Tài liệu Quặng đồng

Tổ hợp đồng Sinh Quyền được xây dựng với sự giúp đỡ kỹ thuật của Trung Quốc, đã di

vào hoạt động năm 2006. Các thông số chủ yếu của dự án đồng như sau:

- Địa điểm: Mỏ và xưởng tuyển tại xã Cốc Mì, huyện Bát Xát, Lào Cai. Nhà máy luyện

đồng tại khu vực xã Tà Loỏng, huyện Cam Đường.

- Công nghệ khai thác: lộ thiên kết hợp với hầm lò. Nếu mỏ khai thác với sản lượng 1,0

- 1,5 triệu tấn quặng /năm thì thời gian khai thác là 40 năm, trong đó 16 năm khai thác lộ

thiên và 24 năm khai thác hầm lò.

- Công nghệ tuyển khoáng bao gồm các bước sau: đập nghiền - tuyển nổi lấy tinh quặng

thô - nghiền lại tinh quặng thô - tuyển nổi chọn riêng tinh quặng đồng, tinh quặng pyrit,

tinh quặng đất hiếm. Quặng đuôi cho qua tuyển từ để thu hồi tinh quặng sắt. Công nghệ

khử nước được thực hiện theo hai giai đoạn cô đặc và lọc. Tinh quặng đồng được làm

khô bằng máy lọc sứ.

- Công nghệ luyện kim: áp dụng phương pháp Thuỷ Khẩu Sơn (luyện bể) của Trung

Quốc, thổi luyện sten đồng trong lò để chuyển ra đồng thô rồi tinh luyện bằng điện phân,

xử lý bùn dương cực để thu hồi vàng bạc. Thu hồi khí lò luyện kim có chứa khí SO2 để

sản xuất axit sunfuric.

Nhà máy luyện đồng đặt tại Tằng Loỏng cách mỏ 65km, được trang bị các thiết bị luyện

đồng theo công nghệ mới nhất của Trung Quốc. Mỗi năm nhà máy luyện 420.000 tấn tinhquặng đồng để ra được 10.200 tấn kim loại đồng với hàm lượng 99,95%; 340kg vàng

(99,95%), 113.200 tấn tinh quặng sắt, 145kg bạc và 40.000 tấn sulfuric acid.

Dự án có số vốn đầu tư 987,2 tỉ đồng (trong đó có 40,5 triệu USD vay vốn ưu đãi của

Trung Quốc, thông qua việc mua thiết bị và công nghệ

pdf13 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 453 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Quặng đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quặng đồng Đồng là nguyên liệu quan trọng của công nghiệp. Xét về khối lượng tiêu thụ, đồng xếp hàng thứ ba trong các kim loại, chỉ sau thép và nhôm. Do tính dẫn điện, dẫn nhiệt tốt, độ bền khá cao nên đồng và hợp kim đồng được sử dụng rộng rãi làm dây dẫn điện trong các thiết bị điện công nghiệp và dân dụng. Ngoài ra, đồng và hợp kim đồng còn được sử dụng nhiều trong chế tạo máy, xây dựng, sản xuất điện cực,... Các hợp chất đồng như đồng oxit, đồng sunfat, đồng oxyclorua...vcũng được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như nông nghiệp, đóng tàu, bảo quản gỗ,... Trong thiên nhiên, quặng đồng tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như tinh thể, cục, mẩu, tấm,... Về mặt hóa học, đồng tồn tại phổ biến nhất là ở quặng chứa đồng có gốc sunfua, ngoài ra cũng ở dạng cacbonat hoặc oxit. Những quặng đồng quan trọng nhất là chalcopyrit CuFeS2, bornit Cu3FeS3, chalkosin Cu2S, bournonit 2PbS.Cu2S.Sb2S3, ngoài ra còn một số loại quặng đồng có ý nghĩa kinh tế là: malachit Cu2{(OH)2/CO3)}, azurit 2CuCO3.Cu(OH)3, cuprit Cu2O, chrysocol CuSiO3.2H2O,... Phần lớn quặng đồng trên thế giới chỉ có hàm lượng đồng khoảng 2% nên không thể sử dụng trực tiếp để chế biến mà phải được xử lý làm giàu quặng. I. TIỀM NĂNG QUẶNG ĐỒNG CỦA VIỆT NAM Quặng đồng Việt Nam thuộc vào 4 loại có nguồn gốc hình thành khác nhau là: magma, thuỷ nhiệt, trầm tích, biến chất. Quặng đồng phân tán ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Sơn La, Quảng Ninh, Hà Bắc, Quảng Nam-Đà Nẵng, Lâm Đồng... Các mỏ quặng đồng ở những tỉnh này thường có trữ lượng nhỏ, thành phần khoáng đa dạng, bao gồm nhiều loại như quặng sunfua, cacbonat, nhưng thường gặp là quặng chalcopyrit. Tổng trữ lượng các mỏ đã thăm dò ước đạt khoảng 600.000 tấn đồng. Những vùng tụ khoáng quặng đồng quan trọng ở nước ta là: - Vùng tụ khoáng Sinh Quyền (Lào Cai) - Vùng tụ khoáng Bản Phúc (Sơn La) - Vùng tụ khoáng Vạn Sài (Sơn La) - Điểm quặng Bản Giàng (Sơn La) - Vùng tụ khoáng Suối Nùng (Quảng Ngãi) Ngoài các vùng quặng chính như trên, còn có rất nhiều điểm quặng khác phân bố rải rác ở các tỉnh Thanh Hóa. Lạng Sơn, Lào Cai. Đánh giá tình hình phân bố, trữ lượng và chất lượng quặng đồng tại một số mỏ quặng đồng chính: 1/ Mỏ đồng Sinh Quyền (Lào Cai) nằm ở hữu ngạn Sông Hồng, cách Lào Cai 25 km về phía Tây Bắc. Có thể tiếp cận vùng tụ khoáng này cả bằng đường sắt và đường ôtô rải nhựa từ Hà Nội đến Lào Cai, sau đó đi đường đất đến làng Sinh Quyền. Vào mùa mưa, khi nước sông lên cao, có thể vận chuyển quặng từ mỏ theo đường thuỷ trên Sông Hồng. Khu mỏ Sinh Quyền được đánh giá là vùng quặng hỗn hợp gồm ba thành phần chính là đồng, đất hiếm và vàng. Đồng ở đây chủ yếu là ở dạng sunfua (chalcopyrit). Mỏ đã được phát hiện, tìm kiếm và thăm dò từ những năm 1961-1873, năm 1975 được Hội đồng trữ lượng Nhà nước phê duyệt với trữ lượng 52,7 triệu tấn quặng đồng cấp B+C1+C2, hàm lượng đồng trung bình khoảng 1,03%, tương đương 551,2 nghìn tấn Cu, kèm theo 334 nghìn tấn R2O, 35 tấn Au, 25 tấn Ag, 843 nghìn tấn S. Vùng quặng này có 3 dải chính: dải Lùng Thàng - Pin Ngang Chải ở phía Tây là dải quặng đồng - đất hiếm - molybđen. Dải giữa Sinh Quyền-Nậm Mít là dải quặng chính gồm quặng đồng - đất hiếm. Dải Thùng Sáng-Lũng Pô ở phía Đông gồm các mạch quặng thạch anh - sunfua chứa đồng. Diện tích mỏ không lớn, trữ lượng quặng phân bố tập trung, rất thuận tiện cho việc khai thác, ít ảnh hưởng đến môi trường và đất đai nông lâm nghiệp. Mỏ đồng Sinh Quyền có 17 thân mỏ, trong đó 10 thân quặng sau đây được xếp loại là có giá trị kinh tế, với quy mô và hàm lượng đồng như sau: Thân quặng Chiều dài (m) Chiều rộng (m) Độ dày (m) Hàm lượng đồng (%) 1 2.875 395 7,79 1,16 1a 2.185 408 6,29 1,23 3 2.223 270 4.39 1,19 4 2.129 568 13,94 1,03 5 1.180 314 6,43 0,88 6 1.070 319 3,71 0,68 7 508 344 3,04 00,62 10 1.005 471 9,63 0,71 11 445 555 3,52 0,78 12 330 279 3,67 1,31 Thành phần quặng đã thăm dò như sau: Cu : 0,5 đến 11,58%, trung bình 1,03% Re2O3 : 0,2 đến 9,7%, trung bình 0,63%, chủ yếu là quặng orthit Au : 0,46 đến 0,55 g/tấn Ag : 0,44 đến 0,50 g/tấn Kết quả làm giàu quặng ở mỏ đồng Sinh Quyền cho thấy, bằng phương pháp tuyển nổi có thể đạt độ thu hồi đồng 92,3 - 94,1%, hàm lượng đồng và các thành phần khác được nâng lên như sau: Cu = 18 - 22% S = 31% Au = 11,5 g/tấn tinh quặng Trong các năm 1992 - 1994 công ty Auridian đã thăm dò bổ sung và tính được trữ lượng khoảng 91,5 triệu tấn quặng với hàm lượng Cu = 1,05%, hàm lượng Au = 0,5 g/tấn, ngoài ra còn có đất hiếm, Mo, Co, Ag. 2/ Mỏ đồng Bản Phúc là vùng tụ khoáng đồng - niken dạng sunfua lớn nhất nước ta, nằm ở khu vực Tà Khoa, tỉnh Sơn La. Vùng này đã được thăm dò từ những năm 1959- 1963. Các thân quặng nằm ở độ cao 100 - 520 m trên mực nước biển. Có thể tiếp cận vùng quặng này bằng đường số 6 từ Hà Nội qua Yên Bái đến Tà Khoa (khoảng 340 km). Quặng có thể được vận chuyển bằng tàu thuyền theo Sông Đà, từ Tà Khoa qua đập thuỷ điện Hoà Bình đến Hải Phòng (khoảng 400 km). Khối núi quặng Bản Phúc là một trong những khối núi quặng hình elip lớn nhất, dài 940 m, rộng 440 m, có tổng diện tích 0,248 km2. Các nghiên cứu địa chất cho thấy, thân quặng chính của mỏ Bản Phúc gồm chủ yếu là pyrhotit, pentlandit và chalcopyrit, với thành phần quặng như sau : Cu : 0,75 - 1,63% Ni : 0,49 - 4,78% S : 24,98% Co : 0,02 - 0,20% Se : 0,004% Quặng phân tán rải rác xung quanh thân quặng chính, ngoài đồng còn chứa các khoáng với thành phần Fe, Zn, Pb, Co, Ni,... như sau: pyrit, sphalerit, galen, nicolit, skuterudit, ramebergit, violarite, thạch anh,... Thành phần của loại quặng này bao gồm: Cu : 0,75% Ni : 0,49% Co : 0,02% Se : 0,005% Te : 0,0001% Pt : 0 - 0,05 g/tấn Tổng trữ lượng vùng tụ khoáng Bản Phúc ước đạt 3 triệu tấn quặng, với trữ lượng kim loại trong quặng khoảng 200.000 tấn Ni-Cu. Trữ lượng đã khảo sát và chứng minh được là : 115.000 tấn Ni, 41.000 tấn Cu, 161.000 tấn lưu huỳnh, 3.400 tấn Co, 14 tấn Te , 67 tấn Se. 3/ Vùng tụ khoáng Vạn Sài thuộc Sơn La, trữ lượng ước tính khoảng 811 tấn, hàm lượng Cu đạt 1,53%. 4/ Hai điểm quặng Hồng Thu và Quang Tân Trai thuộc tỉnh Lai Châu, đã được khai thác từ thời xa xưa. từ những năm 1990 trở lại đây, dân địa phương vẫn khai thác tự do để lấy quặng đồng chất lượng cao. Quặng đồng ở đây có thành phần như sau: Cu = 23 - 74% Fe = 2 - 15% Ag = 20 - 180 g/tấn Ge = 1 - 75 g/tấn 5/ Điểm quặng Bản Giàng thuộc Sơn La có quặng đồng tự sinh. Thành phần quặng như sau: Cu = 86-98% Au = 0,4 g/tấn Ag = 10 g/tấn 6/ Vùng tụ khoáng đồng Suối Nùng thuộc tỉnh Quảng Ngãi mới được phát hiện. Thành phần khoáng vật chủ yếu là chalcopyrit với hàm lượng Cu đạt 1,04%, ngoài ra còn có bạc, vàng, arsen, thiếc, vonfram. Ước tính, trữ lượng đồng khu vực này có thể lên đến vài trăm ngàn tấn. Ngoài các vùng quặng chính như trên, còn có rất nhiều điểm quặng khác phân bố rải rác ở các tỉnh Thanh Hóa, Lạng Sơn, Lào Cai. II. THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ CHẾ BIẾN ĐỒNG 1. Công nghệ chế biến quặng đồng Trên thế giới hiện có hai xu hướng kinh điển trong chế biến quặng đồng, đó là: - Hoả luyện: Nung oxi hóa quặng đồng để chuyển thành CuO, sau đó đem khử thành đồng kim loại và tinh chế bằng điện phân. - Thủy luyện: Nung oxi hóa quặng đồng để chuyển thành CuO, sau đó hoà tan CuO bằng axit để thu được dung dịch muối đồng, tiếp theo là tinh chế dung dịch này và tách đồng bằng phương pháp điện phân. Xu hướng hiện đại là tách đồng bằng quy trình ngâm chiết vi sinh vật (sử dụng vi khuẩn Thiobacillus ferrooxidans), sau đó kết tủa đồng bằng điện phân. Quy trình này đã được nhà sản xuất đồng lớn nhất thế giới là công ty Codeco (Chi Lê) áp dụng có hiệu quả đối với quặng chalcopyrit. Phương pháp ngâm chiết sinh học thường được thực hiện tại các nước có nền khoa học công nghiệp cao, cho phép tận thu đồng từ quặng nghèo, ít gây hại đến môi trường. 2. Tình hình khai thác và sản xuất tại Việt Nam Hiện nay, các mỏ trữ lượng nhỏ dạng khoáng cacbonat đã được các địa phương khai thác và chế biến theo phương pháp thủ công, đơn giản. Sản phẩm là các loại muối đồng phục vụ trực tiếp cho ngành nông nghiệp. 1/ Mỏ đồng Sinh Quyền Trước đây, mỏ đồng Sinh Quyền Xí nghiệp liên doanh giữa công ty kim loại màu Thái Nguyên và công ty khoáng sản Lào Cai khai thác quặng và tuyển thành tinh quặng đồng có hàm lượng 18-20% Cu nhằm mục đích xuất khẩu. Xí nghiệp liên doanh được nhà nước cho phép khai thác một khối lượng quặng nguyên sinh là 615.000 tấn, tương ứng 9.796 tấn đồng kim loại, chiếm khoảng 1,8% trữ lượng toàn mỏ. Xí nghiệp liên doanh này được xây dựng năm 1982, năm 1994 bắt đầu đi vào hoạt động. Mỗi năm Xí nghiệp sản xuất khoảng 3.200 tấn tinh quặng với hàm lượng trung bình 18% Cu. Do xí nghiệp liên doanh có quy mô nhỏ, thiết bị nhỏ lẻ nên khó đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng. Vì vậy, cuối năm 2000 chính phủ đã có quyết định thực hiện dự án đầu tư tổ hợp đồng Sinh Quyền. Sáng 17-9-2003 tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Tổng công ty Khoáng sản VN đã khởi công xây dựng dự án tổ hợp đồng Sin Quyền, dự án kim loại màu lớn nhất nước ta từ trước đến nay. Mỏ đồng Sin Quyền được phát hiện năm 1961. Theo kết quả khảo sát, thăm dò trữ lượng quặng đồng tại mỏ là trên 50 triệu tấn, đủ khai thác trong vòng 50 năm. Tổ hợp đồng Sinh Quyền được xây dựng với sự giúp đỡ kỹ thuật của Trung Quốc, đã di vào hoạt động năm 2006. Các thông số chủ yếu của dự án đồng như sau: - Địa điểm: Mỏ và xưởng tuyển tại xã Cốc Mì, huyện Bát Xát, Lào Cai. Nhà máy luyện đồng tại khu vực xã Tà Loỏng, huyện Cam Đường. - Công nghệ khai thác: lộ thiên kết hợp với hầm lò. Nếu mỏ khai thác với sản lượng 1,0 - 1,5 triệu tấn quặng /năm thì thời gian khai thác là 40 năm, trong đó 16 năm khai thác lộ thiên và 24 năm khai thác hầm lò. - Công nghệ tuyển khoáng bao gồm các bước sau: đập nghiền - tuyển nổi lấy tinh quặng thô - nghiền lại tinh quặng thô - tuyển nổi chọn riêng tinh quặng đồng, tinh quặng pyrit, tinh quặng đất hiếm. Quặng đuôi cho qua tuyển từ để thu hồi tinh quặng sắt. Công nghệ khử nước được thực hiện theo hai giai đoạn cô đặc và lọc. Tinh quặng đồng được làm khô bằng máy lọc sứ. - Công nghệ luyện kim: áp dụng phương pháp Thuỷ Khẩu Sơn (luyện bể) của Trung Quốc, thổi luyện sten đồng trong lò để chuyển ra đồng thô rồi tinh luyện bằng điện phân, xử lý bùn dương cực để thu hồi vàng bạc. Thu hồi khí lò luyện kim có chứa khí SO2 để sản xuất axit sunfuric. Nhà máy luyện đồng đặt tại Tằng Loỏng cách mỏ 65km, được trang bị các thiết bị luyện đồng theo công nghệ mới nhất của Trung Quốc. Mỗi năm nhà máy luyện 420.000 tấn tinh quặng đồng để ra được 10.200 tấn kim loại đồng với hàm lượng 99,95%; 340kg vàng (99,95%), 113.200 tấn tinh quặng sắt, 145kg bạc và 40.000 tấn sulfuric acid. Dự án có số vốn đầu tư 987,2 tỉ đồng (trong đó có 40,5 triệu USD vay vốn ưu đãi của Trung Quốc, thông qua việc mua thiết bị và công nghệ - Sản lượng: - Sản lượng khai thác của tổ hợp đồng Sinh Quyền dự kiến là 1,0 đến 1,2 triệu tấn quặng nguyên khai. - Sản lượng hàng năm của nhà máy tuyển dự kiến sẽ là: + Tinh quặng đồng 25,6% Cu: 42.900 tấn + Tinh quặng pyrit 40% S: 17.600 tấn + Tinh quặng manhêtit 65% Fe: 89.300 tấn + Tinh quặng đất hiếm 60% ReO: 2740 tấn - Sản lượng hàng năm của nhà máy luyện kim dự kiến là: + Đồng điện phân 99,95%: 10.571 tấn + Vàng thỏi 99,95% Au: 367 kg + Bạc thỏi 99,95% Ag: 206 kg + Axit sunfuric 98%: 39.943 tấn 2/ Mỏ đồng Bản Phúc Mỏ Bản Phúc có trữ lượng đồng chỉ bằng 1/10 so với mỏ Sinh Quyền. Tại đây, có thể cân đối đầu tư nhà máy khai thác-tuyển để sản xuất tinh quặng đồng đạt hàm lượng 25% Cu, với công suất tuyển quặng nguyên khai khoảng 150.000 tấn /năm, tương đương 6.000 tấn tinh quặng đồng /năm. Cuối năm 2002, Quốc hội và Chính phủ đã xem xét phê duyệt dự án thuỷ điện Sơn La. Nếu dự án thủy điện Sơn La được hoàn thành (theo kế hoạch vào năm 2006) thì tại mỏ đồng Bản Phúc có thể xây dựng nhà máy luyện đồng với công suất khoảng 1.000 tấn /năm. 3. Vấn đề quặng thải và sản phẩm đi kèm Trong các sản phẩm của nhà máy tuyển quặng đồng, một số sản phẩm đi kèm như tinh quặng pyrit, tinh quặng sắt và tinh quặng đất hiếm hiện còn khó khăn về đầu ra: tiêu thụ trong nước tương đối khó, còn thị trường xuất khẩu chưa có. Nhưng nếu không tận dụng các loại tinh quặng này thì hiệu quả kinh tế của dự án có thể giảm. Vì vậy, có những ý kiến cho rằng nên có phương án tạm trữ số tinh quặng pyrit và tinh quặng sắt cho đến khi đạt khối lượng đủ lớn thì sẽ tận dụng để sản xuất gang thép và axit sunfuric. Hiện tại có một vài phương án tận dụng quặng thải quy mô nhỏ. Ví dụ, năm 1999, Viện khoa học công nghệ mỏ đã nghiên cứu phát triển dây chuyền sản xuất bột manhêtit siêu mịn làm chất tạo huyền phù tuyển than, sử dụng quặng thải đồng Sinh Quyền. Trong những năm qua, dây chuyền trên đã sản xuất được hàng trăm tấn quặng manhêtit siêu mịn từ quặng thải đồng Sinh Quyền, chủ động cung cấp cho hai nhà máy tuyển than Hòn Gai và Cửa Ông, chất lượng tương đương manhêtit nhập từ CHLB Nga, giá thành thấp. Trên thực tế, manhêtit siêu mịn sản xuất từ nguồn quặng Sinh Quyền còn có ưu điểm hơn manhêtit nhập từ Nga, vì hàm lượng quặng có từ tính hơn 400 Gaus đạt trên 93%, do đó giảm đáng kể tổn thất manhêtit khi sử dụng làm chất tạo huyền phù tuyển than. 4. Vấn đề thuốc tuyển Trong quá trình tuyển quặng đồng bằng phương pháp tuyển nổi, các mỏ đồng như Sinh Quyền, Bản Phúc sẽ cần tới hàng trăm tấn thuốc tuyển / năm, vì vậy cần đặt vấn đề tự nghiên cứu sản xuất thuốc tuyển thay thế cho sản phẩm nhập khẩu. III. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG Các sản phẩm chính thu được từ chế biến quặng đồng bao gồm: CuSO4.5H2O, Cu2O, bột Cu, oxyclorua đồng, đồng thô, đồng điện phân (đồng đỏ). Hiện nay, Việt Nam chưa có công nghiệp luyện đồng nên vẫn phải nhập đồng kim loại. Nhu cầu về đồng trong nước hiện nay khoảng hơn 10.000 tấn, trong đó chủ yếu là đồng dạng kim loại sử dụng trong công nghiệp điện và thiết bị điện. Riêng nhà máy cán kéo đồng CFT (liên doanh của công ty CADIVI với Nhật Bản) đã có công suất 50.000 tấn /năm. Như vậy, nếu tổ hợp đồng Sinh Quyền với công suất dự kiến 10.000 tấn đồng điện phân/ năm đi vào hoạt động thì cũng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Ngoài ra, ngành bảo vệ thực vật có nhu cầu hàng năm trên 200 tấn oxyclorua đồng. Ngành công nghiệp tàu biển sử dụng khoảng 30 tấn đồng (I) oxyt /năm. Giá các sản phẩm này đều cao, khoảng 1900-2000 USD/tấn. Theo mức độ công nghiệp hóa đất nước, nhu cầu về đồng của nước ta sẽ ngày càng tăng. Dự báo, đến năm 2005 nhu cầu đồng trong nước sẽ là 15.000 tấn/năm, và đến năm 2020 nhu cầu sẽ tăng lên đến 35.000 - 40.000 tấn / năm. Các nước trong khu vực lân cận với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ đều thiếu đồng và tinh quặng đồng từ 500.000 tấn đến 700.000 tấn/năm. Mỗi năm, Trung Quốc nhập khoảng 375.000 tấn tinh quặng đồng, 1,69 triệu tấn đồng vụn. Mức tiêu thụ đồng theo đầu người hàng năm ở Trung Quốc là 1,1 kg, còn ở các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ thì mức tiêu thụ khoảng 10 kg. Hiện nay, sản phẩm đồng của ta khó cạnh tranh được với sản phẩm nhập ngoại vì giá thành sản xuất cao hơn giá nhập. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đồng là kim loại màu được sử dụng rất rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân vì vậy việc chế biến khoáng đồng để thu được các sản phẩm của đồng là rất cần thiết. Quặng đồng nước ta chủ yếu ở dạng hợp chất với lưu huỳnh, khi chế biến quặng đồng thường kèm theo sự thải khí SO2. Vì vậy, khi có một dây chuyền chế biến quặng đồng thì nên xây dựng đồng thời dây chuyền sản xuất axit sunfuric. Ngoài ra, khi khai thác và chế biến quặng đồng ở nước ta, thường thu được một số kim loại quý đi kèm như vàng, bạc, gecmani, kim loại đất hiếm,... Vì vậy, chúng ta cần đầu tư nghiên cứu quặng đồng trong nước một cách kỹ lưỡng và toàn diện để làm cơ sở đề xuất công nghệ, xây dựng tiền đề cho các bước tiếp theo là triển khai công nghệ chế biến quặng đồng và tận thu các tài nguyên khác một cách tối ưu. Việc nghiên cứu sử dụng quặng đồng chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho đất nước, vì đồng là kim loại màu được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế. Nhu cầu về đồng ngày càng tăng trong khi nguồn tài nguyên này trên toàn thế giới tương đối ít và ngày càng giảm. Việc chưa chế biến được thành sản phẩm mà đi vào khai thác quặng để xuất khẩu là hướng đi chưa đúng, đó chỉ là giải pháp tình thế mang lại hiệu quả kinh tế ngắn hạn. Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế, nước ta đang phải sử dụng ngày càng nhiều ngoại tệ để nhập khẩu các sản phẩm đồng với số lượng ngày càng lớn. Nhà nước nên đầu tư hoặc hợp tác đầu tư với nước ngoài để có được công nghệ tiên tiến cho sản xuất các sản phẩm từ quặng đồng, tiến tới cung cấp các sản phẩm đồng đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm dần tình trạng xuất khẩu nguyên liệu và nhập khẩu sản phẩm như hiện nay. Ngay cả khi quyết định hợp tác đầu tư với nước ngoài thì cũng cần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ trình độ để tiếp nhận công nghệ. Về mặt nghiên cứu sử dụng khoáng chalcopyrit, điều cần phải quan tâm hàng đầu là nghiên cứu giai đoạn nung phân hủy khoáng sao cho đạt hiệu suất phân hủy triệt để hàm lượng lưu huỳnh có trong khoáng. Muốn làm việc đó cần nghiên cứu khảo sát chọn cho được phụ gia thích hợp, có tác dụng phá vỡ mạng lưới kết cấu của khoáng, và nghiên cứu xử lý khí SO2ư hình thành trong quá trình phân hủy khoáng. Về mặt nguyên liệu và hóa chất phụ trợ để sản xuất các sản phẩm đồng, có thể nói hầu hết những nguyên liệu và hóa chất phục vụ cho quá trình chế biến khoáng đồng chalcopyrit Việt Nam, ví dụ các chất phụ gia, các loại axit,... chúng ta đều sẵn có và không phải nhập ngoại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_quang_dong.pdf