Ứng dụng
Lưu huỳnh có nhiều ứng dụng công nghiệp. Thông qua dẫn xuất chính của nó là
axít sulfuric (H2SO4), lưu huỳnh được đánh giá là một trong các nguyên tố quan
trọng nhất được sử dụng như là nguyên liệu công nghiệp. Nó là quan trọng bậc
nhất đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế thế giới.
Sản xuất axít sulfuric là sử dụng chủ yếu của lưu huỳnh, và việc tiêu thụ axít
sulfuric được coi như một trong các chỉ số tốt nhất về sự phát triển công nghiệp
của một quốc gia. Axít sulfuric được sản xuất hàng năm ở Hoa Kỳ nhiều hơn bất
kỳ hóa chất công nghiệp nào khác.
Lưu huỳnh cũng được sử dụng trong ắc quy, bột giặt, lưu hóa cao su, thuốc diệt
nấm và trong sản xuất các phân bón phốtphat. Các sulfit được sử dụng để làm
trắng giấy và làm chất bảo quản trong rượu vang và làm khô hoa quả. Do bản chất
dễ cháy của nó, lưu huỳnh cũng được dùng trong các loại diêm, thuốc súng và
pháo hoa. Các thiosulfat natri và amôni được sử dụng như là các tác nhân cố định
trong nhiếp ảnh. Sulfat magiê, được biết dưới tên gọi muối Epsom có thể dùng
như thuốc nhuận tràng, chất bổ sung cho các bình ngâm (xử lý hóa học), tác nhân
làm tróc vỏ cây, hay để bổ sung magiê cho cây trồng.
Cuối thế kỷ 18, các nhà sản xuất đồ gỗ sử dụng lưu huỳnh nóng chảy để tạo ra các
lớp khảm trang trí trong các sản phẩm của họ. Do điôxít lưu huỳnh được tạo ra
trong quá trình nung chảy lưu huỳnh nên các đồ gỗ với lớp khảm lưu huỳnh đã bị
loại bỏ rất nhanh.
15 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Nguyên tố hóa học Lưu huỳnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyên tố hóa học Lưu huỳnh
16 phốtpho ← lưu huỳnh → clo
O
↑
S
↓
Se
Bảng đầy đủ
Tổng quát
Tên, Ký hiệu, Số lưu huỳnh, S, 16
Phân loại phi kim
Nhóm, Chu kỳ, Khối 16, 3, p
Khối lượng riêng, Độ cứng α: 2.080 kg/m³
β: 1.960 kg/m³
γ: 1.920 kg/m³, 2,0
Bề ngoài vàng chanh
Tính chất nguyên tử
Khối lượng nguyên tử 32,065(5) đ.v.C
Bán kính nguyên tử (calc.) 100 (88) pm
Bán kính cộng hoá trị 102 pm
Bán kính van der Waals 180 pm
Cấu hình electron [Ne]3s23p4
e- trên mức năng lượng 2, 8, 6
Trạng thái ôxi hóa (Ôxít) -1, 2, ±4, 6 (axít mạnh)
Cấu trúc tinh thể thoi trực phân
Tính chất vật lý
Trạng thái vật chất rắn
Điểm nóng chảy 388,36 K (239,38 °F)
Điểm sôi 717,8 K (832,3 °F)
Trạng thái trật tự từ ?
Thể tích phân tử ? ×10-6 m³/mol
Nhiệt bay hơi 45 kJ/mol
Nhiệt nóng chảy 1,727 kJ/mol
Áp suất hơi 100.000 Pa tại 717 K
Vận tốc âm thanh ? m/s tại r.t K
Thông tin khác
Độ âm điện 2,58 (thang Pauling)
Nhiệt dung riêng 22,75 J/(kg·K)
Độ dẫn điện 5x10-16 /Ω·m
Độ dẫn nhiệt 0,205 W/(m·K)
Năng lượng ion hóa 1. 999,6 kJ/mol
2. 2.252 kJ/mol
3. 3.357 kJ/mol
Chất đồng vị ổn định nhất
iso TN t½ DM DE MeV DP
32S 95,02% Ổn định có 16 neutron
33S 9,75% Ổn định có 17 neutron
34S 4,21% Ổn định có 18 neutron
35S tổng hợp 87,32 ngày β− 0,167 35Cl
36S 0,02% Ổn định có 20 neutron
Đơn vị SI và STP được dùng trừ khi có ghi chú.
Lưu huỳnh là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu S và số nguyên
tử 16. Nó là một phi kim phổ biến, không mùi, không vị, nhiều hóa trị. Lưu huỳnh,
trong dạng gốc của nó là chất rắn kết tinh màu vàng chanh. Trong tự nhiên, nó có
thể tìm thấy ở dạng đơn chất hay trong các khoáng chất sulfua và sulfat. Nó là một
nguyên tố thiết yếu cho sự sống và được tìm thấy trong hai axít amin. Sử dụng
thương mại của nó chủ yếu trong các phân bón nhưng cũng được dùng rộng rãi
trong thuốc súng, diêm, thuốc trừ sâu và thuốc diệt nấm.
Các đặc trưng nổi bật
Một mẩu lưu huỳnh nóng chảy thành chất lỏng màu đỏ máu. Ngọn lửa màu xanh
lam của nó có thể quan sát tốt nhất trong bóng tối.
Ở nhiệt độ phòng, lưu huỳnh là một chất rắn xốp màu vàng nhạt. Mặc dù lưu
huỳnh không được ưa thích do mùi của nó - thường xuyên bị so sánh với mùi
trứng ung - mùi này thực ra là đặc trưng của sulfua hiđrô (H2S); còn lưu huỳnh
đơn chất không có mùi. Nó cháy với ngọn lửa màu xanh lam và tỏa ra điôxít lưu
huỳnh, với mùi ngột ngạt dị thường. Lưu huỳnh không hòa tan trong nước nhưng
hòa tan trong đisulfua cacbon và các dung môi không phân cực khác. Các trạng
thái ôxi hóa phổ biến của nó là -2, +2, +4 và +6. Lưu huỳnh tạo thành các hợp chất
ổn định với gần như mọi nguyên tố, ngoại trừ các khí trơ.
Lưu huỳnh trong trạng thái rắn thông thường tồn tại như là các phân tử vòng dạng
vòng hoa S8. Lưu huỳnh có nhiều thù hình bên cạnh S8. Loại một nguyên tử từ
vòng sẽ là S7, đây là nguyên nhân cho màu vàng đặc trưng của lưu huỳnh. Nhiều
vòng khác cũng được điều chế ra, bao gồm S12 và S18. Trái lại, nguyên tố ôxy cùng
phân nhóm nhưng nhẹ hơn về cơ bản chỉ tồn tại trong hai dạng cơ bản có ý nghĩa
hóa học là: O2 và O3. Selen, nguyên tố nặng hơn cùng phân nhóm với lưu huỳnh
có thể tạo ra các vòng nhưng thông thường nó nằm trong chuỗi polyme.
Tinh thể lưu huỳnh rất phức tạp. Phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể, các thù hình
của lưu huỳnh tạo thành vài cấu trúc tinh thể khác nhau, với các dạng hình thoi và
xiên đơn S8 là các dạng được nghiên cứu kỹ nhất.
Một tính chất đáng chú ý là độ nhớt của lưu huỳnh nóng chảy, không giống như
phần lớn các chất lỏng khác, tăng lên theo nhiệt độ do sự hình thành các chuỗi
polyme. Tuy nhiên, sau khi đã đạt được một khoảng nhiệt độ nhất định thì độ nhớt
lại bị giảm do đã đủ năng lượng để phá vỡ chuỗi polyme.
Lưu huỳnh vô định hình hay "dẻo" có thể được tạo ra khi làm nguội nhanh lưu
huỳnh nóng chảy. Các nghiên cứu tinh thể bằng tia X chỉ ra rằng dạng vô định
hình có thể có cấu trúc xoắn ốc với 8 nguyên tử trên một vòng. Dạng này là ổn
định động ở nhiệt độ phòng và dần dần chuyển ngược thành dạng kết tinh. Tiến
trình này diễn ra trong vòng vài giờ hay vài ngày nhưng có thể tăng tốc nhờ xúc
tác.
Ứng dụng
Lưu huỳnh có nhiều ứng dụng công nghiệp. Thông qua dẫn xuất chính của nó là
axít sulfuric (H2SO4), lưu huỳnh được đánh giá là một trong các nguyên tố quan
trọng nhất được sử dụng như là nguyên liệu công nghiệp. Nó là quan trọng bậc
nhất đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế thế giới.
Sản xuất axít sulfuric là sử dụng chủ yếu của lưu huỳnh, và việc tiêu thụ axít
sulfuric được coi như một trong các chỉ số tốt nhất về sự phát triển công nghiệp
của một quốc gia. Axít sulfuric được sản xuất hàng năm ở Hoa Kỳ nhiều hơn bất
kỳ hóa chất công nghiệp nào khác.
Lưu huỳnh cũng được sử dụng trong ắc quy, bột giặt, lưu hóa cao su, thuốc diệt
nấm và trong sản xuất các phân bón phốtphat. Các sulfit được sử dụng để làm
trắng giấy và làm chất bảo quản trong rượu vang và làm khô hoa quả. Do bản chất
dễ cháy của nó, lưu huỳnh cũng được dùng trong các loại diêm, thuốc súng và
pháo hoa. Các thiosulfat natri và amôni được sử dụng như là các tác nhân cố định
trong nhiếp ảnh. Sulfat magiê, được biết dưới tên gọi muối Epsom có thể dùng
như thuốc nhuận tràng, chất bổ sung cho các bình ngâm (xử lý hóa học), tác nhân
làm tróc vỏ cây, hay để bổ sung magiê cho cây trồng.
Cuối thế kỷ 18, các nhà sản xuất đồ gỗ sử dụng lưu huỳnh nóng chảy để tạo ra các
lớp khảm trang trí trong các sản phẩm của họ. Do điôxít lưu huỳnh được tạo ra
trong quá trình nung chảy lưu huỳnh nên các đồ gỗ với lớp khảm lưu huỳnh đã bị
loại bỏ rất nhanh.
Vai trò sinh học
Các axít amin cystein và methionin chứa lưu huỳnh, cũng như mọi polypeptid,
protein và enzym có chứa các axít amin này. Điều đó làm cho lưu huỳnh trở thành
thành phần cần thiết cho mọi tế bào. Các liên kết disulfua giữa các polypeptid là
rất quan trọng trong sự tạo thành và cấu trúc của protein. Homocystein và taurin
cũng là các axít amin chứa lưu huỳnh nhưng không được mã hóa bởi ADN và
chúng cũng không phải là một phần của cấu trúc sơ cấp của các protein. Một số
dạng vi khuẩn sử dụng sulfua hiđrô (H2S) thay vào vị trí của nước như là chất
cung cấp electron trong các tiến trình thô sơ tương tự như quang hợp. Thực vật
cũng hấp thụ lưu huỳnh từ đất trong dạng các ion sulfat. Lưu huỳnh vô cơ tạo
thành một phần của các cụm sắt-lưu huỳnh, và lưu huỳnh là chất cầu nối trong vị
trí CuA của cytochrom c ôxidaza. Lưu huỳnh là thành phần quan trọng của
coenzym A
Ảnh hưởng môi trường
Sự đốt cháy than và dầu mỏ trong công nghiệp và các nhà máy điện giải phóng ra
một lượng lớn điôxít lưu huỳnh SO2, nó sẽ phản ứng với hơi nước và ôxy có trong
khí quyển để tạo ra axít sulfuric. Đây là nguyên nhân của các trận mưa axít và làm
giảm pH của đất cũng như các khu vực chứa nước ngọt, tạo ra những tổn thất đáng
kể cho môi trường tự nhiên và gây ra phong hóa hóa học đối với các công trình
xây dựng và kiến trúc. Các tiêu chuẩn về nhiên liệu đã thắt chặt các chỉ tiêu về
hàm lượng lưu huỳnh trong các nhiên liệu hóa thạch để giảm thiểu sự hình thành
của mưa axít. Lưu huỳnh được tách ra từ các nhiên liệu này sau đó sẽ được làm
tinh khiết và tạo ra một phần lớn của sản lượng lưu huỳnh được sản xuất.
Lịch sử
Tinh thể lưu huỳnh.
Lưu huỳnh (tiếng Phạn, sulvere; tiếng Latinh sulpur), (còn được gọi là lưu hoàng,
sinh diêm vàng, diêm sinh) đã được biết đến từ thời cổ đại, và nó được nhắc đến
trong Pentateuch của Kinh Thánh (Sáng thế ký). Các phiên dịch ra tiếng Anh của
nó đều coi lưu huỳnh như là "brimstone", tạo ra tên gọi của các bài thuyết giáo
'Fire and brimstone', trong đó địa ngục và sự quở trách của Thượng đế đối với
những kẻ có tội được nhấn mạnh. Nó có từ phần của Kinh Thánh cho rằng địa
ngục có mùi của lưu huỳnh.
Trong tiếng Ả Rập sufra có nghĩa là màu vàng, có từ màu sáng của dạng tự nhiên
của lưu huỳnh và người ta cho rằng nó là nguyên từ của các tên gọi để chỉ lưu
huỳnh trong ngôn ngữ của một số quốc gia châu Âu hiện nay.
Homer đã đề cập tới "lưu huỳnh ngăn ngừa các loài phá hoại" từ thế kỷ 9 TCN và
năm 424 TCN thì bộ tộc ở Boeotia đã tiêu hủy các bức tường của thành phố bằng
cách đốt hỗn hợp than, lưu huỳnh và hắc ín dưới chân tường.
Vào khoảng thế kỷ 12, người Trung Quốc đã phát minh ra thuốc súng, nó là hỗn
hợp của nitrat kali (KNO3), cacbon và lưu huỳnh. Các nhà giả kim thuật ban đầu
cho lưu huỳnh ký hiệu giả kim thuật là một tam giác ở đỉnh của chữ thập. Vào
những năm cuối thập niên 1770, Antoine Lavoisier đã củng cố niềm tin của cộng
đồng khoa học khi cho rằng lưu huỳnh là một nguyên tố chứ không phải hợp chất.
Năm 1867 lưu huỳnh đã được phát hiện trong các mỏ ở Louisiana và Texas. Lớp
nằm trên của nó là cát chảy đã ngăn cản các hoạt động khai thác thông thường. Vì
thế quy trình Frasch đã nảy sinh và được thực hiện.
Sự phổ biến
Lưu huỳnh.
Các tinh thể lưu huỳnh ở suối nước nóng Wai-o-tapu, New Zealand.
Lưu huỳnh dạng đơn chất có thể tìm thấy ở gần các suối nước nóng và các khu
vực núi lửa tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là dọc theo vành đai lửa Thái Bình
Dương. Các nguồn phổ biến này là cơ sở cho tên gọi truyền thống brimstone, do
lưu huỳnh có thể tìm thấy gần các miệng núi lửa. Các trầm tích núi lửa hiện được
khai thác tại Indonesia, Chile và Nhật Bản.
Các mỏ đáng kể của lưu huỳnh đơn chất cũng tồn tại trong các mỏ muối dọc theo
bờ biển thuộc vịnh Mexico và trong các evaporit ở Đông Âu và Tây Á. Lưu huỳnh
trong các mỏ này được cho là có được nhờ hoạt động của các vi khuẩn kỵ khí đối
với các khoáng chất sulfat, đặc biệt là thạch cao. Các mỏ này là nền tảng của sản
xuất lưu huỳnh công nghiệp tại Hoa Kỳ, Ba Lan, Nga, Turkmenistan và Ukraina.
Lưu huỳnh thu được từ dầu mỏ, khí đốt và cát dầu Athabasca đã trở thành nguồn
cung cấp lớn trên thị trường, với các kho dự trữ lớn dọc theo Alberta.
Lưu huỳnh khai thác ở Alberta, được chuẩn bị giao hàng tại Vancouver, B. C..
Các hợp chất chứa lưu huỳnh nguồn gốc tự nhiên phổ biến nhất là các sulfua kim
loại, như pyrit (sulfua sắt), cinnabar hay chu sa (sulfua thủy ngân), galen (sulfua
chì), sphalerit (sulfua kẽm) và stibnit (sulfua antimon) cũng như các sulfat kim
loại, như thạch cao (sulfat canxi), alunit (sulfat nhôm kali) và barit (sulfat bari).
Sulfua hiđrô là một chất khí tạo ra mùi đặc trưng của trứng thối. Trong tự nhiên,
nó có trong các sản phẩm phun trào từ núi lửa, chẳng hạn từ các miệng phun thủy
nhiệt, và do tác động của vi khuẩn với các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh khi bị
phân hủy.
Các màu đặc trưng của các vệ tinh núi lửa của sao Mộc, như Io, là do các dạng
khác nhau của lưu huỳnh gây ra (nóng chảy, rắn hay khí). Các khu vực sẫm màu
trên Mặt Trăng gần hố Aristarchus có thể là mỏ lưu huỳnh. Lưu huỳnh cũng tồn tại
trong nhiều loại thiên thạch.
Hợp chất
Sulfua hiđrô có mùi đặc trưng của trứng thối. Khi hòa tan trong nước nó có tính
axít và phản ứng với nhiều kim loại để tạo ra các sulfua kim loại. Các sulfua kim
loại khá phổ biến, đặc biệt là của sắt. Sulfua sắt còn được gọi là pyrit cũng như
khoáng sản màu vàng. Một điều thú vị là pyrit có các tính chất bán dẫn [1]. Galen
là sulfua chì tự nhiên, là chất bán dẫn đầu tiên được phát hiện và nó đã từng được
dùng làm bộ chỉnh lưu tín hiệu trong các "râu mèo" của các radio tinh thể đầu tiên.
Nhiều hợp chất hữu cơ của lưu huỳnh với mùi khó ngửi như các êtyl và mêtyl
mecaptan được dùng làm chất tạo mùi cho khí đốt nhằm dễ dàng phát hiện rò rỉ.
Mùi của tỏi và "mùi hôi như chồn hôi" cũng do các hợp chất hữu cơ chứa lưu
huỳnh gây ra. Tuy nhiên, không phải mọi hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh đều có
mùi khó ngửi, chẳng hạn, terpen-một hợp chất chứa lưu huỳnh là tác nhân tạo ra
mùi thơm đặc trưng của quả bưởi chùm.
Nitrua lưu huỳnh polyme hóa có các tính chất của kim loại mặc dù nó không chứa
bất kỳ một nguyên tử kim loại nào. Hợp chất này cũng có các tính chất điện và
quang học bất thường. Polyme này có thể tạo ra từ têtranitrua têtra lưu huỳnh
S4N4.
Các hợp chất quan trọng khác của lưu huỳnh còn có:
Vô cơ:
Các sulfua (S2-) là các hợp chất đơn giản nhất của lưu huỳnh với các
nguyên tố hóa học khác.
Các sulfit (SO32-), các muối của axít sulfurơ, H2SO3, được tạo ra bằng cách
hòa tan SO2 trong nước. Axít sulfurơ và các sulfit tương ứng là các chất
khử tương đối mạnh. Các hợp chất dẫn xuất khác từ SO2 còn có các ion
pyrosulfit hay mêtabisulfit (S2O52−).
Các sulfat (SO42-), các muối của axít sulfuric. Axít sulfuric cũng phản ứng
với SO3 trong các tỷ lệ đẳng phân tử gam để tạo ra axít pyrosulfuric
(H2S2O7).
Các thiôsulfat (đôi khi được gọi là thiôsulfit hay "hyposulfit") (S2O32−)- như
thiôsulfat natri được dùng như các chất cố định trong nhiếp ảnh (trong vai
trò của các chất khử) và thiôsulfat amôni đã được phát hiện như là chất thay
thế cho các xyanua trong lọc quặng vàng [2].
Đithiônit natri, Na2S2O4 tạo ra từ axít hyposulfurơ/đithiônơ - là một chất
khử mạnh.
Đithiônat natri (Na2S2O6)
Các axít polythiônic (H2SnO6), trong đó n dao động từ 3 đến 80.
Axít perôxymônôsulfuric (H2SO5) và axít perôxyđisulfuric (H2S2O8)-được
điều chế từ phản ứng của SO3 hay H2SO4 với H2O2 đậm đặc một cách
tương ứng.
Các polisulfua natri (Na2Sx)
Hexaflorua lưu huỳnh, SF6, một tác nhân đẩy nặng, dạng khí, không phản
ứng và không độc
Têtranitrua têtra lưu huỳnh S4N4.
Các thiôxyanat là các hợp chất chứa ion thiôxyanat, SCN-. Liên quan đến
các ion này là thiôxyanôgen, (SCN)2.
Hữu cơ:
đimêtyl sulfôniôprôpiônat (DMSP; (CH3 )2S+CH2CH2COO-) là thành phần
trung tâm của chu trình lưu huỳnh hữu cơ trong đại dương.
Các thiôête là các phân tử với công thức tổng quát dạng R-S-R′, trong đó R
và R′ là các nhóm hữu cơ. Các chất này là sự tương đương của các ête (lưu
huỳnh thay thế ôxy).
Các thiol (hay mecaptan) là các phân tử với nhóm chức -SH. Chúng là các
chất tương đương với rượu (lưu huỳnh thay thế ôxy).
Các thiolat có nhóm chức -S- gắn vào. Chúng là các chất tương đương của
các ankôxít (lưu huỳnh thay thế ôxy).
Sulfôxít là các phân tử với nhóm chức R-S(=O)-R′, trong đó R và R′ là các
nhóm hữu cơ. Một chất phổ biến trong số các sulfôxít là DMSO.
Sulfon là các phân tử với nhóm chức R-S(=O)-R′, trong đó R và R′ là các
nhóm hữu cơ.
Thuốc thử Lawesson là thuốc thử hóa học có thể lấy ôxy từ các chất hữu cơ
khác và thay nó bằng lưu huỳnh.
Naptalen-1,8-điyl 1,3,2,4-đithiađiphốtphetan 2,4-đisulfua
Đồng vị
Lưu huỳnh có 18 đồng vị, trong đó 4 đồng vị ổn định: S32 (95,02%), S33 (0,75%),
S34 (4,21%) và S36 (0,02%). Các đồng vị khác và S35 là các đồng vị phóng xạ và có
chu kỳ bán rã ngắn. S35 được tạo ra từ sự bắn phá của các tia vũ trụ với Ar40 trong
khí quyển Trái Đất. Nó có chu kỳ bán rã là 87 ngày.
Khi các khoáng chất sulfua theo nước mưa xuống đất thì cân bằng đồng vị giữa
các thể rắn và các thể lỏng có thể sinh ra sự sai biệt nhỏ trong các giá trị của dS34
của các khoáng chất cùng nguồn gốc. Sự khác biệt trong các khoáng chất có thể sử
dụng để ước tính nhiệt độ của cân bằng. dC13 và dS34 của các cacbonat cùng tồn tại
và các sulfua có thể sử dụng để xác định pH và độ khó giữ ôxy của các chất lỏng
mang theo quặng trong quá trình hình thành quặng.
Trong phần lớn các hệ sinh thái rừng, sulfat chủ yếu thu được từ khí quyển hay sự
phong hóa của các quặng khoáng sản và các chất đã thoát hơi nước cũng cung cấp
một lượng lưu huỳnh nhỏ. Lưu huỳnh với thành phần đồng vị đặc biệt được sử
dụng để xác định các nguồn ô nhiễm, và lưu huỳnh được làm giàu được thêm vào
dưới dạng dấu vết trong các nghiên cứu thủy học. Các khác biệt trong độ phổ biến
tự nhiên cũng được sử dụng trong các hệ thống mà trong đó có các biến đổi đủ lớn
của S34 trong thành phần của hệ sinh thái.
Phòng ngừa
Các chất như đisulfua cacbon, ôxysulfua cacbon, sulfua hiđrô và điôxít lưu huỳnh
cần phải rất cẩn thận khi tiếp xúc.
Mặc dù điôxít lưu huỳnh là khá an toàn để sử dụng như là phụ gia thực phẩm với
một lượng nhỏ, nhưng khi ở nồng độ cao nó phản ứng với hơi ẩm để tạo ra axít
sulfurơ mà với một lượng đủ lớn có thể gây tổn thương cho phổi, mắt hay các cơ
quan khác. Trong các sinh vật không có phổi như côn trùng hay thực vật thì nó
ngăn cản sự hô hấp.
Sulfua hiđrô là rất độc (nó độc hơn nhiều so với xyanua). Mặc dù ban đầu nó có
mùi, nhưng nó nhanh chóng làm mất cảm giác mùi, vì thế các nạn nhân có thể
không biết được sự hiện diện của nó cho đến khi đã quá muộn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_nguyen_to_hoa_hoc_luu_huynh.pdf