Tài liệu Chuyện dễ đùa khó nói

Trường hợp như An và bạn của anh trong câu chuyện

dưới đây có lẽ không nhiều nhưng điều đáng nói là việc anh

kể lại mà không lo ngại sự đánh giá tiêu cực từ phía chúng

tôi. Một mặt, điều đó phản ánh sự tin tưởng đối với chúng

tôi nhưng điều quan trọng hơn là nó chỉ ra sự thay đổi lớn

trong quan niệm và hành vi tình dục của đàn ông Việt Nam

trong thời kỳ này. Những gì bị coi là tuyệt đối không thể

chấp nhận được về mặt đạo đức trong thời kỳ trước Đổi mới

nay đã được nhìn nhận khoan dung hơn, “là bình thường” và

theo một góc độ khác. Từng trải trong tình dục, có nhiều bạn

tình nay dường như đang được một số đàn ông nhìn nhận

như biểu hiện của nam tính:

Cái gần như là một cái tiêu chí bọn em thường hay đặt

ra tức là đi đến đâu phải biết phụ nữ ở đó như thế nào,

kể cả là đi sang Trung Quốc. Bọn em cũng đã từng đi ba

lô sang Trung Quốc, đi các tỉnh. Đi đến đâu cũng có ngủ

với gái ở đấy

 

pdf218 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Chuyện dễ đùa khó nói, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tion and gay men of color. Bài trình bày tại: MSM of color Summit; 5/2003, Los Angeles, USA. 209 Dowsett G, Grierson J. and McNally S. 2006, A review of knowledge about the sexual networks and behaviors of men who have sex with men in Asia. CHUYỆN DỄ ĐÙA KHĨ NĨI 297 Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi hầu như không ai sử dụng khái niệm MSM, có lẽ vì cụm từ này chỉ quen thuộc trong giới những người làm việc về HIV. Do đó khi sử dụng khái niệm đồng tính, tình dục đồng giới hay đồng tính luyến ái họ muốn nói đến tình dục đồng giới như một khuynh hướng tình dục hay một nhân dạng hơn là hành vi tình dục đơn thuần. Tóm tắt lịch sử của tình dục đồng giới ở Việt Nam Tình dục đồng giới không được biết nhiều ở Việt Nam cho đến mãi gần đây. Thậm chí mười năm trước cũng không mấy người hiểu được khái niệm này210. Có thể Marie-Eve Blanc đã đúng khi nhận định rằng khái niệm tình dục đồng giới ở Việt Nam chưa tồn tại một cách rõ ràng vì các thực hành tình dục thay đổi rất nhanh trong vòng một thế kỷ qua và tiếng Việt vẫn còn đang thích ứng với thực tế của các dạng tình dục đồng giới211. Marie-Eve Blanc cho rằng sở dĩ tình dục đồng giới ít được biết đến vì nó bị coi là vô đạo đức trong hệ tư tưởng Nho giáo và đối với các giá trị của gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi lại cho rằng một trong những lý do quan trọng để tình dục đồng giới ít được biết đến ở Việt Nam vì nó không được chú ý bởi các tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Cả ba tôn giáo này không nói gì đến tình dục đồng giới, khác hẳn với sự lên án quyết liệt của đạo Thiên chúa và Đạo Hồi ở các quốc gia khác. 210 Khuất Thu Hồng (1998). Nghiên cứu tình dục ở Việt Nam: Những điều đã biết và chưa biết. Tài liệu làm việc số 11, Khu vực Nam và Đông Nam Á, Hội đồng Dân số, Hà Nội: Hội đồng Dân số. 211 Blanc, M. (20050. Social Construction of male homosexualities in Vietnam. Some keys to understanding discrimination and implication for HIV prevention strategy. Oxford: Blackwell Publishing. TÌNH DỤC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI298 Trong nghiên cứu của mình về văn hóa Việt Nam, Frank Proschan cho rằng tình dục đồng giới chưa bao giờ bị coi là phạm pháp ở đây212. Ông dẫn chứng rằng các bộ luật Hồng Đức (nhà Lê 1428-1787) và Gia Long (nhà Nguyễn 1802- 1945) có các hình phạt đối với tội hiếp dâm, cưỡng dâm, ngoại tình và loạn luân (giữa hai người khác giới) nhưng không hề nhắc đến tình dục đồng giới. Tuy nhiên, nếu hiếp dâm và ngoại tình xảy ra giữa hai người đàn ông mà cả hai hoặc một trong hai đã có vợ thì cũng bị trừng phạt tương tự như trường hợp khi những sự việc đó xảy ra giữa hai người khác giới. Việc đàn ông ăn mặc quần áo phụ nữ, thiến và tự thiến bị coi là phạm pháp. Trong thời thuộc địa Pháp kê gian (giao hợp hậu môn) và đồng dâm nam cũng không hề bị cấm. Chính quyền thực dân Pháp cũng không cấm đoán các hành vi đồng tính trong các thuộc địa213. Cho đến năm 2000 không có một văn bản luật pháp nào của Việt Nam chính thức đề cập đến tình dục đồng giới. Đại dịch HIV/AIDS khiến tình dục đồng giới trở thành tâm điểm chú ý ở nhiều nơi trên thế giới vì nó bị gán cho là nguyên nhân gây ra và làm lan tràn HIV. Tuy nhiên cho đến năm 1995, tình dục đồng giới vẫn không là mối quan tâm đối với chương trình phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam. Bằng chứng là trong Kế hoạch Trung hạn của Ủy ban Quốc gia Phòng chống HIV/AIDS nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới không hề được nhắc đến như một trong những đối tượng cần có sự can thiệp đặc biệt. 212 Proschan, F. (2002). Eunuch mandarins, soldats mamzelles, effeminate boys, and graceless women: French colonial constructions of Vietnamese genders. Gay and Lesbian Quarterly, 8, 435-467. 213 Được cho là nhằm mục đích giảm nguy cơ mắc các bệnh lây qua đường tình dục từ gái mại dâm. CHUYỆN DỄ ĐÙA KHĨ NĨI 299 Đám cưới đồng tính đầu tiên được biết đến ở Việt Nam được tổ chức vào ngày 7 tháng 4 năm 1997 tại thành phố Hồ Chí Minh giữa hai người nam. Tiệc cưới diễn ra tại một khách sạn với 100 khách mời nhưng bị nhiều người dân phản đối. Gần một năm sau, vào ngày 7 tháng 3 năm 1998, một đám cưới giữa hai người đồng tính nữ diễn ra tại Vĩnh Long, nhưng giấy xin phép kết hôn của họ không được chính quyền sở tại chấp nhận. Báo chí đặc biệt quan tâm đến hai sự kiện này và hầu hết các bài báo tỏ thái độ phản đối kịch liệt. Có thể các đám cưới này là lý do để Quốc hội thông qua điều khoản cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm ban hành tháng 6 năm 2000214 nhằm thay thế Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 vốn không hề có điều khoản tương tự215. Có lẽ chỉ đến những năm gần đây khi tình dục đồng giới được biết đến nhiều hơn thì thái độ xã hội mới trở nên rõ rệt hơn và lúc đó nó mới bị một số người quy về phạm trù đạo đức Nho giáo và giá trị của gia đình như nhận định của Marie- Eve Blanc. Các tài liệu lịch sử của Việt Nam gần như không hề nhắc đến hiện tượng này, có lẽ không phải vì những e ngại đạo đức mà vì bản thân nó không được biết đến. Với sự khuyến khích của các tổ chức quốc tế từ đầu những năm 2000 chương trình phòng chống HIV/AIDS của Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến nhóm nam tình dục đồng 214 Chương II, Điều 10, khoản 5, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 do Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 9/6/2000, quy định rõ trong số những trường hợp cấm kết hôn có những người cùng giới tính. 215 Luật Hôn nhân và Gia đình do Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 29/12/1986. TÌNH DỤC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI300 giới. Chiến lược Quốc gia Phòng chống HIV/AIDS năm 2004 đã coi nhóm này là một trong những nhóm cần được quan tâm đặc biệt và đưa nó vào danh sách các nhóm được giám sát trọng điểm. Chỉ thị 54 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS trong tình hình mới ban hành ngày 30 tháng 11 năm 2004 là tài liệu đầu tiên của Đảng nhắc đến quan hệ tình dục đồng giới. Chỉ thị này kêu gọi đẩy mạnh hoạt động giáo dục truyền thông đối với xã hội nói chung và các nhóm có nguy cơ cao đối với lây nhiễm HIV trong đó có nam tình dục đồng giới “nhằm xây dựng nhận thức đúng về nguy cơ và hiểm họa của dịch HIV”216. Việc tuyên truyền cho những văn bản chính sách mới về HIV/AIDS như vậy trên các phương tiện truyền thông đại chúng một mặt mở rộng nhận thức và hiểu biết của công chúng về tình dục đồng giới nam nhưng mặt khác, ở mức độ nhất định, do sự thiếu thận trọng của một số bài báo, đã góp phần vào việc làm gia tăng nỗi ám ảnh lo sợ đối với tình dục đồng giới khi mà nó được coi như là một trong những nguy cơ làm lây nhiễm HIV. Một văn bản pháp lý khác tuy chỉ liên quan đến người chuyển giới tính nhưng được công chúng, nhất là báo chí cho là có liên quan đến tình dục đồng giới là Nghị định số 88/ NĐ-CP ban hành ngày 5 tháng 8 năm 2008. Nghị định này được những người chuyển giới hết sức mong chờ như một cơ hội để họ làm rõ nhân dạng giới của mình nhưng họ đã bị thất vọng rất nhanh chóng vì nghị định chỉ áp dụng cho việc xác định lại giới tính đối với người có khuyết tật bẩm sinh về 216 Chỉ thị 54-CT/TW của Ban bí thư về tăng cường lãnh đạo phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới. php?option=com_content&task=view&id=83&Itemid=36. CHUYỆN DỄ ĐÙA KHĨ NĨI 301 giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Ngày 7 tháng 8 năm 2008, trả lời câu hỏi của phóng viên báo điện tử VnExpress217 rằng đối với những trường hợp đồng tính mà không có các khuyết tật bẩm sinh ở bộ phận sinh dục, một quan chức của Bộ Y tế đã khẳng định: “Họ bị cấm xác định lại giới tính bởi còn liên quan đến vấn đề đạo đức. Nghị định chỉ quy định là xác định lại giới tính cho những người khuyết tật về giới hay chưa phân biệt được là nam hay nữ chứ không phải là chuyển đổi giới tính cho những người đã hoàn thiện về giới bởi có thể đó là những trường hợp có sự lệch lạc về tâm lý. Mặt khác, việc xác định lại giới tính cũng có thể bị lạm dụng vì nhu cầu thương mại, trốn tránh trách nhiệm pháp lý hoặc trong thi đấu thể thao”. Trả lời tiếp câu hỏi của phóng viên thế nào là những người đã hoàn thiện về giới, quan chức này nói rõ: “Đó là những người hoàn toàn bình thường, có bộ phận sinh dục xác định là nam hay nữ, có các cặp nhiễm sắc thể giới tính rõ ràng là XX hay XY”. Ông đồng thời cũng nhấn mạnh “Riêng những người không có khuyết tật về giới tính nhưng đã chuyển giới ở nước ngoài sẽ không được công nhận”. Ví dụ này tiếp tục chỉ ra sự bối rối không chỉ của giới làm báo về các khái niệm giới tính, giới và khuynh hướng tình dục. Những bài báo như thế này củng cố thêm quan niệm rằng tất cả những người đồng tính đều là người chuyển giới và mong muốn được làm phẫu thuật để trở thành giới mà họ mơ ước. Trong nhiều sản phẩm truyền thông, kể cả phim ảnh và sân khấu của Việt Nam, người đồng tính nam thường được khắc họa như một người nam đầy nữ tính và ngược lại, người đồng tính nữ thì sẽ được hình dung như một người phụ nữ 217 VnExpress ngày 7/8/2008 “Người đồng tính chuyển giới sẽ không được thừa nhận” của Minh Thùy TÌNH DỤC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI302 đầy nam tính. Một số bộ phim hoặc các tác phẩm sân khấu thường miêu tả những nhân vật đồng tính nam với hình dáng và điệu bộ nữ tính hoặc ẻo lả, điệu đà quá mức hoặc lòe loẹt và thô lỗ. Lần đầu tiên người đồng tính nam được đưa vào văn học Việt Nam vào năm 2000 trong tác phẩm Một thế giới không đàn bà của Bùi Anh Tấn. Sau đó năm năm, vào tháng 7 năm 2005, nhà văn này lại là người đầu tiên đưa đề tài đồng tính nữ lên văn đàn với tác phẩm Les-Vòng tay không đàn ông. Cuốn tự truyện đầu tiên của một người đồng tính với nhan đề Bóng218 được xuất bản vào năm 2008 đã được đón nhận khá nồng nhiệt. Bằng chứng là 2000 bản in đã nhanh chóng được bán hết và cuốn sách đã được tái bản vào tháng 7 năm 2009 với con số 10,000 bản. Bóng đã mở đầu cho một phong trào viết cuốn tự truyện hoặc mang dáng dấp tự truyện của những người đồng tính khác trong một thời gian ngắn sau đó. Với sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ Việt Nam, một số nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới đã được hình thành dưới hình thức câu lạc bộ. Ở Hà Nội, câu lạc bộ đầu tiên của những người nam quan hệ tình dục đồng giới được thành lập năm 2006 dưới sự đỡ đầu của Trung tâm Phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. Khi mới thành lập Hải Đăng - tên của câu lạc bộ, có 25 thành viên, hầu hết là trẻ tuổi219. Hoạt động chủ yếu của các câu lạc bộ như thế này là cung cấp thông tin và giáo dục kỹ năng phòng chống lây nhiễm HIV và các bệnh lây qua đường tình dục. 218 Bóng là tự truyện của Nguyễn Văn Dũng do Hoàng Nguyên Đoan Trang ghi lại và biên tập. Nhà xuất bản văn học: Hà Nội, 2009. 219 Bài báo “Câu lạc bộ đầu tiên của người đồng tính”. Trích lại từ trang web Vietbao: CHUYỆN DỄ ĐÙA KHĨ NĨI 303 Một trong những lý do chủ yếu khiến người dân Việt Nam ít biết đến tình dục đồng giới hoặc sử dụng lẫn lộn các thuật ngữ như đã thảo luận ở trên có lẽ là do sự vắng mặt của các nghiên cứu khoa học về tình dục đồng giới ở đây và không có các hoạt động tuyên truyền vận động để công chúng hiểu rõ về hiện tượng này. Cho đến mãi đầu những năm 2000 nhờ những cố gắng lồng ghép nhóm này vào các chương trình phòng chống HIV/AIDS, những nghiên cứu đầu tiên liên quan đến tình dục đồng giới mà chủ yếu là về nam quan hệ tình dục với nam220 mới bắt đầu được thực hiện. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu đó, tình dục đồng giới mới cũng chỉ được xem xét từ khía cạnh sức khỏe nhiều hơn chứ chưa được tìm hiểu vì chính bản thân nó. Nghiên cứu này vì vậy không tập trung vào khía cạnh sức khỏe mà hướng vào tìm hiểu thái độ và nhận thức chung của xã hội đối với tình dục đồng giới. Ở nhiều nước ám ảnh lo sợ tình dục đồng giới (homophobia) thể hiện khá rõ qua sự kỳ thị đối với hành vi tình dục giữa đàn ông với nhau (hoặc giữa phụ nữ với nhau) thông qua sự căm ghét, không chấp nhận và có thể bị coi là bất hợp pháp. Ám ảnh lo sợ tình dục đồng giới được cho là bắt nguồn từ luật pháp, tôn giáo và dư luận xã hội. Dư luận xã hội phần nào phản ánh và ảnh hưởng đến luật pháp và tôn giáo. Ngay cả ở phương Tây nơi được cho là nơi xuất phát của “ám ảnh lo sợ tình dục đồng giới” cũng không phải là đã có cách hiểu thống nhất về khái niệm này. Có quan điểm cho rằng nó bắt nguồn từ cảm giác bất an của một số đàn ông 220 Ví dụ như các nghiên cứu của St. Pierre M. năm 1997, Cao Hữu Nghĩa và cộng sự năm 2002, Donn Colby năm 2003, Donn Colby và cộng sự năm 2004, Vũ Ngọc Bảo năm 2005. TÌNH DỤC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI304 (đặc biệt là những người không có quan hệ tình dục với đàn ông) về nhân dạng tình dục của chính mình. Theo một quan điểm khác thì ám ảnh lo sợ tình dục đồng giới liên quan đến quyền lực của đàn ông đối với phụ nữ, những người đàn ông quan hệ tình dục đồng giới hoặc những người nam chuyển giới đã thách thức quyền lực đó. Dưới áp lực của luật pháp, tôn giáo và dư luận xã hội, ở nhiều nơi trên thế giới, những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới luôn có nguy cơ bị bắt và bỏ tù, mất việc hoặc bị gia đình từ bỏ, làm nhục, thậm chí bị giết221. Ở Việt Nam sự kỳ thị đến mức cực đoan như vậy không xẩy ra nhưng một số nghiên cứu gần đây ở Việt Nam cũng cho thấy ám ảnh lo sợ tình dục đồng giới đã buộc nhiều người đàn ông đồng tính phải che giấu sở thích tình dục thực sự của mình đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Thậm chí có người không muốn thừa nhận với chính bản thân mình và thường xuyên tự giầy vò vì điều đó 222,223. Một số người tự lừa dối bản thân hoặc cố gắng kiềm chế nhu cầu thực sự của mình bằng cách lấy vợ, sinh con để không thách thức các chuẩn mực xã hội về giới. Những nghiên cứu này cũng chứng minh rằng sự kỳ thị đã hạn chế tiếp cận đến thông tin về sức khỏe tình dục và do 221 Theo báo cáo của International Lesbian, Gay, Bisexual, Trans and Intersex Association công bố ngày 13 tháng 5 năm 2009, trên thế giới có 80 quốc giacoi tình dục đồng giới là phạm pháp, trong đó 5 nước khép hành vi tình dục đồng giới vào tội tử hình (theo results.asp?LanguageID=1&FileID=1251&FileCategory=9&ZoneID=7. 222 Vũ Ngọc Bảo (2005). “Đối mặt với sự thật: Tình dục đồng giới nam (MSM) và HIV/AIDS”. Chuyên san Giới, Tình dục và Sức khỏe Tình dục, số 5/2005, Dự án ENCOURAGE, Công ty Tư vấn Đầu tư Y tế, Hà Nội: Nhà xuất bản Y học. 223 Khuất Thu Hồng và cộng sự (2005). Nam quan hệ tình dục đồng giới ở Hà Nội: Chân dung xã hội và một số vấn đề sức khỏe tình dục. CHUYỆN DỄ ĐÙA KHĨ NĨI 305 đó làm tăng nguy cơ của nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới đối với lây nhiễm HIV và các bệnh dễ lây qua đường tình dục khác. Cho đến thời điểm cuộc nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành vào năm 2003, tình dục đồng giới đã không còn xa lạ với xã hội Việt Nam. Nhiều người được phỏng vấn hiểu một cách cơ bản thế nào là tình dục đồng giới, kể cả những người sống ở nông thôn. Sự quen thuộc và quan điểm rõ ràng hơn của công chúng Việt Nam đối với tình dục đồng giới có lẽ là kết quả của những thay đổi văn hóa xã hội từ khi Đổi mới. Quá trình dân chủ hóa và những thay đổi trong quan điểm về tự do cá nhân, sự cởi mở trong nhận thức xã hội về các vấn đề tình dục đã khiến cho khuynh hướng tình dục đồng giới trở nên rõ nét hơn trong đời sống xã hội. Những cố gắng của các can thiệp liên quan đến phòng chống HIV/AIDS cũng tạo cơ hội để hình thành các nhóm nam tình dục đồng giới, góp phần nâng cao sự hiểu biết và thay đổi thái độ của cộng đồng đối với thành viên của các nhóm này. Mặt khác, truyền thông đại chúng cũng đóng vai trò đáng kể trong việc phổ biến khái niệm và tạo ra dư luận xã hội về tình dục đồng giới. Từ diễn ngôn đạo đức sang diễn ngôn bệnh lý Trong nghiên cứu về lịch sử tình dục phương Tây, Foucault cho rằng quyền lực, diễn ngôn và tri thức gắn liền với nhau. Theo ông, tri thức không bao giờ là sự tổng hợp các bằng chứng một cách trung tính. Luôn luôn có cái gọi là “khao khát đối với tri thức”, một động cơ để nắm bắt kiến thức về sự vật và nắm bắt theo một cách nhất định. Chúng ta càng hiểu biết về một sự vật chúng ta càng có quyền lực đối với nó. Mặt khác, để nắm bắt những điều mới chúng ta phải sử dụng các kiến thức đã biết vì thế tìm hiểu cũng là một cách TÌNH DỤC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI306 thể hiện quyền lực. Ví dụ, khi tìm hiểu chi tiết và phân loại các dạng biến thái tình dục chúng ta sử dụng quyền lực có được từ những chuẩn mực đạo đức đã được thừa nhận hoặc kiến thức khoa học trước đó để nắm bắt được kiến thức mới và cùng với nó là quyền lực mới. Diễn ngôn mới về sự vật hay cách chúng ta nói về sự vật đó như thế nào bắt nguồn từ chỗ chúng ta biết về sự vật và cách chúng ta biết về nó như thế nào. Theo Foucault, diễn ngôn về tình dục ở phương Tây được hình thành từ thế kỷ 17, bắt nguồn từ các cuộc xưng tội khi mà các tín đồ được khuyến cáo là phải trình bày không chỉ về hành vi, lời nói mà cả suy nghĩ, tưởng tượng và mơ ước liên quan đến tình dục. Lúc này diễn ngôn về tình dục chỉ xoay quanh hôn nhân và nhằm kiểm soát các thực hành tình dục ngoài hôn nhân. Bước sang thế kỷ 18, với sự xuất hiện ngày càng tăng của các nghiên cứu khoa học về các vấn đề dân số và sức khỏe, diễn ngôn về tình dục đã trở nên đa dạng hơn. Trong khi diễn ngôn về tình dục vẫn chú trọng đến hôn nhân và sinh đẻ thì nó đã ngày càng quan tâm hơn đến những “vấn đề” tình dục ngoài hôn nhân như tình dục của trẻ em, tình dục đồng giới, tình dục của người tâm thần... Xuất hiện sự phân biệt giữa việc vi phạm mối ràng buộc hôn nhân mà đồng thời cũng là vi phạm luật pháp và vi phạm những gì được coi là tự nhiên. Bắt đầu từ thế kỷ 18 ở phương Tây đã có nhiều cố gắng để tìm hiểu về các thực hành tình dục ngoài hôn nhân. Theo Foucault, những cố gắng này không đơn giản chỉ nhằm hạn chế các thực hành đó mà chủ yếu là nhằm bóp méo tình dục. Trong trường hợp thực hành tình dục đồng giới, trước thế kỷ 19, kê gian chỉ đơn giản được coi là hành vi phạm tội. Từ thế kỷ 19 trở đi, kê gian được coi là sự thể hiện của tình dục CHUYỆN DỄ ĐÙA KHĨ NĨI 307 đồng giới. Lúc này thực hành tình dục đồng giới không còn là một hành vi mà đã gắn liền với nhân dạng của cá nhân, với linh hồn của anh ta. Tình dục của một người đã trở thành điểm quy chiếu để đánh giá về nhân cách và hành vi của một người đó. Foucault phê phán rằng hơn cả việc cố gắng để loại bỏ thực hành tình dục đồng giới, diễn ngôn tình dục lúc đó lại coi những hành vi này như yếu tố cốt lõi của nhân dạng. Hay nói cách khác, hành vi tình dục đồng giới vốn được coi là sai trái, vô đạo đức giờ đây được quy về bản chất của con người. Những người thực hành tình dục đồng giới, trong một diễn ngôn như vậy, là những người sai trái, vô đạo đức. Những nghiên cứu khoa học về tình dục đồng giới từ thế kỷ 18 và suốt trong gần hai thế kỷ tiếp theo đã cố chứng minh rằng đó là hậu quả của sự bất bình thường của cơ thể. Những cái gọi là phát hiện của các nghiên cứu đó đã trở thành cơ sở cho một diễn ngôn mới. Tình dục đồng giới trong diễn ngôn mới này gắn liền với sự bất bình thường, phi tự nhiên và bệnh hoạn. Ở phương Tây, diễn ngôn này là bá chủ mãi cho đến năm 1972 khi Hiệp hội Tâm lý học Hoa kỳ loại bỏ tình dục đồng giới ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Chỉ chưa đầy một thập kỷ sau, tình dục đồng giới bị gán cho tội danh làm lây lan HIV. Tuy nhiên, nó không chỉ bị lên án ở phương Tây, nơi những ca HIV dương tính đầu tiên giữa những người đồng tính nam được phát hiện. Diễn ngôn về tình dục đồng giới như nguyên nhân làm lây lan HIV đã tràn sang các lục địa khác với một tốc độ nhanh chẳng kém sự lây lan của loại virut này. Lịch sử của tình dục đồng giới ở phương Tây dường như lặp lại ở Việt Nam nhưng với một phiên bản rút gọn và đơn giản hơn nhiều. Đúng vậy, nếu trước những năm 1990, tình dục đồng giới không có được dù chỉ một chỗ đứng nhỏ nhoi TÌNH DỤC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI308 trong tri thức về tình dục ở Việt Nam thì thời kỳ tiếp theo đó, với sự xuất hiện và phát triển của HIV/AIDS ở Việt Nam nó đã được giành cho một vị trí trong diễn ngôn chính thống về tệ nạn xã hội và diễn ngôn sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, vị trí mà tình dục đồng giới được giành cho ấy không có gì đáng để tự hào. Nó được đặt vào đó để kiểm soát. Hay nói cách khác, tình dục đồng giới được đề cập đến trong diễn ngôn về tệ nạn xã hội và diễn ngôn về sức khỏe cộng đồng là thứ tình dục cần phải được kiểm soát và phải bị phê phán. Báo chí và các chuyên gia tư vấn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phổ biến các diễn ngôn đó. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những diễn ngôn nói trên về tình dục đồng giới đang phổ biến trong xã hội Việt Nam đương đại. Tuy nhiên các diễn ngôn đó đồng thời cũng gây ra sự lo ngại ám ảnh về tình dục đồng giới. Sự chuyển đổi từ diễn ngôn đạo đức sang diễn ngôn bệnh lý cũng được thể hiện khá rõ qua câu chuyện của những người tham gia nghiên cứu. Báo chí luôn gắn liền với quyền lực về tri thức vì báo chí cung cấp thông tin. Trong bối cảnh Việt Nam, báo chí gần như chiếm được quyền lực tuyệt đối vì được kiểm soát chặt chẽ với mục đích phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó cũng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_chuyen_de_dua_kho_noi.pdf
Tài liệu liên quan