Tác hại của nhện trắng và các biện pháp phòng trừ

Biện pháp hoá học

Schoonhoven và cs (1978), Hugon và Chaupin (1986), Vaissayre (1986) và

các tác giả khác đã thử nghiệm nhiều thuốc trừ sâu chống lại loài gây hại

này. Nhện trắng có thể được kiểm soát hiệu quả bằng các thuốc trừ ve

bét (bromopropylate, dicofol và sulfur) và các thuốc diệt côn trùng

(endosulfan, profenofos, và triazophos).

pdf10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3180 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác hại của nhện trắng và các biện pháp phòng trừ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác hại của nhện trắng và các biện pháp phòng trừ Nhện trắng gây ra một loạt các triệu chứng trên nhiều loại cây khác nhau. Một số triệu chứng do nhện trắng gây ra trước đây được xem là do các bệnh khác, như bệnh ‘Tambera’ trên khoai tây và ‘Murda’ trên ớt ở Ấn Độ, ‘Bergonia Rust’ trên thu hải đường ở Anh và các loại virus trên thực vật. Các tác hại gây ra bởi loài này cũng bị nhầm lẫn là do hormone, các loại chất trừ cỏ hoặc do sự thiếu hụt magnesium. Nhện trắng làm cho các lá ngọn và chồi hoa bị biến dạng. Nước bọt có chứa độc tố của nhện làm cho ngọn cây bị xoắn, cứng và phát triển méo mó. Nhện thường được nhìn thấy trên các lá mới và trái non. Các lá cong xuống và có màu đồng hay tía. Các lóng thu ngắn lại và các chồi nách mọc ra nhiều hơn bình thường. Hoa không phát triển và sự phát triển cây bị ức chế khi nhện tấn công với số lượng lớn. Trên các loại cây ăn trái, sự gây hại thường xảy ra ở phía tối của trái, nên thường không dễ nhìn thấy rõ. Trái thường mất màu khi bị rệp tấn công và trong trường hợp nghiêm trọng trái có thể rụng trước khi trưởng thành. Sự gay hại của nhện trắng trên ớt (Ảnh: EENY-183) Để phát hiện nhện trắng phải quan sát các chối ngọn bị biến dạng và tăng trưởng còi cọc trên bất kì cây khả nghi nào, nhện trắng có thể tập trung ở các vết nứt và các chồi. Nhện thường thích tập trung ở phía tối của trái, nơi đối diện với cây, vì vậy phải cố gắng kiểm tra trái thật kỹ lưỡng. Nhện trắng thường rất nhỏ nên cũng rất khó quan sát bằng mắt thường, cần có sự hỗ trợ của kính lúp khi quan sát. Không nên nhầm lẫn giữa sự tổn thương gây ra do nhện trắng với sự tổn thương gây ra bởi thuốc trừ cỏ, sự thiếu hụt dinh dưỡng (Bo) hay sự rối loạn sinh lý. Ví dụ, trong giai doạn cuối mùa đông, với nhiệt độ lạnh và ẩm độ cao, một số hiện tượng quăn và xoắn lá thường thấy ở cây bóng nước New Guine là do sự rối loạn về sinh lý và không phải là sự tổn thương do nhện trắng. Các biện pháp phòng trừ nhện trắng bao gồm: sử dụng cây kháng, thuốc hóa học (biện pháp hóa học) hay các loài thiên địch của nhện (biện pháp sinh học). Sử dụng cây kháng: Sự kháng của khoai tây với nhện trắng đã được tìm thấy trong khoai tây hoang dại (Solanum berthaultii) cũng như ở một số loài khoai tây khác. Trong đó chỉ có khoai tây hoang dại và lòai khoai tây Solanum polyadenium có ít hơn 10% bộ lá bị phá hại bởi loài côn trùng này. Sự kháng của khoai tây hoang dại có liên quan đến các túm lông có chứa chất nhầy ở đỉnh, vì những cây không có những túm lông này sẽ bị nhện tấn công. Nguyên nhân gây ra sự kháng ở Solanum polyadenium vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhiều dòng cây đay cũng đã được thử nghiệm về khả năng nhạy cảm với nhện trắng. Kết quả cho thấy Hibiscus cannabinus bị nhiễm nhẹ, các dòng của Corchorus capsularis nhiễm trung bình, trong khi các dòng của Corchorus capsularis bị nhiễm sớm nhất và nghiêm trọng nhất. Những số liệu này cho thấy rằng sự kháng có thể là một sự lựa chọn phù hợp cho việc làm giảm sự phá hoại của nhện trắng. Biện pháp hoá học Schoonhoven và cs (1978), Hugon và Chaupin (1986), Vaissayre (1986) và các tác giả khác đã thử nghiệm nhiều thuốc trừ sâu chống lại loài gây hại này. Nhện trắng có thể được kiểm soát hiệu quả bằng các thuốc trừ ve bét (bromopropylate, dicofol và sulfur) và các thuốc diệt côn trùng (endosulfan, profenofos, và triazophos). Các loại thuốc Pyrethroids được khuyến cáo là không an toàn. Heungmens và Degheele (1986) thông báo rằng Avermectin B1 có hiệu lực kiểm soát nhện kéo dài trên cây thầu dầu. Chất điều hoà tăng trưởng thực vật chlomequat được oliveira và Dojas (1982) áp dụng trên bông vãi đã làm giảm sự nhiễm nhện trắng khoảng 37%. Hugon và Chaupin (1986) đã đưa ra hai chiến lược khác nhau để kiểm soát nhện trắng trên trái cam quýt: phun ngừa 15-20 ngày một lần trong thời gian nhện hoạt động mạnh hay xử lý theo sự thay đổi của quần thể loài gây hại, được xác định bằng việc kiểm tra liên tục. Trong mọi trường hợp, do sự phát triển nhanh chóng của nhện trắng bắt buộc phải phun thuốc trên toàn cây (đối với cam quýt, liều lượng khuyến cáo là 15l/cây). Hai tác giả này cũng đề nghị rằng nên áp dụng liên tiếp hai cách xử lý đã nêu trên trong mùa mưa. Ngoài một số thuốc trừ nhện được chỉ định cho việc kiểm soát loài gây hại này, các loại dầu trừ sâu hay xà phòng cũng có hiệu quả và ít độc hại đối với môi trường. Biện pháp sinh học Moutina (1958) thông báo rằng loài Amblyseius ovalis Evans kiểm soát quần thể nhện trắng rất hiệu quả trên ới ở Mauritinua qua việc ăn trứng và ấu trùng của nhện trắng. Ở mức phòng thí nghiệm, A. ovalis có thể tiêu diệt nhện trắng ở các tỉ lệ (loài ăn thịt/con mồi) là 1/20, 1/50, 1/100 sau 9,12 và 17 ngày tương ứng, tuy nhiên ở tỉ lệ 1/150 thì không thể. Smith và papacek (1985) cho rằng loài Euseius vicoriensis (Womersley) có thể kiểm soát sinh học hiệu quả loài gây hại trên cam quýt ở Queensland, và Wu (1984) cũng thông báo rằng đã thu được những kết quả tốt với loài Amblyseius nichplski Ehara và Lee trên cùng loại cây ở tỉnh Sichuan, Trung Quốc. Đối với việc kiểm soát trong các khu vực lớn hay nhà kính, có thể sử dụng các nhân tố kiểm soát sinh học bao gồm nhiều loài nhện ăn thịt (predatory mite). Ngoài ra, việc xử lý bằng nước nóng (43-490C trong 15 phút) có thể được sử dụng để kiểm soát nhện mà không làm tổn thương cây. Xuân Dũng TÀI LIỆU THAM KHẢO Gerson U, 1992. Biology and control of the broad mite, polyphagotarsonemus latus (Banks) (Acari:Tarsonemidae). Experimental & Applied Acarology, 13(1992), p. 163-178. Elsevier Science Publishers B.V., Amsterdam. Fasulo T. R., 2007. Broad mite, Polyphagotarsonemus latus (Banks) (Arachnida: Acari: Tarsonemidae). EENY183. p. 1-5.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftac_hai_cua_nhen_trang_va_cac_bien_phap_phong_tru_0552.pdf