văn hoá không diến ra trong một sớm một chiều mà phải trải qua một quá trình lâu dài. Biến đổi không chỉ diễn ra bởi một tác nhân biểu hiện xã hội (như việc bắt chước hành động, trang phục và phong cách ẩm thực của du khách nước ngoài) mà nó còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế. Ví du, việc phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động trong ngành du lịch thường được xem như một biểu hiện giải phóng tích cực; ngược lại, điều này cũng có thể được coi như nguồn gốc dẫn đến sự phá vỡ cấu trúc và các giá trị gia đình truyền thống. Tương tự, việc phân ca trong ngành du lịch có thể tác động xấu đến thời gian sinh hoạt gia đình và nghi lễ tôn giáo. Việc tìm ra sự cân bằng giữa các tác động tích cực và tiêu cực là luôn luôn cần thiết.
Du lịch không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến những biến đổi về văn hoá; quá trình này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Nếu du lịch là tác nhân thay đổi chủ đạo, chúng ta cần nỗ lực nhằm hạn chế sự gia tăng của các yếu tố tiêu cực như hàng thủ công chất lượng kém, các hoạt động kinh doanh không lành mạnh, đồ cổ giả… Những biến đổi trong cách trình diễn khiêu vũ, âm nhạc và các lễ hội đang thu hút nhiều sự quan tâm ở mức độ quốc tế. Phần lớn du khách không có thời gian hoặc không đủ hứng thú để theo dõi một buổi biểu diễn truyền thống kéo dài; họ thường yêu cầu rút ngắn vở diễn hoặc nghi lễ. Họ không phải là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm các giá trị văn hoá; họ chỉ yêu cầu trình diễn một trích đoạn nguyên bản của một vở diễn hay nghi thức dài hơn.
Những biểu hiện rõ ràng hơn về sự suy giảm các giá trị văn hoá có lẽ là tình trạng các di tích và công trình lịch sử không được bảo tồn, hoặc các quần thể kiến trúc truyền thống đang dần biến mất. Việc nâng cao nhận thức về văn hoá trong du lịch là cần thiết nhằm tránh những biến đổi tiêu cực có ảnh hưởng lớn đến nền văn hoá.
4. Tác động của công suất du lịch
Tốc độ phát triển mạnh của du lịch toàn cầu đã mang lại cho các quốc gia một nguồn lợi kinh tế lớn nhưng cũng đồng thời đặt thêm gánh nặng lên các nguồn tài nguyên hiện có. Du lịch tiêu thụ một phần lớn tài nguyên thiên nhiên; càng phát triển, nhu cầu của du lịch càng tăng, vượt quá khả năng cung cấp của cơ sở hạ tầng hiện có (như nước sạch, đất xây dựng). Trong khi ngành du lịch được ưu tiên, cư dân địa phương lại phải chịu phần thiệt thòi. Đôi khi họ không hiểu lí do vì sao phải dành cho du khách (và ngành du lịch) những tiện nghi và dịch vụ mà bản thân họ không được hưởng, như nước sạch, điện và các dịch vụ hỗ trợ như an ninh cá nhân. Tại những nơi du lịch phát triển theo một mô hình biệt lập và sự giao tiếp giữa du khách và dân địa phương bị hạn chế, thì cảm giác bị xa lánh và bị tước đoạt quyền lợi càng nặng nề hơn. Đó là một trong những cái giá phải trả cho tốc độ phát triển quá nhanh của ngành du lịch; nhưng đây chưa phải là tất cả.
Khi có quá nhiều du khách tại một địa điểm, cộng đồng địa phương sẽ cảm thấy phải chịu sức ép lớn hơn từ phía du khách và nhịp sống của cộng đồng có thể bị thay đổi. Việc mua sắm và đi lại trở nên khó khăn hơn; giá cả tăng nhằm tranh thủ sự có mặt của khách du lịch sẽ ảnh hưởng lây đến cư dân bản địa. Thất vọng và bực dọc vì những phiền phức mà họ phải chịu, cư dân trở nên nghi ngờ những lợi ích xét về toàn diện mà du lịch đem lại. Đây hẳn là một nghịch lý, nhưng thông thường, những thành công trước mắt mà các cơ quan quản lý nhà nước về Du Lịch đạt được trong việc tăng lượng khách không thể bù đắp cho những vấn đề lâu dài phát sinh, nhất là khi những vấn đề này có thể tác động ngược lại tới khả năng duy trì nhu cầu du lịch. Nếu không có kế hoạch chu đáo, những thành công trước mắt trong phát triển du lịch có thể chính là mầm mống của những rắc rối sau này.
5. Quan hệ giữa du khách và cư dân
Hiện nay, số lượng tài liệu về quan hệ giữa du khách và cư dân là tương đối lớn. Khó có thể tóm tắt được tất cả kết quả của các công trình nghiên cứu đó; chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề chính. Sự tiếp xúc giữa du khách và cư dân có lẽ là những kinh nghiệm quan trọng nhất và kém dễ chịu nhất. Để tránh không khí căng thẳng và thù địch có thể xảy ra, hai bên cần loại bỏ những yếu tố dễ gây hiểu lầm. Một trong những yếu tố cơ bản là việc phần lớn du khách không trân trọng hoặc ít trân trọng bản sắc văn hoá địa phương. Mặt khác, cư dân địa phương cũng không hiểu biết hoặc hiểu biết rất hạn chế về nền văn hoá của du khách nước ngoài. Những vấn đề này thậm chí còn trở nên nặng nề hơn khi hai bên bị ngăn cách bởi rào cản ngôn ngữ.
6. Lợi ích và tổn thất tại địa phương
Trong khi ngành du lịch đem lại những nguồn lợi ở tầm vĩ mô cho mỗi quốc gia dưới hình thức thu nhập ngoại tệ, thu ngân sách quốc gia, thì hậu quả của các hoạt động du lịch lại mang tính chất cục bộ địa phương, tức là cộng đồng địa phương phải chịu tác động của các vấn đề ngoài ý muốn như lượng du khách quá lớn, sức ép về tài nguyên, nguy cơ đối với nền văn hoá bản địa và các yêu cầu khác của ngành du lịch đối với địa phương. Những vấn đề này không phải là quá nặng nề nếu cư dân địa phương được hưởng lợi từ du lịch. Trừ phi những người này được hưởng ít nhất là một phần lợi nhuận kinh tế cũng như tài chính từ các hoạt động du lịch tại địa phương, thì lợi nhuận thu được từ du lịch vẫn không thể bù đắp được những tổn thất mà nó gây ra. Tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn đến thái độ bất mãn, thậm chí là thù địch đối với du khách. Đây là một vấn đề mà các nhà quản lý du lịch cần quan tâm nếu không muốn mất đi sự hợp tác của cộng đồng địa phương trong chiến lược phát triển du lịch.
Trong phạm vi hạn hẹp của tài liệu này, chúng tôi không thể đề cập đến tất cả các tác động tiêu cực về mặt xã hội của du lịch; những dẫn chứng về các tác động đó cũng không phải là điển hình ở mọi quốc gia. Tuy nhiên, báo cáo này cũng có những ý nghĩa nhất định trong việc xác định nguyên nhân của những vấn đề này. Một khi đã tìm ra nguyên nhân, việc hoạch định chính sách và chiến lược thích hợp nhằm giải quyết các tiêu cực sẽ trở nên khả thi hơn.
(i) Nguyên nhân tác động xã hội của du lịch
Câu hỏi vì sao nhu cầu du lịch tạo ra tác động tiêu cực về mặt xã hội có thể có ba phương án trả lời.
Sự khác biệt về văn hoá
Du lịch phụ thuộc chủ yếu vào việc sự chuyển dịch của con người. Theo dự đoán của Tổ chức Du lịch Thế giới vào năm 1997, hơn 500 triệu chuyến đi đã được thực hiện trong năm đó. Mỗi chuyến đi đồng nghĩa với việc một người nào đó sẽ mang theo cá tính và nhu cầu riêng của mình trong quá trình di chuyển. Mặc dù các nghiên cứu sử dụng kỹ thuật phân đoạn thị trường cũng có đóng góp nhất định trong việc tổng kết những đặc tính của thị trường, con người vẫn là những cá thể riêng biệt và mọi cá thể đều có thể hoà nhập vào nền văn hoá địa phương hay phá hoại nó. Sự giao lưu giữa hai nền văn hoá khác nhau có thể là nguyên nhân dẫn đến những mối bất đồng vễ mặt xã hội, đặc biệt là khi hoạt động trao đổi, khám phá văn hoá bị hạn chế bởi rào cản ngôn ngữ. Trong trường hợp cộng đồng địa phương phải đón nhận lượng khách quá lớn, những vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn, nhất là ở những nền văn hoá thiếu bền vững trước những tác động từ bên ngoài.
Tầm hiểu biết hạn hẹp của du khách về nền văn hoá bản địa
Nhiều du khách lần đầu tiên đến thăm một quốc gia thường không trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết về văn hoá, truyền thống và các giá trị quan trọng của địa phương. Các nhà điều hành du lịch cũng ít khi cung cấp những thông tin như vậy trước chuyến đi, mặc dù du khách có thể trực tiếp tìm hiểu từ hướng dẫn viên hoặc đại diện công ty. Trong điều kiện như vậy, việc mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong quá trình tiếp xúc giữa cư dân và du khách là một điều dễ hiểu. Do thiếu hiểu biết về phong tục tập quán và thói quen ứng xử tại địa phương, du khách có thể vô tình xúc phạm đến cộng đồng dân cư bản địa. Đây là một vấn đề toàn cầu cần được giải quyết.
Thời gian lưu trú giới hạn của du khách
Những bất cập do hai yếu tố gây ra càng trở nên nghiêm trọng hơn do phần lớn du khách chỉ lưu trú tại một địa điểm nào đó trong một thời gian ngắn. Hầu hết các du khách không muốn thay đổi những thói quen sinh hoạt của mình trong thời gian hai tuần ở nước ngoài. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của hội chứng xa nhà, họ sẽ hành động trái với thói quen thường ngày. Ví dụ, một người không quen đánh bạc, dùng ma tuý hay quan hệ với gái mại dâm có thể sẽ làm những việc này trong chuyến du lịch, khi họ thoát khỏi những tiêu chuẩn xã hội ràng buộc thường ngày. Khi một điểm đến trở nên nổi tiếng nhờ vào hoạt động du lịch tình dục, nó sẽ thu hút nhiều du khách thuộc loại này và cả những đối tượng ham mê tình dục khác.
Trong khi ba yếu tố trên đây đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu tại sao hoạt động du lịch làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội, các bên cung cấp dịch vụ cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Nhiều cộng đồng địa phương có kiến thức rất hạn hẹp về nền văn hoá của du khách. Mặt khác, hình ảnh về điểm đến thay đổi sẽ kéo theo những đối tượng du khách mới. Việc chấp hành luật pháp ở địa phương thường bị buông lỏng, và những hiện tượng tiêu cực nảy sinh ngoài ý muốn không được xử lý triệt để. Các quốc gia cần phân tích thoả đáng và lập ra chính sách giải quyết các vấn đề trên, đồng thời cũng không thể phủ nhận những lợi ích về kinh tế và xã hội mà du lịch đem lại.
(ii) Lợi ích xã hội từ du lịch
Việc phân biệt giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội đôi khi không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên chúng tôi xin đưa ra một số ví dụ như sau.
Giao lưu văn hoá
Nhiều du khách đi du lịch với mục đích tìm hiểu các nền văn hoá khác. Điển hình cho xu hướng này là việc ngày càng nhiều người dân châu Âu thực hiện các chuyến du lịch dài ngày sang châu Á. Sự giao lưu văn hoá mang lại lợi ích cho cả hai bên, đồng thời điều tiết lợi nhuận kinh tế – tài chính tại nước chủ nhà.
Khôi phục các ngành nghề thủ công và lễ hội truyền thống
Tại nhiều nước, du khách là chất xúc tác cơ bản trong việc khôi phục các ngành nghề thủ công - thậm chí là các lễ hội truyền thống - đã suy tàn. Việc khôi phục và phát triển các giá trị truyền thống đang trên đà suy thoái nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách ngày nay không phải là chuyện hiếm hoi.
Phát triển nông thôn
Thông thường, các hoạt động du lịch diễn ra ngoài phạm vi đo thị, do đó nó tạo thêm nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cho các vùng nông thôn. Nguồn thu nhập thêm này có thể góp phần ổn định các cộng đồng địa phương và hạn chế luồng di cư về các đô thị.
Cơ hội cho các doanh nghiệp
Du lịch thường được coi là một ngành cần nhiều nhân lực. Tuy nhiên, do dựa trên cơ sở nhu cầu đối với các dịch vụ, du lịch không chỉ tạo ra nguồn việc làm mà còn đưa ra nhiều cơ hội kinh doanh. Tại nhiều nước, phụ nữ là những người đặc biệt năng động trong việc thiết lập thế chủ động trong kinh doanh.
Nâng cao mức sống
Do nhiều công trình cơ sở hạ tầng được thiết kế nhằm phục vụ mục đích phát triển du lịch, phần lớn các nhà lập kế hoạch đã chọn phương án chia sẻ các điều kiện thuận lợi cho cộng đồng địa phương. Ví dụ, cộng đồng cư dân địa phương thường được phép sử dụng các tiện nghi phục vụ cho du lịch như hệ thống đường sá, nguồn nước sạch, hệ thống thoát nước, và nguồn điện. Nếu không có những hoạt động du lịch, chưa chắc người dân đã được tiếp cận với những tiện nghi này.
Những dẫn chứng trên chưa phải là tất cả. Tuy nhiên, điều quan trọng phải ý thức được là du lịch không chỉ đi đôi với các hiện tượng xã hội tiêu cực cần phải xoá bỏ, mà nó còn có những tác động tích cực cần được khuyến khích. Trong phần tiếp theo, chúng tôi xin đưa ra một vài gợi ý nhằm hiện thực hoá những mục tiêu này.
CÁC VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT TRONG THẾ KỶ 21
Ngành du lịch còn một chặng đường dài trước mắt nhằm tạo ra một các nhìn lạc quan hơn về những lợi ích mà nó đem lại cũng như nhằm hạn chế các tác động tiêu cực. Mỗi hành động đòi hỏi sự phối hợp của các bên có chung mối quan tâm đến ngành du lịch, gồm các cấp chính quyền, các đơn vị cá nhân và các tổ chức trực thuộc cấp quốc gia cũng như quốc tế. Các hoạt động du lịch có bản chất quốc tế, do đó nó đòi hỏi sự phối hợp trên phạm vi quốc tế nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Nếu không có sự phối hợp ở mức độ này, việc kiểm soát và ngăn chặn một số vấn đề miêu tả trong tài liệu này sẽ gặp nhiều trở ngại. Như đã nói ở trên, việc trao đổi kinh nghiệm, dù là thành công hay thất bại, đều mang lại những bài học bổ ích. Những kinh nghiệm được đưa ra thảo luận trong hội nghị này sẽ giúp chúng ta thực hiện các bước chuẩn bị nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra trong tương lai. Dưới đây là một số vấn đề quan trọng.
1. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào kế hoạch phát triển du lịch
Thông thường, cộng đồng địa phương được các nhà lập kế hoạch trong du lịch cho biết về những chiến lược phát triển có khả năng ảnh hưởng đến đời sống của họ. Trong một vài trường hợp, người dân còn có quyền đưa ra ý kiến riêng về các vấn đề như vậy. Tuy nhiên, những hoạt động như vậy không có tác dụng tăng cường mức độ tham gia của cộng đồng vào quá trình phát triển, và chúng ta còn rất nhiều việc phải làm nhằm đạt được mục tiêu này. Cộng đồng địa phương cần được tham gia vào quá trình lập kế hoạch tại bất cứ thời gian và địa điểm nào có thể. Là những người chủ nhà, họ nên có quyền được đưa ra ý kiến riêng về các kế hoạch phát triển, thậm chí là được tham gia vào quá trình thực hiện các kế hoạch đó. Nếu du lịch muốn duy trì trạng thái phát triển bền vững trong tương lai, ngành cần lôi kéo được sự đồng tình của cư dân địa phương trong công tác lập kế hoạch, bao gồm các lĩnh vực loại hình, quy mô và địa điểm phát triển du lịch. Việc tăng cường các quyền của cộng đồng địa phương đóng một vai trò hoàn toàn tích cực.
Thiết nghĩ nhiệm vụ ấy chỉ có thể thành công nhờ sự tác động của các tổ chức tài trợ - những người luôn yêu cầu điều này trong quá trình lập kế hoạch.
2. Chiến dịch nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về du lịch
Tại nhiều nước đang phát triển, du lịch thường được coi là một ngành nhằm phục vụ nhu cầu của người ngoại quốc và chịu sự chi phối của người ngoại quốc. Mặc dù điều này có lẽ là hơi cường điệu, nhưng trên thực tế nó vẫn có ý nghĩa nhất định. Như đã nói ở trên, du khách ngoại quốc tại nhiều nước đang phát triển được cung cấp những tiện nghi và dịch vụ tiêu chuẩn mà phần lớn cư dân địa phương không được hưởng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng đối đầu với du khách cũng như sự bất mãn về chính trị và cảm giác bị phân biệt đối xử ngày càng tăng. Nhiệm vụ của các chiến dịch nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về du lịch bao gồm việc phổ biến lý do của các hoạt động phát triển du lịch, tiềm năng lợi ích có thể đạt được, và các cơ hội cho những người tham gia. Việc báo cáo với cộng đồng địa phương cần được tiến hành một cách liên tục và nên được đặt vào phạm vi trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về Du Lịch , các tổ chức cá nhân và đại diện địa phương.
3. Phát triển nguồn nhân lực
Có lẽ hạn chế lớn nhất trong quá trình phát triển liên tục ngành du lịch là tình trạng thiếu nguồn nhân công được đào tạo. Đây rõ ràng là một vấn đề nan giải đã thu hút được nhiều nguồn kinh phí hỗ trợ từ các tổ chức tài trợ quốc tế. Chúng ta cần nỗ lực hơn nữa nhằm đào tạo không chỉ đội ngũ công nhân mới vào nghề mà cả đội ngũ quản lý cấp trung bình – những người cuối cùng sẽ trở thành quản lý cấp cao. Tuy du lịch là một ngành ở cấp quốc tế, nhưng các quốc gia vẫn cần tạo thêm nhiều cơ hội cho các đơn vị trong nước. Một trong những vấn đề xã hội có liên quan đến du lịch tại các nước đang phát triển là tình trạng thiếu đội ngũ quản lý cấp cao người bản địa. Điều này càng làm cho định kiến du lịch là “một ngành chịu sự chi phối của người nước ngoài” trở nên khó thay đổi hơn. Cần thay đổi định kiến này nếu du lịch muốn thu hút nguồn nhân công chất lượng cao nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu ngày càng khắt khe đối với ngành dịch vụ.
4. Chia sẻ lợi ích từ du lịch
Việc ngành du lịch đem lại lợi ích về mặt kinh tế là một thực tế đã được chứng minh. Vấn đề khó khăn hiện nay là kế hoạch sử dụng du lịch n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_tin_du_lich_so_10_1452.doc