Đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhằm khắc phục những nhận thức đơn giản và tư duy lý luận lạc hậu như: quan niệm không đúng về sản xuất hàng hoá và thị trường dưới chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta ở chặng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lại không thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không chú ý vận dụng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Với tư duy kinh tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang coi trọng vận dụng quy luật sản xuất hàng hoá và thị trường vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
233 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2471 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình thức lao động tập thể, chặn đứng con đường tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, góp phần củng cố liên minh công nông. Hơn nữa, phải tập trung sức lao động, tư liệu sản xuất của bần nông và trung nông lại để xây dựng một phương thức sản xuất mới, một sự phân công lao động mới. Từ nhận thức trên đây, Đảng đã đề ra đường lối giai cấp ở nông thôn: "Dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, hạn chế đi đến xoá bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nông, cải tạo tư tưởng phú hông, ngǎn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy ...". Nội dung công hữu hoá tư liệu sản xuất trước hết là tập thể hoá triệt để ruộng đất, theo đó là sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân. Ruộng đất tập thể hoá được đặt dưới sự quản lý và sử dụng của ban quản trị hợp tác xã, mà ban quản trị chủ yếu được chọn từ những thành phần bần cố nông. Thực hiện chủ trương trên đây, Đảng đã phát động một phong trào quần chúng nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa lối làm ǎn tập thể và lối làm ǎn cá thể ở nông thôn. Kết quả, trong hơn một nǎm, từ tháng 4-1959 đến mùa thu 1960, đã tập thể hoá 76% diện tích ruộng đất canh tác của 2,4 triệu hộ nông dân, chiếm 84,8% tổng số hộ nông dân miền Bắc. Vào thời điểm nông dân đang phấn khởi với các chính sách khuyến nông của Đảng và Chính phủ, lợi ích kinh tế của hộ nông dân gắn với đất đai đang trở thành động lực kích thích phát triển sản xuất thì chúng ta tiến hành tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động, đồng thời đặt trong một cơ chế tổ chức quản lý và điều hành tập trung. Vì vậy, mô hình sở hữu tập thể ngay từ đầu đã mang trong lòng nó những yếu kém, sự gò ép trái nguyên tắc, đã dẫn đến tan vỡ hàng loạt hợp tác xã, hàng vạn nông dân xin ra hợp tác xã , sản lượng lương thực nǎm 1960 giảm một triệu tấn, nǎng suất lúa giảm 200 kg/hécta, lương thực bình quân đầu người giảm từ 333 kg/nǎm 1959 xuống 261 kg/nǎm 1960. Những yếu kém của mô hình tập thể hoá trên đây trước hết là do vi phạm các nguyên tắc về hợp tác hoá, đã bỏ qua nội dung kinh tế của các nguyên tắc này. Cơ sở kinh tế của nguyên tắc tự nguyện chính là sự xã hội hoá sức sản xuất, trên cơ sở đó xuất hiện nhu cầu hợp tác hoá các hộ nông dân, hợp tác ở những khâu nào có lợi nhất cho phát triển sản xuất. Song, trên thực tế là không nhận thức và cũng không dựa trên tất yếu kinh tế mà chủ yếu là xuất phát từ những tiền đề chính trị, lấy tất yếu chính trị thay cho tất yếu kinh tế để nhanh chóng tạo ra quan hệ sản xuất mà ta cho đó là chủ nghĩa xã hội, đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá. Cơ sở kinh tế cǎn bản nhất của nông dân là quyền làm chủ sử dụng ruộng đất. Trong tập thể hoá, chúng ta đã xoá bỏ ngay từ đầu cơ sở kinh tế này. Do phân phối bình quân, lợi ích kinh tế của nông dân bị vi phạm đã dẫn đến thủ tiêu động lực sản xuất của người lao động. Mặt khác, do "quản lý là khâu yếu kém nhất, ruộng đất được tập thể hoá nhưng sử dụng không có kế hoạch, dẫn đến cày sâu cấy muộn, bỏ sót ruộng, nǎng suất và sản lượng thấp. Cán bộ quản lý thiếu nǎng lực do trình độ vǎn hoá thấp, không đủ kinh nghiệm quản lý sản xuất, từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế giảm sút, không hơn sản xuất cá thể". Mô hình sở hữu tập thể có nhiều sai trái, yếu kém, chậm được phát hiện, sửa chữa. Vì vậy, sau ba nǎm xác lập mô hình sở hữu tập thể cho thấy: việc tập thể hoá triệt để ruộng đất tất yếu dẫn đến tập thể hoá triệt để sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân. Cách làm đó đã biến nông dân từ người làm chủ ruộng đất trở thành người làm công cho ban quản trị hợp tác xã - những người chưa đủ khả nǎng và kinh nghiệm quản lý. Trong phương pháp tiến hành tập thể hoá, nông dân từ chỗ là một lực lượng sản xuất xã hội, một tiềm nǎng kinh tế to lớn trở thành đối tượng cải tạo, vì vậy đã triệt tiêu tính nǎng động, sáng tạo của họ trong sản xuất. Từ nǎm 1961 trở đi, Đảng tập trung củng cố, tǎng cường và mở rộng mô hình sở hữu tập thể, bằng một loạt cuộc vận động ở nông thôn . Nội dung cơ bản của các cuộc vận động thể hiện trên mấy điểm sau đây: Một là, mở rộng quy mô sở hữu tập thể về ruộng đất từ thôn lên liên thôn, đỉnh cao là quy mô toàn xã sau Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình tháng 8-1974. Hai là, xác lập và thực hiện cơ chế quản lý tập trung trong kinh tế nông nghiệp từ vi mô đến vĩ mô. Về tổ chức sản xuất, chia cắt quá trình sản xuất nông nghiệp ra nhiều công đoạn, đỉnh cao là thành lập các đội chuyên (1976-1980), tiến hành tổ chức lại sản xuất trên phạm vi toàn huyện. Quản lý và sử dụng ruộng đất tập trung thống nhất theo chế độ sở hữu tập thể. Mọi phân biệt về lợi ích kinh tế trên đất đai đều bị xoá bỏ. Về phân phối, thực hiện nguyên tắc "trừ lùi" (thuế, quỹ, chi phí sản xuất, các khoản điều hoà...), còn lại chia theo ngày công, bằng hiện vật. Ba là, cơ chế vận hành của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân bằng một bộ máy hành chính hoá, qua nhiều tầng nấc trung gian từ Trung ương xuống tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã. Việc điều hành và quyết định trực tiếp quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm sản phẩm là bộ máy quản lý gồm đủ các phòng, ban, đội, tổ... bộ máy này thoát ly sản xuất trở thành quan liêu hoá, song quyền lực rất lớn, quyết định toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn. Những chủ trương và biện pháp trên đây được triển khai trong đời sống kinh tế xã hội nông thôn miền Bắc suốt 20 nǎm (1960-1980). Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, mô hình sở hữu tập thể cũng đã đưa lại những kết quả nhất định. Với nền nông nghiệp lạc hậu, thoát thai từ phương thức sản xuất phong kiến, sau nhiều nǎm tập thể hoá, với nguồn vốn của Nhà nước đầu tư, vốn của tập thể và công sức của nông dân, đã xây dựng được một hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật bước đầu rất quan trọng, đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, phát triển giao thông nông thôn, khai hoang, phục hoá, cảnh quan nông thôn đã có bước thay đổi. Nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật được áp dụng trong nông nghiệp, làm thay đổi tập quán và phương pháp canh tác cổ truyền, đưa lại nǎng suất cao, nhất là nǎng suất lúa. Trong thời kỳ cả nước có chiến tranh, mô hình tập thể hoá triệt để này đã trở thành một kết cấu kinh tế - xã hội cần thiết góp phần vào ổn định đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nông thôn, góp phần to lớn vào việc cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện có hiệu quả chính sách hậu phương quân đội. Sự đoàn kết tương trợ, tình làng nghĩa xóm trong nông thôn đã thiết thực cổ vũ, động viên bộ đội trên các chiến trường hoàn thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tuy vậy, xét về bản chất kinh tế, mô hình tập trung cao với các đặc trưng nêu trên có những khuyết điểm nghiêm trọng: - Quá trình củng cố mô hình này chính là quá trình tách lao động nông nghiệp ra khỏi ruộng đất và sản phẩm cuối cùng, đỉnh cao là thời kỳ 1976-1980 mà hệ quả trực tiếp là làm tha hoá người lao động. Họ chỉ còn cách quay về làm chủ thực sự mảnh đất 5% với kinh tế gia đình. - Kinh tế hộ nông dân bị hoà tan vào kinh tế tập thể. Các thành viên lao động trong gia đình nông dân bị xé lẻ, phân công vào các đội chuyên hoặc đội cơ bản đặt dưới sự điều hành của bộ máy quản lý tập trung. Chức nǎng kinh tế của hộ gia đình cơ bản bị thủ tiêu, chỉ còn lại chức nǎng xã hội. Lợi ích kinh tế trực tiếp của người lao động bị vi phạm đã làm mất đi sự thiết tha với ruộng đất, làm mất đi bản chất cần cù một nắng hai sương của người nông dân Việt Nam. - Do cơ chế quản lý tập trung quan liêu, ruộng đất thuộc sở hữu và sử dụng tập thể theo kiểu "cha chung không ai khóc" đã dẫn đến tình trạng vô chủ trong quản lý và sử dụng đất đai, gây ra lãng phí và mất đất đai nghiêm trọng. ở Nam Hà, Thanh Hoá và Hải Hưng mỗi tỉnh mất 2 vạn hécta. Trong 10 nǎm (1961-1971), mỗi tỉnh mất đi diện tích canh tác bằng diện tích hai huyện, còn đất gieo trồng ở miền Bắc mất đi bằng diện tích hai tỉnh . Tại Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình (tháng 8-1974), đồng chí Lê Duẩn nhận định: Trong thời kỳ 1964-1974, "điều đáng lưu ý là ruộng đất canh tác bị sụt đi khoảng vài chục vạn hécta do xây dựng cơ bản, làm thuỷ lợi, đắp đường. .. Cho nên, dù nǎng suất có tǎng khá, nhưng tổng sản lượng lương thực cũng chỉ xoay quanh một mức nhất định, không tǎng lên được nhiều, trong lúc đó dân số tǎng hơn 4 triệu người". Theo số liệu của cục quản lý ruộng đất, nǎm 1978 cả nước có 1,4 triệu hécta đất chuyên dùng (dành cho thuỷ lợi, xây dựng cơ bản) chiếm 24% diện tích canh tác. ở các tỉnh phía bắc, đất thuỷ lợi chiếm 9% diện tích canh tác. Một số tỉnh đất hẹp, người đông, diện tích đất loại này lên đến 12% (Thái Bình, Hà Nam Ninh). Song, hiệu quả sử dụng đất làm thuỷ lợi rất thấp, 1 hécta đất làm thuỷ lợi bình quân chỉ tưới được 4,2 hécta diện tích canh tác. Nếu tính cả những nǎm sau này, do quản lý và sử dụng ruộng đất vô trách nhiệm, trong 5 nǎm (1981-1985), diện tích đất canh tác cả nước mất đi 350.000 hécta (riêng đồng bằng sông Cửu Long 250.000 hécta), tương đương với diện tích trồng lúa của ba tỉnh miền Trung (Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên cộng lại). Đây là chưa tính việc biến đất thổ canh thành thổ cư ở địa phương nào cũng có. Riêng nǎm 1978 gần 7 vạn hécta đất "bờ xôi ruộng mật" biến thành thổ cư. Những khuyết điểm trên đây đã làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển chậm, không ổn định, kéo dài tình trạng tự cấp tự túc. Tiềm nǎng lao động và đất đai khai thác kém hiệu quả. Nhất là những nǎm 1976-1980, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn một cách duy ý chí đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế nông nghiệp: sản lượng lương thực suốt những nǎm 1960-1980 trên miền Bắc chỉ đạt bình quân trên dưới 5 triệu tấn/nǎm. Trong những nǎm 1976-1980 sản lượng lương thực cả nước chỉ đạt 13 triệu tấn/nǎm (miền Bắc trên 5 triệu tấn), trong khi đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV định ra chỉ tiêu phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực vào nǎm 1980. Sản xuất nông nghiệp suy thoái như trên đã đưa đến hệ quả kinh tế là: tập thể quản lý và sử dụng 95% diện tích ruộng đất chỉ đáp ứng được dưới 50% thu nhập của hộ xã viên, còn trên 50% thu nhập của họ phải dựa vào mảnh đất 5% và kinh tế gia đình. Mảnh đất 5% trở thành "mảnh đất thần kỳ". Nǎng suất lúa trên mảnh đất 5% phổ biến đạt 90 đến 100 tạ/hécta, trong khi ruộng đất thuộc sở hữu tập thể thì tối đa mới đạt 50-60 tạ/hécta. Đất 5% có thời kỳ chỉ coi là kinh tế phụ, thậm chí còn hạn chế sự phát triển của nó. Song, trên mảnh đất 5% đã tỏ rõ sức phát triển. ở đây, người nông dân đã kết hợp được những kinh nghiệm ngàn nǎm của ông cha với những tri thức và kỹ thuật mới mà họ có thể sử dụng cùng với sức lực, tâm huyết gắn bó với đất đai. Đất đã không phụ công người, đem lại trên 50% thu nhập cho gia đình họ. Nguyên nhân ra đời và tồn tại của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất thể hiện trên mấy điểm sau đây: Trước hết, do nhận thức đơn giản, giáo điều, duy ý chí về chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là: quan niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, và sau này đồng nghĩa với sở hữu nhà nước, từ đó đã nóng vội muốn nhanh chóng xoá bỏ các loại hình sở hữu khác, coi đó là điều kiện tiên quyết để xây dựng chế độ kinh tế mới trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Trong xây dựng kinh tế nông thôn, chỉ tuyệt đối hoá một hình thức tập thể hoá triệt để ruộng đất, theo nó là sức lao động nông nghiệp. Điều này đã làm nghèo đi nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học và sự liên minh tự nguyện giữa những người lao động tự do thành các hiệp hội. Từ nhận thức giản đơn như vậy nên đã vận dụng một cách giáo điều học thuyết ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp và nông nghiệp, với mong muốn tạo ra quan hệ sản xuất mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đi ngược lại quy luật phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội và không phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp, một lĩnh vực sản xuất đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy luật sinh học. Thứ hai, mô hình tập thể hoá tập trung cao được xây dựng và củng cố, phần nào do ảnh hưởng của nhân tố quốc tế. Những chương trình đồ sộ của Liên Xô chuẩn bị "đi vào chủ nghĩa cộng sản", rồi "đại nhảy vọt" của Trung Quốc và "Thiên lý mã" của Triều Tiên... đã tác động không nhỏ đến nước ta trong việc hoạch định những chiến lược kinh tế lớn, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nông nghiệp. Những hình thức kinh tế tập thể ở những nước này, trên thực tế cho thấy là kém hiệu quả, khó đứng vững trước những thách thức, biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Thứ ba, mô hình sở hữu tập thể với việc tập thể hoá triệt để, tập trung là con đẻ của cơ chế tập trung quan liêu của cả nền kinh tế. Hiện nay, việc xoá bỏ cơ chế này tất yếu phải thay đổi mô hình cũ cả về tổ chức và phương thức hoạt động. Sau cùng, phải kể đến quy luật chiến tranh. Trong chiến tranh không trực tiếp tạo nên mô hình này, song đã góp phần củng cố nó. b) ở miền Nam - Đặc điểm về sở hữu ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn miền Nam sau giải phóng 1975. Trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, do tác động của chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng và do sự xâm nhập ở mức độ khác nhau của chủ nghĩa thực dân mới từ thời Mỹ - ngụy, vấn đề ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn miền Nam sau giải phóng (1975) rất đa dạng và khác nhau giữa các vùng. Miền Trung là dải đất hẹp, bình quân ruộng đất thấp, trong chiến tranh trở thành vùng tranh chấp ác liệt, nông thôn bị tàn phá nặng nề, nông dân bị đồn xúc, phân tán. Ruộng đất nhiều nơi trở thành vành đai trắng. Tây Nguyên là vùng núi cao, phần lớn là dân tộc ít người. Cho đến ngày giải phóng, trên vùng đất này tồn tại hai bộ phận kinh tế chủ yếu: kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên mang dấu ấn của cộng đồng các thị tộc mà đơn vị sản xuất chính là các đại gia đình theo chế độ "nhà dài". Kinh tế đồn điền với các vùng cây công nghiệp của tư bản nước ngoài và Việt Nam kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Nam Bộ sau giải phóng có những đặc điểm khác miền Bắc sau hoà bình (1954), khác miền Trung và Tây Nguyên ở cùng thời điểm. ở đây, phương thức sản xuất phong kiến về cơ bản đã bị xoá bỏ, 70% số hộ nông dân là trung nông, chiếm 80% diện tích canh tác. Họ đang trở thành lực lượng trung tâm của sản xuất nông nghiệp ở Nam Bộ. Phú nông và tư sản nông thôn chiếm khoảng từ 1 đến 4% số hộ, sở hữu khoảng 4 đến 7% ruộng đất canh tác, họ vừa kinh doanh trên ruộng đất, vừa kinh doanh dịch vụ. Nǎng lực cơ khí của họ rất lớn và đang trở thành trung tâm dịch vụ kinh tế, kỹ thuật ở nông thôn. Còn lại khoảng 20% số hộ thiếu ruộng hoặc không có ruộng, cộng với hàng triệu nông dân bị chiến tranh xô đẩy vào các khu tập trung, các đô thị sau giải phóng trở về quê cũ. Tình hình đó đặt ra yêu cầu khách quan phải giải quyết vấn đề ruộng đất ở nông thôn sau chiến tranh. Trung nông hoá phổ biến ở nông thôn Nam Bộ đã mở đường cho sự tiếp thu tiến bộ kỹ thuật . Nhiều vùng nông thôn sức sản xuất phát triển, hình thành sự phân công lao động đa dạng: sản xuất nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ, chế biến nông sản, thương nghiệp và lao động tự do. Hệ thống dịch vụ nông nghiệp, sản xuất lưu thông hàng hoá - tiền tệ đã hình thành thông suốt từ thành thị đến thôn ấp và hộ nông dân. Hệ thống này bước đầu đã gắn được nông nghiệp với công nghiệp, sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xét về mặt xã hội hoá sản xuất thì đây là bước tiến bộ trong lịch sử sản xuất nông nghiệp ở nước ta, là tiền đề kinh tế hết sức cơ bản để từng bước chuyển nền nông nghiệp Nam Bộ sang sản xuất hàng hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa. Những đặc điểm trên đây mang tính khách quan quy định chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn Nam Bộ trước hết và cǎn bản là vấn đề ruộng đất. Chủ trương của Đảng về ruộng đất trong những nǎm 1975-1980. Sau giải phóng (1975), Đảng chủ trương "xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đồng nhất trong cả nước dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn" . Về vấn đề ruộng đất, Đảng chủ trương triệt để xoá bỏ tàn dư bóc lột ruộng đất của địa chủ, phong kiến, tịch thu ruộng đất của bọn phản động ác ôn có nợ máu chia cho nông dân không ruộng và thiếu ruộng; điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân gắn với cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã; tập thể hoá triệt để ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân. Thực hiện chủ trương trên, kết quả đưa lại ở các vùng không giống nhau. ở các tỉnh duyên hải miền Trung, đến cuối nǎm 1975 đã thu hồi 125.527 hécta ruộng đất chia cho 2 triệu nông dân. Mức chênh lệch ruộng đất giữa các hộ không đáng kể. Vì vậy, tạo thuận lợi cho quá trình điều chỉnh ruộng đất và tập thể hoá. ở Tây Nguyên, ruộng đất chủ yếu là quốc gia công thổ và đồn điền. Việc tịch thu đất đai và quốc hữu hoá đồn điền từ tay giai cấp tư sản khá thuận lợi. Sau khi chuyển các đồn điền cây công nghiệp thành nông trường quốc doanh, còn lại một số ruộng được chia cấp tập thể, lập các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. ở Nam Bộ, trước hết, là tịch thu ruộng đất của địa chủ, việt gian phản động chia cho nông dân. Vấn đề mới đặt ra là ruộng đất tịch thu được của địa chủ còn lại không nhiều trong khi gần hai triệu người, vốn đang hoạt động trong các lĩnh vực công thương nghiệp (phi nông nghiệp) được coi là đối tượng cải tạo công thương nghiệp phải trở về nông thôn, đòi hỏi có ruộng đất canh tác. Để có ruộng đất cấp cho đối tượng này, phải tiến hành điều chỉnh ruộng đất bằng cuộc vận động "nhường áo sẻ cơm" theo tinh thần Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị (tháng 1-1978). Thực chất là cắt đất của 10% số hộ trung nông khá giả để chia bình quân cho người không có ruộng. Tiếp theo, thực hiện Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp (tháng 1-1981) và Chỉ thị 19 (tháng 5-1993) về điều chỉnh ruộng đất và cải tạo nông nghiệp Nam Bộ của Ban Bí thư trung ương, tiếp tục điều chỉnh ruộng đất của 40% số hộ trung nông có ruộng đất cao hơn mức bình quân ở địa phương. Trong quá trình tập thể hoá, đã coi việc phân biệt lợi ích kinh tế trên đất đai của hộ nông dân là không cần thiết, nên dẫn đến tình trạng cắt đất xâm canh và xáo canh diễn ra hết sức phức tạp ở nông thôn Nam Bộ. Như vậy, sau giải phóng, giải quyết vấn đề ruộng đất ở miền Nam đã đưa lại kết quả nhất định là hoàn thành cách mạng ruộng đất, xoá bỏ chế độ chiếm hữu và bóc lột của đế quốc và địa chủ phong kiến trên phạm vi cả nước. Nhưng bên cạnh thắng lợi đó, trong điều chỉnh ruộng đất gắn liền với tập thể hoá, chúng ta đã mắc những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng: Trước hết, việc điều chỉnh ruộng đất theo cách làm trên, đã vi phạm lợi ích của nông dân, đặc biệt là trung nông - nhân vật trung tâm của sản xuất nông sản hàng hoá ở Nam Bộ, những người có vốn, lao động và kinh nghiệm sản xuất, đại biểu cho lực lượng sản xuất đang phát triển ở nông thôn. Thứ hai, việc điều chỉnh ruộng đất nhiều lần dẫn đến bình quân, xoá xâm canh, gây ra xáo canh, làm cho quá trình sản xuất hàng hoá và phân công lao động bị biến động lớn. Trên thực chất là đi ngược lại quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, vốn là tư liệu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều nơi còn chia ruộng đất cho cả những người hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp, mà việc họ tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp lại chính là kết quả tiến bộ của quá trình phân công lao động xã hội. Dù không tự giác, chúng ta làm lại cái đã qua về mặt lịch sử phát triển. 5. Thời kỳ từ nǎm 1981 đến nay. a) Từng bước khôi phục kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân được khôi phục bằng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thực chất là khoán hộ. Khoán hộ trải qua những bước thǎng trầm. Từ nǎm 1962, khoán hộ đã xuất hiện trên đồng đất Đồ sơn (Hải Phòng) và sau đó ở Vĩnh Phú (1966). Do nhận thức chưa đổi mới nên khoán hộ không được thừa nhận, phải đến những nǎm 1977-1980, khi nền nông nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng thì "khoán chui" xuất hiện phổ biến ở nhiều địa phương trên miền Bắc. Qua tổng kết thực tiễn trên, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thường gọi tắt là khoán 100. "Khoán chui", một mặt, phản ánh sự bắt đầu đổ vỡ khó tránh khỏi của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động và tư liệu sản xuất khác của nông dân; mặt khác, phản ánh tính tất yếu kinh tế - khôi phục lại chức nǎng kinh tế hộ nông dân. Khoán 100 bước đầu đáp ứng được yêu cầu khách quan này. Nội dung cơ bản của khoán 100 thể hiện trên mấy điểm: Mục đích: phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nǎng suất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động. Nguyên tắc: quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết quả cuối cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân phối giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích người lao động. Phạm vi: áp dụng đối với mọi loại cây trồng và vật nuôi. Khoán 100 đã đưa lại tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản xuất. Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian đầu, khoán 100 đã có tác dụng làm sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn so với thời kỳ trước. Tuy vậy, khoán 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm dần vì cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp. Hệ thống này cùng tính chất mệnh lệnh hành chính, mà hậu quả của nó đè lên vai người nông dân, trước hết là hộ nhận khoán. Hộ nông dân không đủ khả nǎng bảo đảm tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt ruộng đất. Trước đòi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động chuyển sang khoán gọn và sau đó được Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) xác nhận và thường gọi là khoán 10. Cùng với việc thực hiện khoán 10 là sự đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn. Từ đây, chức nǎng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá VI) tháng 3-1989 và Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá. Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động của các hợp tác xã nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm nǎng kinh tế hộ nông dân và nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. III. MẤY KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT 1- Vấn đề ruộng đất cần được giải quyết từng bước phù hợp với sự phát triển của cách mạng và lợi ích của nông dân a) Nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất và lợi ích của người nông dân trong từng thời kỳ cách mạng để đề ra chính sách ruộng đất phù hợp với thực tiễn. Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt không thay thế được đối với sản xuất nông nghiệp, là yêu cầu cơ bản và cấp thiết của nông dân trong mọi thời kỳ cách mạng. Giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân không chỉ mang ý nghĩa chính trị, mà còn mang ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với sự phát triển của cách mạng. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân nhằm tập hợp lực lượng chính trị, tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh công - nông, để tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mặt chính trị của vấn đề ruộng đất và nông dân được đặt lên hàng đầu. Chủ trương của Đảng ta trong thời kỳ này là tịch thu ruộng đất của đế quốc, địa chủ và việt gian chia cho dân cày. Tư tưởng cơ bản của chủ trương trên là nhằm đoàn kết các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, đoàn kết với cả một bộ phận địa chủ có tinh thần yêu nước. Nhờ đó, Đảng đã tập hợp xung quanh mình một lực lượng chính trị, xã hội rộng lớn, nhân sức mạnh của giai cấp công nhân lên gấp bội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Mặt kinh tế của vấn đề ruộng đất và nông dân được giải quyết thành công ở chỗ gắn liền với nhiệm vụ chính trị. Khẩu hiệu "Người cày có ruộng" và chính sách cải cách ruộng đất thực chất mang nội dung kinh tế, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nông dân, đồng thời có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Vấn đề ruộng đất đã có sức lôi cuốn, động viên nông dân tham gia kháng chiến, tǎng cường và củng cố liên minh công - nông và mặt trận dân tộc thống nhất. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Trong xây dựng đất nước, giải quyết vấn đề ruộng đất trước hết phải đáp ứng được lợi ích kinh tế của nông dân, phải đặt lợi ích kinh tế của nông dân lên hàng đầu. Chính trị phải thể hiện được yêu cầu kinh tế ấy, và chỉ khi đó chính trị mới có sức mạnh to lớn. Mối quan hệ biện chứng này được thể hiện trong tư tưởn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDCSVN.doc