Các ứng dụng khác
Ống nano cacbon cũng được triển khai trong các hệ thống cơ điện nano, bao gồm
các thành phần bộ nhớ cơ học (NRAM phát triển bởi Nantero Inc.) và motor điện
cỡ nano (xem Motor nano).
Một cách sử dụng khác của ống nano cacbon là phương tiện vận chuyển gene. [13]
Eikos Inc ở Franklin, Massachusetts và Unidym Inc. ở Silicon Valley, California
đang phát triển các tấm phim vô hình, dẫn điện làm bằng ống nano cacbon để thay
cho oxit thiếc indium (ITO). Phim ống nano cacbon khỏe hơn phim ITO rất nhiều,
làm chúng trở nên lý tưởng cho việc sử dụng trong màn hình cảm ứng và màn hình
dẻo. Phim ống nano cũng rất hứa hẹn trong việc sử dụng cho màn hình máy tính,
điện thoại di động, PDA, và ATM.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 633 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Ống nanô cácbon, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ống nanô cácbon 
Mô hình 3D của ba loại ống nano cacbon đơn lớp. 
Hoạt hình cho thấy cấu trúc 3 chiều của một ống nanô. 
Các ống nanô cácbon (Tiếng Anh: Carbon nanotube - CNT) là các dạng thù hình 
của cacbon. Một ống nano cacbon đơn lớp là một tấm than chì độ dày một-
nguyên-tử cuộn tròn lại thành một hình trụ liền, với đường kính cỡ nanomet. Điều 
này xảy ra trong các cấu trúc nano mà ở đó tỉ lệ giữa chiều dài và đường kính vượt 
trên 10.000. Các phân tử cacbon hình trụ đó có các tính chất thú vị làm cho chúng 
có khả năng hữu dụng cao trong rất nhiều ứng dụng của công nghệ nano, công 
nghiệp điện tử, quang học, và một số ngành khoa học vật liệu khác. Chúng thể 
hiện độ bền đáng kinh ngạc và các tính chất điện độc đáo, và độ dẫn nhiệt hiệu 
quả. Các ống nano vô cơ cũng đã được tổng hợp. 
Ống nano là một loại cấu trúc fullerene, trong đó cũng bao gồm cả buckyball. 
Trong khi buckyball có dạng hình cầu, một ống nano lại có dạng hình trụ, với ít 
nhất một đầu được phủ bởi một bán cầu có cấu trúc buckyball. Tên của chúng 
được đặt theo hình dạng của chúng, do đường kính của ống nano vào cỡ một vài 
nanomet (xấp xỉ nhỏ hơn 50.000 lần một sợi tóc), trong khi độ dài của chúng có 
thể lên tới vài milimet. Các nhà nghiên cứu ở đại học Cincinnati (UC) đã phát triển 
một quá trình để xây mạng thẳng hàng các ống nano cacbon cực dài. Họ đã có thể 
sản xuất các ống nano cacbon dài 18mm [1] và có thể xoắn lại thành các sợi nano 
cacbon. Có hai loại ống nano cacbon chính: ống nano đơn lớp (SWNT) và ống 
nano đa lớp (MWNT). 
Bản chất của liên kết trong ống nano cacbon được giải thích bởi hóa học lượng tử, 
cụ thể là sự xen phủ orbital. Liên kết hóa học của các ống nano được cấu thành 
hoàn toàn bởi các liên kết sp2, tương tự với than chì. Cấu trúc liên kết này, mạnh 
hơn các liên kết sp3 ở trong kim cương, tạo ra những phân tử với độ bền đặc biệt. 
Các ống nano thông thường tự sắp xếp thành các "sợi dây thừng" được giữ với 
nhau bởi lực Van der Waals. Dưới áp suất cao, các ống nano có thể trộn với nhau, 
trao đổi một số liên kết sp2 cho liên kết sp3, tạo ra khả năng sản ra các sợi dây 
khỏe, độ dài không giới hạn thông qua liên kết ống nano áp suất cao. [2] 
Sự khám phá 
Các loại ống nano cacbon 
Đơn lớp 
 Cách đặt tên ống nano (n,m) có thể tưởng tượng như là một vector (Ch) trong một 
tấm than chì vô hạn mà mô tả cách "cuộn" tấm than chì để tạo ống nano. T thể 
hiện trục của ống, và a1 với a2 là các vector đơn vị của graphene trong không gian 
thực 
Phần lớn các ống nano đơn lớp (SWNT-Single Wall Nanotube) có đường kính gần 
1 nanomet, với độ dài đường ống có thể gấp hàng nghìn lần như vậy. Cấu trúc của 
một SWNT có thể được hình dung là cuộn một lớp than chì độ dày một-nguyên-tử 
(còn gọi là graphene) thành một hình trụ liền. Cách mà tấm graphene được cuộn 
như vậy được biểu diễn bởi một cặp chỉ số (n,m) gọi là vector chiral. Các số 
nguyên n và m là số của các vector đơn vị dọc theo hai hướng trong lưới tinh thể 
hình tổ ong của graphene. Nếu m=0, ống nano được gọi là "zigzag". Nếu n=m, ống 
nano được gọi là "ghế bành". Nếu không, chúng được gọi là "chiral". 
Ống nano đơn lớp là loại ống nano cacbon cực kì quan trọng bởi chúng thể hiện 
các tính chất điện quan trọng mà không ống nano đa lớp nào có được. Các ống 
nano đơn lớp là ứng cử viên sáng giá trong việc thu nhỏ kích thước sản phẩm 
ngành cơ điện từ cỡ micro hiện nay xuống còn nano. Sản phẩm căn bản của ngành 
này là dây điên, mà SWNT lại dẫn điện rất tốt[3]. Một ứng dụng hữu ích khác của 
SWNT là trong việc phát triển các transitor cảm ứng (FET-field effect transitor) 
nội phân tử. Việc sản xuất cửa luận lý (logic gate) đầu tiên sử dụng FET làm bằng 
SWNT gần đây đã trở thành hiện thực[4]. Bởi vì SWNT trở thành p-FET khi tiếp 
xúc với oxy và n-FET khi không tiếp xúc với oxy, chúng đều có thể bảo vệ một 
nửa SWNT khỏi bị tiếp xúc vói oxy, trong khi cho tiếp xúc với oxy nửa còn lại. 
Kết quả là một SWNT đơn có thể hoạt động như một cửa luận lý NOT với cả loại 
FET n và p trong cùng một phân tử. 
Ống nano đơn lớp vẫn có chi phí sản xuất cao, khoảng $1500 mỗi gam vào năm 
2000, và việc phát triển các phương pháp tổng hợp hiệu quả hơn là rất cần thiết 
cho tương lai của công nghệ nano. Nếu không thể phát hiện các phương pháp tổng 
hợp rẻ hơn, nó sẽ trở thành cản trở về mặt tài chính trên con đường đưa ống nano 
đơn lớp ra ứng dụng trong thực tế.[5] Một vài nhà cung cấp phân phối SWNT arc 
discharge với khoảng $50-100 vào năm 2007.[6][7] 
Đa lớp 
Ống carbon nano đa lớp (MWNT) gồm nhiều lớp than chì(graphite). Có hai mô 
hình được sử dụng để mô tả MWNT. Trong mô hình thứ nhất có tên gọi:Russian 
doll, MWNT gồm nhiều ống SWNT đơn lồng vào nhau. Trong mô hình thứ hai: 
Parchment, MWNT được mô tả như một tấm graphite cuộn lại. Khoảng cách giữa 
các lớp trong MWNT tương đương lớp khoảng cách các lớp graphite trong cấu 
trúc than chì, xấp xỉ 3.4 Å. 
MWNT có đường kính lớn hơn SWNT, và có độ trơ với hóa chất cao hơn. Năm 
2009, nhóm nghiên cứu của giáo sư James Tour ở ĐH Rice dùng KMnO4 trong 
H2SO4 đặc để mở ống MWNT tạo nên Graphene nanoribbon, công trình được 
đăng trên tạp chí nature. MWNT hai lớp được gọi là DWNT, được tổng hợp trên 
quy mô gram vào năm 2003. [8] by the bằng phương pháp CCVD. 
Vòng 
nanobud Cấu trúc của mầm ống carbon nano 
Ống carbon nano vòng được tiên đoán bằng lý thuyết với nhiều tính chất đặc biệt. 
Mầm 
Ống carbon nano mầm và một dạng đặc biệt, kết hợp bởi ống carbon nano và 
fullerene. Trong vật liệu composite, mầm fullerene đóng vai trò như là mỏ neo, 
giúp các ống carbon nano không trượt, giúp tăng cường độ bền của vật liệu. 
Các dạng khác 
Cycloparaphenylene 
Ống carbon nano dài 18.5 cm được báo cáo vào năm 2009, được tổng hợp trên nền 
Silic bằng phương pháp CVD cải tiến. Ống carbon nano ngắn nhất được biết đến 
là phân tử cycloparaphenylene, được tổng hợp vào đầu năm 2009. [9][10][11] Ống 
carbon nano mỏng nhất là loại ghế bành (armchair) (2,2) với đường kính 3Å, được 
tổng hợp trong lòng ống carbon nano đa lớp. Việc xác định loại ống được thực 
hiện bằng kính hiển vi điện tử quét truyền qua độ phân giải cao(HRTEM), máy 
quang phổ raman và lý thuyết mật độ chức năng(DFT).[12] 
 Các ứng dụng khác 
Ống nano cacbon cũng được triển khai trong các hệ thống cơ điện nano, bao gồm 
các thành phần bộ nhớ cơ học (NRAM phát triển bởi Nantero Inc.) và motor điện 
cỡ nano (xem Motor nano). 
Một cách sử dụng khác của ống nano cacbon là phương tiện vận chuyển gene. [13] 
Eikos Inc ở Franklin, Massachusetts và Unidym Inc. ở Silicon Valley, California 
đang phát triển các tấm phim vô hình, dẫn điện làm bằng ống nano cacbon để thay 
cho oxit thiếc indium (ITO). Phim ống nano cacbon khỏe hơn phim ITO rất nhiều, 
làm chúng trở nên lý tưởng cho việc sử dụng trong màn hình cảm ứng và màn hình 
dẻo. Phim ống nano cũng rất hứa hẹn trong việc sử dụng cho màn hình máy tính, 
điện thoại di động, PDA, và ATM. 
Các phần mềm mô phỏng phân tử ống nano cacbon 
 CoNTub v1.0 
 Nanorex 
 Wrapping 
 Nanotube Modeller 
 TubeASP 
 Tubegen 
Mô hình phân tử ống nano cacbon 
Carbon Nanotube Models 
[sửa] Tham khảo 
1. ^  
2. ^ Yildirim, T.; et al. (2000). “Pressure-induced interlinking of carbon 
nanotubes”. Physical Review B 62: 19. 
3. ^ Dekker, et al., (1999) 
4. ^ Derycke, et al., (2001) 
5. ^ Philip G. Collins and Phaedon Avouris (2000), Nanotubes for Electronics 
- Scientific American December 2000, page 67 
6. ^  
7. ^  
8. ^ Flahaut, E.; Bacsa, R; Peigney, A; Laurent, C (2003). “Gram-Scale 
CCVD Synthesis of Double-Walled Carbon Nanotubes”. Chemical 
Communications 12 (12): 1442–1443. doi:10.1039/b301514a. PMID 
12841282. 
9. ^ “A Better Way to Make Nanotubes”. Berkeley Lab. (January 5, 2009). 
10. ^ “Carbon Nanohoops: Shortest Segment of a Carbon Nanotube 
Synthesized”. Berkeley Lab.. 
11. ^ "Synthetic organic chemistry". A centre of chemistry excellence. Nature. 
October 7, 2009. 
of-chemistry-excellence. 
12. ^ Zhao, X.; Liu, Y.; Inoue, S.; Suzuki, T.; Jones, R. O.; Andol, Y. (2004). 
“Smallest Carbon Nanotube is 3 Å in Diameter”. Physical Review Letters 
92 (12): 125502. doi:10.1103/PhysRevLett.92.125502. PMID 15089683. 
13. ^ Singh, Ravi; Et al. (2005). “Binding and condensation of plasmid DNA 
onto functionalized carbon nanotubes : Toward the construction of 
nanotube-based gene delivery vectors”. J. Am. Chem. Soc. 127 (12): 9. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tai_lieu_ong_nano_cacbon.pdf tai_lieu_ong_nano_cacbon.pdf