Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn tới sự
ra đời của hoàng loạt các vương quốc trong thế kỷ 16, và chỉ bị tiêu diệt khi người
Đức đưa ra loại muối biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới, được coi
là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezia đã đánh nhau và giành thắng lợi trong cuộc
chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới là người
giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher Columbus và
Giovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng việc giới thiệu
Tân Thế Giới đối với thị trường.
Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài người. Muối
đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ 20 TCN ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Đế chế
La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là nguồn gốc của
từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên học). Cộng hòa La
Mã và Đế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền cho các cuộc chiến
hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có thể dễ dàng có
được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến trình lịch sử, muối
ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài chính của các nhà
nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng.
Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12-cánh cửa tới sa mạc
Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó
theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫntới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên
nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới.
14 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Natri clorua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Natri clorua
Natri clorua
Tinh thể clorua natri
Tổng quan
Danh pháp IUPAC natri clorua
Tên khác
halua
muối (thường)
muối ăn
Công thức phân tử NaCl
Phân tử gam 58,4 g/mol
Biểu hiện
Chất rắn kết tinh màu
trắng hay không màu
Số CAS [7647-14-5]
Thuộc tính
Tỷ trọng và pha 2,16 g/cm3, rắn
Độ hòa tan trong nước 35,9 g/100 ml (25°C)
Điểm nóng chảy 801°C (1074 K)
Điểm sôi 1465°C (1738 K)
pKa
pKb
Độ nhớt ? cP ở 20 °C
Nguy hiểm
MSDS MSDS ngoài
Các nguy hiểm chính Chất kích thích
NFPA 704
Điểm bắt lửa Không cháy
Rủi ro/An toàn
R: Không có
S: Không có
Số RTECS VZ4725000
Trang dữ liệu bổ sung
Cấu trúc & thuộc tính n εr, v.v.
Dữ liệu nhiệt động lực
Các trạng thái
rắn, lỏng, khí
Dữ liệu quang phổ UV, IR, NMR, MS
Các hợp chất liên quan
Các hợp chất tương tự
Florua natri
Brômua natri
Iôtua natri
Các hợp chất liên quan
Clorua liti
Clorua kali
Clorua rubiđi
Clorua xêzi
Clorua magiê
Clorua canxi
Axêtat natri
Ngoại trừ có thông báo khác, các dữ liệu
được lấy ở 25°C, 100 kPa
Thông tin về sự phủ nhận và tham chiếu
Đối với hợp chất này của natri dùng trong khẩu phần ăn uống, xem bài Muối ăn.
Clorua natri, còn gọi là natri clorua, muối ăn, muối, muối mỏ, hay halua, là
hợp chất hóa học với công thức hóa học NaCl. Clorua natri là muối chủ yếu tạo ra
độ mặn trong các đại dương và của chất lỏng ngoại bào của nhiều cơ thể đa bào.
Là thành phần chính trong muối ăn, nó được sử dụng phổ biến như là đồ gia vị và
chất bảo quản thực phẩm.
Cấu trúc tinh thể
Cấu trúc tinh thể clorua natri. Mỗi nguyên tử có 6 nguyên tử cận kề tạo ra cấu trúc
bát diện. Sự phân bổ này được gọi là khối lập phương kín (ccp).
Lục sẫm = Na+
Lam nhạt = Cl-
Clorua natri tạo thành các tinh thể có cấu trúc cân đối lập phương. Trong các tinh
thể này, các ion clorua lớn hơn được sắp xếp trong khối khép kín lập phương,
trong khi các ion natri nhỏ hơn điền vào các lỗ hổng bát diện giữa chúng. Mỗi ion
được bao quanh bởi 6 ion khác loại. Cấu trúc cơ bản như thế này cũng được tìm
thấy trong nhiều khoáng chất khác và được biết đến như là cấu trúc halua.
Vai trò sinh học
Clorua natri là khoáng chất thiết yếu cho sự sống trên Trái Đất. Phần lớn các mô
sinh học và chất lỏng trong cơ thể chứa các lượng khác nhau của clorua natri.
Nồng độ các ion natri trong máu có mối liên quan trực tiếp với sự điều chỉnh các
mức an toàn của hệ cơ thể-chất lỏng. Sự truyền các xung thần kinh bởi sự truyền
tính trạng tín hiệu được điều chỉnh bởi các ion natri. (Các ion kali- một kim loại có
các thuộc tính rất giống natri, cũng là thành phần chính trong cùng các hệ cơ thể).
Dung dịch 0,9% clorua natri trong nước được gọi là nước đẳng trương hay dung
dịch sinh lý học do nó là đẳng trương với huyết tương. Nó được biết đến trong y
học như là normal saline. Sung dịch nước đẳng trương là cơ sở chính của phẫu
thuật thay thế chất lỏng được sử dụng rộng rãi trong y học để ngăn chặn hay xử lý
sự mất nước, hay để truyền ven để ngăn sốc do mất máu.
Người là dị thường trong số các loài linh trưởng do có sự tiết ra mồ hôi chứa một
lượng lớn clorua natri.
Muối trong lịch sử
Các tinh thể muối được hình thành một cách tự nhiên
Khả năng bảo quản của muối là cơ sở của các nền văn minh. Nó góp phần loại bỏ
sự phụ thuộc vào khả năng cung ứng thực phẩm theo mùa và cho phép con người
có thể đi xa khỏi nơi cư trú mà không lo sợ thiếu thực phẩm. Vào thời Trung cổ,
các đoàn lữ hành cùng với khoảng 40.000 lạc đà đã đi tới 4.000 dặm xuyên qua
Sahara có chở theo muối, đôi khi để trao đổi lấy nô lệ.
Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, muối vẫn còn là một trong các động cơ chủ
yếu của các nền kinh tế và các cuộc chiến tranh. Muối đóng một vai trò nổi bật
trong việc xác định quyền lực và sự phân bổ vị trí của các thành phố lớn nhất trên
thế giới. Timbuktu đã từng là một trong các thị trường muối lớn nhất. Liverpool
phát triển từ một cảng nhỏ của Anh để trở thành hải cảng xuất khẩu chủ yếu đối
với các loại muối mỏ được khai thác từ mỏ muối lớn Cheshire và vì thế trở thành
nguồn của muối thế giới trong những năm thế kỷ 19.
Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn tới sự
ra đời của hoàng loạt các vương quốc trong thế kỷ 16, và chỉ bị tiêu diệt khi người
Đức đưa ra loại muối biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới, được coi
là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezia đã đánh nhau và giành thắng lợi trong cuộc
chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới là người
giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher Columbus và
Giovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng việc giới thiệu
Tân Thế Giới đối với thị trường.
Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài người. Muối
đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ 20 TCN ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Đế chế
La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là nguồn gốc của
từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên học). Cộng hòa La
Mã và Đế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền cho các cuộc chiến
hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có thể dễ dàng có
được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến trình lịch sử, muối
ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài chính của các nhà
nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng.
Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12-cánh cửa tới sa mạc
Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó
theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫn
tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên
nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới.
Thời gian sau này, ví dụ trong thời kỳ đô hộ của người Anh thì việc sản xuất và
vận chuyển muối đã được kiểm soát ở Ấn Độ như là các biện pháp để thu được
nhiều tiền thuế. Điều này cuối cùng đã dẫn tới cuộc biểu tình muối ở Dandi, do
Mahatma Gandhi dẫn đầu vào năm 1930 trong đó hàng nghìn người Ấn Độ đã ra
biển để sản xuất muối cho chính họ nhằm phản đối chính sách thuế của người
Anh.
Việc buôn bán muối dựa trên một thực tế — nó đem lại nhiều lợi nhuận hơn khi
bán các thực phẩm có chứa muối chứ không phải chính muối. Trước khi các mỏ
muối ở Cheshire được phát hiện thì việc kinh doanh khổng lồ các loại cá của
người Anh đối với muối của người Pháp đã từng tồn tại. Điều này không phải là
sự hòa hợp tốt đẹp cho mỗi quốc gia khi họ không muốn phụ thuộc vào nhau.
Cuộc tìm kiếm cá và muối đã dẫn tới cuộc chiến tranh bảy năm giữa hai nước. Với
sự kiểm soát của người Anh đối với nghề muối ở Bahamas và cá tuyết Bắc Mỹ thì
tầm ảnh hưởng của họ đã tăng lên nhanh chóng trên thế giới. Việc tìm kiếm các
mỏ dầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã sử dụng các công nghệ và phương
thức mà những người khai thác muối đã dùng, thậm chí đến mức mà họ tìm kiếm
dầu ở những nơi có các mỏ muối.
Trong tôn giáo
Có 32 chỉ dẫn liên quan tới muối trong Kinh Thánh, quen thuộc nhất có lẽ là câu
chuyện về vợ của Lot, là người đã trở thành cột muối sau khi bà đã không tuân
lệnh các thiên sứ và quay lại nhìn thành phố độc ác Sodom (Chúa sáng tạo ra thế
giới 19:26). Giê-su cũng được nói đến đối với các tín đồ của ông như là "muối của
đất" (Matthew 5:13), một minh chứng cho giá trị lớn của muối trong thế giới cổ
đại.
Trong tín ngưỡng shinto của người Nhật, muối được coi là "tinh khiết" và có thể
sử dụng để làm tinh khiết (ban phúc) cho con người và các địa điểm.
Sản xuất và sử dụng
Các ruộng muối để làm bay hơi nước biển của người Jordan và Israel ở phía nam
biển Chết.
Ngày nay, muối được sản xuất bằng cách cho bay hơi nước biển hay nước muối từ
các nguồn khác, chẳng hạn các giếng nước muối và hồ muối, và bằng khai thác
muối mỏ.
Trong khi phần lớn mọi người là quen thuộc với việc sử dụng nhiều muối trong
nấu ăn, thì họ có thể lại không biết là muối được sử dụng quá nhiều trong các ứng
dụng khác, từ sản xuất bột giấy và giấy tới cố định thuốc nhuộm trong công
nghiệp dệt may và sản xuất vải, trong sản xuất xà phòng và bột giặt. Tại phần lớn
các khu vực của Canada và miền bắc Hoa Kỳ thì một lượng lớn muối mỏ được sử
dụng để giúp làm sạch băng ra khỏi các đường cao tốc trong mùa đông, mặc dù
"Road Salt" mất khả năng làm chảy băng ở nhiệt độ dưới -15 °C tới -20 °C (5 °F
tới -4 °F).
Muối cũng là nguyên liệu để sản xuất clo là chất cần thiết để sản xuất nhiều vật
liệu ngày nay như PVC và một số thuốc trừ sâu.
Độ hòa tan của NaCl trong các dung môi khác nhau
(g NaCl / 100 g dung môi ở 25 °C)
H2O 36
Dung dịch amôniắc 3,02
Mêtanol 1,4
Axít formic 5,2
Sulfolan 0,005
Axêtônitril 0,0003
Axêtôn 0,000042
Formamid 9,4
Đimêtyl formamid 0,04
Tham khảo:
Burgess, J. Metal Ions in Solution
(Ellis Horwood, New York, 1978)
ISBN 0-85312-027-7
Chất điều vị
Muối được sử dụng chủ yếu như là chất điều vị cho thực phẩm và được xác định
như là một trong số các vị cơ bản. Thật không may là nhiều khi người ta ăn quá
nhiều muối vượt quá định lượng cần thiết, cụ thể là ở các vùng có khí hậu lạnh.
Điều này dẫn đến sự tăng cao huyết áp ở một số người, mà trong nhiều trường hợp
là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim.
Sử dụng trong sinh học
Nhiều loại vi sinh vật không thể sống trong các môi trường quá mặn: nước bị thẩm
thấu ra khỏi các tế bào của chúng. Vì lý do này muối được sử dụng để bảo quản
một số thực phẩm, chẳng hạn thịt/cá xông khói. Nó cũng được sử dụng để khử
trùng các vết thương.
Đống muối
Khử băng
Trong khi muối là mặt hàng khan hiếm trong lịch sử thì sản xuất công nghiệp ngày
nay đã làm cho nó trở thành mặt hàng rẻ tiền. Khoảng 51% tổng sản lượng muối
toàn thế giới hiện nay được các nước có khí hậu lạnh dùng để khử băng các con
đường trong mùa đông. Điều này là do muối và nước tạo ra một hỗn hợp eutecti có
điểm đóng băng thấp hơn khoảng 10°C so với nước nguyên chất: các ion ngăn cản
không cho các tinh thể nước đá thông thường được tạo ra (dưới −10 °C thì muối
không ngăn được nước đóng băng). Các e ngại là việc sử dụng muối như thế có
thể bất lợi cho môi trường. Vì thế tại Canada thì người ta đã đề ra các định mức để
giảm thiểu việc sử dụng muối trong việc khử băng.
Các phụ gia
Muối ăn mà ngày nay người ta mua về dùng không phải là clorua natri nguyên
chất như nhiều người vẫn tưởng. Năm 1911 cacbonat magiê đã lần đầu tiên được
thêm vào muối để làm cho nó ít vón cục. Năm 1924 các lượng nhỏ iốt trong dạng
iốđua natri, iốđua kali hay iốđat kali đã được thêm vào, tạo ra muối iốt nhằm giảm
thiểu tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ.
Từ nguyên học
Mỏ muối gần Mount Morris, New York, Hoa Kỳ.
Muối có ảnh hưởng tới tiếng Anh. Nhiều hiệu ứng của nó vẫn có thể thấy được
cho đến tận ngày nay. Các từ và thành ngữ liên quan đến muối chủ yếu đến từ các
nền văn minh cổ đại của La Mã và Hy Lạp khi muối còn là mặt hàng có giá trị lớn.
Binh lính La Mã đã được trợ cấp để mua muối (tiếng Latinh: sal), salarium
argentum, mà từ đó có từ tiếng Anh ngày nay salary. Người La Mã cũng thích cho
muối vào rau xanh của họ, điều này dẫn đến từ Latinh cho muối được tích hợp lại
trong từ salad (trong tiếng Latinh bản xứ thì salata có nghĩa là "ướp muối").
Các dữ liệu khác
Đất mặn nói chung không thích hợp cho nông nghiệp, vì thế đã có thực tế
của làm mặn đất.
Niềm tin mê tín là muối bị rớt xuống đem lại sự không may mắn được cho
là có nguồn gốc từ lọ muối bị lật đổ trước mặt Giu-đa tại Bữa ăn tối cuối
cùng, được thể hiện trong bức họa nổi tiếng của Leonardo da Vinci là Bữa
ăn tối cuối cùng.
Do nồng độ muối cao của mình nên nước của biển Chết có tỷ trọng riêng
cao đến mức một số vật thể mà thông thường không nổi trong nước vẫn có
khả năng nổi trong nước của biển này. Người có thể nổi dễ dàng trong nước
của biển này, do có tỷ trọng riêng chỉ cao hơn một chút so với nước tinh
khiết. (Chỉ có 8% muối trong nước biển Chết là clorua natri; 53% là clorua
magiê, 37% là clorua kali.)
Các thành phố Cincinnati, Detroit và Hutchinson là các thành phố có nhiều
mỏ muối đang khai thác nhất.
Đệ tam Quốc xã lưu trữ phần lớn tiền, các bức tranh và các công trình nghệ
thuật khác trong các mỏ muối và nhiều tài liệu, vật phẩm quan trọng vẫn
tiếp tục được lưu trữ trong các mỏ muối cũ cho đến nay. Chúng cũng được
sử dụng để lưu trữ chất thải hạt nhân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_natri_clorua.pdf