Một yêu cầu chính đối với WLAN là khảnǎng giám sát vịtrí của nút di động và thiết bịxách tay.
Thiết bịxách tay di chuyển từvịtrí này sang vịtrí khác nhưng chỉsửdụng tại một vùng cố định.
Các nút di động thực sựtruy nhập LAN khi đang di chuyển. Khảnǎng di động của người dùng
đòi hỏi một chức nǎng chuyển vùng sao cho chức nǎng này cho phép nút di động dịch chuyển
giữa các vịtrí vật lý khác nhau trong môi trường LAN mà không bịmất kết nối. Đểcó chuyển
vùng liên tục mỗi vịtrí này được một điểm truy nhập phục vụvà các vùng phủsóng của điểm
truy nhập phải chồng lấn lên nhau. Một nút di động sẽkiểm tra tỷlệtín hiệu trên tạp âm (SNR)
khi nó di chuyển và khi cần nó quét các điểm truy nhập có thểsửdụng và sau đó tự động kết nối
tới điểm truy nhập mong muốn đểduy trì truy nhập mạng liên tục (hình 6). Khi SNR giảm xuống
dưới mức ngưỡng đã được xác định trước thì nút sẽtìm kiếm một điểm truy nhập gần đó với
SNR tốt hơn.
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1752 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu tham khảo về hệ thống mạng LAN cho lớp basic Network Management, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng vô tuyến để truyền dữ liệu. Tuy nhiên khác với
các card biến đổi thích ứng các card này không cần bất kỳ dây cáp nào nối chúng tới mạng và cho
phép đặt lại vị trí các nút mạng mà không cần thay đổi cáp mạng hoặc thay đổi các kết nối tới các
hub.
2.2 Các điểm truy nhập vô tuyến
Các điểm truy nhập tạo ra các vùng phủ sóng, các vùng này nối các nút di động tới cơ sở hạ tầng
LAN hữu tuyến. Nó làm cho WLAN biến thành một phần mở rộng của mạng hữu tuyến. Vì các
điểm truy nhập cho phép mở rộng vùng phủ sóng nên các WLAN rất ổn định và các điểm truy
nhập bổ xung có thể triển khai trong cả một toà nhà hay một khu trường đại học để tạo ra các
vùng truy nhập vô tuyến rộng lớn. Các điểm truy nhập này không chỉ cung cấp trao đổi thông tin
với các mạng nối dây mà còn lọc lưu lượng và thực hiện các chức nǎng cầu nối tiêu chuẩn. Do
bǎng thông ghép đôi không đối xứng giữa thông tin vô tuyến và hữu tuyến nên cần một điểm truy
nhập có bộ đệm thích hợp và các tài nguyên của bộ nhớ. Các bộ đệm cũng chủ yếu dùng để lưu
các gói dữ liệu ở điểm truy nhập khi một nút di động cố gắng di chuyển khỏi vùng phủ sóng hoặc
khi một nút di động hoạt động ở chế độ công suất thấp. Các điểm truy nhập trao đổi với nhau qua
mạng hữu tuyến để quản lý các nút di động. Một điểm truy nhập không cần điều khiển truy nhập
từ nhiều nút di động (có nghĩa nó có thể hoạt động với một giao thức truy nhập ngẫu nhiên phân
tán như là CSMA. Tuy nhiên một giao thức đa truy nhập tập trung được điều khiển bởi một điểm
truy nhập có nhiều thuận lợi. Các lựa chọn giao diện mạng hữu tuyến chung tới điểm truy nhập
gồm có 10Base2, 10BaseT, modem cáp và modem ADSL, ISDN.
2.3 Cầu nối vô tuyến từ xa
Các cầu vô tuyến từ xa tương tự như các điểm truy nhập trừ trường hợp chúng được sử dụng cho
các kênh bên ngoài. Tuỳ theo khoảng cách và vùng hoạt động mà có thể cần tới các ǎng ten
ngoài. Các cầu này được thiết kế để kết nối các mạng với nhau, đặc biệt trong các toà nhà và xa
hàng chục ki lô mét. Chúng cung cấp một lựa chọn nhanh chóng và rẻ tiền so với lắp đặt cáp hoặc
đường điện thoại thuê riêng, và thường được sử dụng khi các kết nối hữu tuyến truyền thống khó
thực hiện trong thực tế (ví dụ qua các sông, vướng địa hình, các khu vực riêng, đường cao tốc).
3. Cấu trúc giao thức WLAN
WLAN khác với mạng hữu tuyến truyền thống chủ yếu ở lớp vật lý và ở lớp điều khiển truy nhập
môi trường (MAC) của mô hình tham chiếu liên kết hệ thống mở (OSI). Những phần khác nhau
này đưa ra hai phương thức tiếp cận trong cung cấp điểm giao diện vật lý cho các WLAN. Nếu
điểm giao diện vật lý là ở lớp điều khiển kênh logic (LLC) thì phương pháp tiếp cận này đòi hỏi
các bộ điều khiển của khách hàng phải cung cấp phần mềm mức cao hơn như là hệ điều hành
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
mạng. Một giao diện như vậy cho phép các nút di động trao đổi thông tin trực tiếp với nhau thông
qua các card giao diện mạng vô tuyến. Điểm giao diện logic khác là ở lớp MAC và thường áp
dụng điểm truy nhập. Vì vậy các điểm truy nhập thực hiện cầu nối và không thực hiện định
tuyến. Mặc dù giao diện MAC yêu cầu một kết nối hữu tuyến nhưng nó cho phép bất kỳ hệ điều
hành mạng nào hoặc bộ điều khiển bất kỳ làm việc với WLAN. Một giao diện như vậy cho phép
một LAN hữu tuyến đang có mở rộng dễ dàng nhờ cung cấp truy nhập cho thiết bị mạng vô tuyến
mới. Cấu trúc giao thức của các giao diện mạng WLAN điển hình được chỉ ra trong hình 1.
Các lớp thấp hơn của card giao diện vô tuyến thường được thực hiện bởi phần sụn "Firmware" và
chạy trên các bộ xử lý nhúng. Các lớp cao hơn của ngǎn xếp giao thức mạng do hệ điều hành và
các chương trình ứng dụng cung cấp. Một bộ điều khiển mạng cho phép hệ điều hành trao đổi
thông tin với phần firmware lớp thấp hơn được nhúng trong card giao diện mạng vô tuyến. Ngoài
ra nó thực hiện các chức nǎng LLC tiêu chuẩn. Đối với hệ điều hành Windows bộ điều khiển
thường tuân thủ một số phiên bản của chỉ tiêu kỹ thuật bộ điều khiển mạng (NDIS). Các bộ điều
khiển dựa trên Unix, Linux và Apple Powerbook cũng có thể sử dụng được.
Hình 1. Cấu trúc giao thức của các thành phần WLAN
4. Các cấu hình WLAN
WLAN thường có hai kiểu cấu hình mạng. Đó là cấu hình độc lập hay cấu hình cơ sở như mô tả
trong hình 2. Cấu hình độc lập cung cấp kết nối đồng mức, trong đó các nút di động trao đổi
thông tin trực tiếp với nhau thông qua các bộ biến đổi vô tuyến. Các cấu hình như vậy là lý tưởng
trong các hội nghị thương mại hoặc trong thiết lập các nhóm làm việc tạm thời. Tuy nhiên chúng
có thể có những nhược điểm về vùng phủ sóng bị giới hạn. Một điểm truy nhập có thể mở rộng
khoảng cách giữa hai WLAN độc lập khi nó hoạt động như một bộ lặp làm tǎng 2 lần cự ly giữa
các nút di động.
Hình 2. Cấu hình WLAN
Các WLAN cơ sở cho phép các nút di động được nối vào mạng hữu tuyến (hình 2b). Chuyển
dịch từ thông tin vô tuyến sang thông tin hữu tuyến thông qua một điểm truy nhập. Việc thiết kế
WLAN có thể tương đối đơn giản nếu như thông tin về mạng và việc quản lý nó cùng nằm trong
một vùng. Một điểm truy nhập nằm ở trung tâm có thể điều khiển và phân phối truy nhập cho các
nút tranh chấp, cung cấp truy nhập phù hợp với mạng đường trục, ấn định các địa chỉ và các mức
ưu tiên, giám sát lưu lượng mạng, quản lý chuyển đi các gói và duy trì theo dõi cấu hình mạng.
Tuy nhiên một giao thức đa truy nhập tập trung không cho phép một nút truyền trực tiếp tới nút
khác và nằm trong cùng vùng với điểm truy nhập (hình 2b). Trong trường hợp này mỗi gói sẽ
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
phải được phát đi 2 lần (từ nút gốc và sau đó là điểm truy nhập) trước khi nó tới nút đích, quá
trình này sẽ làm giảm hiệu quả truyền dẫn và tǎng trễ truyền dẫn.
Ngoài ra một điểm truy nhập nằm ở vị trí mang tính chiến lược có thể giảm tối thiểu được công
suất phát và giải quyết được các vấn đề của nút ẩn (hidden node) một cách hiệu quả. Vì một số
WLAN sử dụng các giao thức đa truy nhập phân tán như CSMA nên có thể các nút trong mạng
cơ sở có thể trao đổi trực tiếp với nhau (hình 3).
Tuy nhiên một số WLAN cơ sở yêu cầu chỉ truyền gói tới điểm truy nhập ngay cả khi CSMA
được sử dụng. Sau đó điểm truy nhập sẽ chuyển tiếp các gói tới đúng địa chỉ đích.
5. Các vấn đề liên quan khi sử dụng WLAN
Đó là các vấn đề về nút ẩn, theo dõi công suất, các nguồn nhiễu vô tuyến và các cản trở truyền
lan tín hiệu. Hầu hết các vấn đề này gắn liền với các LAN vô tuyến.
5.1 Nút ẩn
Một khó khǎn do sự dao động lớn của công suất tín hiệu trong WLAN là sự tồn tại các nút ẩn
(không có vị trí) mà một số nút này nằm trong vùng các bộ thu nhưng không phát.
Ví dụ trong hình 3a các nút A và C nằm trong khoảng thu của nút B. Nhưng nút A và C không
nằm trong khoảng làm việc của nhau. Nếu các nút A và C cùng đồng thời phát đến nút B thì nút
B sẽ chịu một xung đột và sẽ không thể nhận được bất kỳ một truyền dẫn nào. Cả hai A và C sẽ
không biết về va chạm này. Cảm ứng sóng mang được đáp lại không hiệu quả trong tình huống
nút ẩn này vì một nút nguồn ngǎn chặn các nút khác trong vùng lân cận của nó nhiều hơn là trong
vùng của nút đích. Do đó làm giảm chất lượng của các giao thức cảm ứng sóng mang bởi vì
khoảng thời gian của các va chạm không được bảo vệ kéo dài toàn bộ độ dài gói dữ liệu. Với cảm
ứng sóng mang thông thường giai đoạn không được bảo vệ ngắn hơn rất nhiều, thông thường
trong khoảng một vài bit đầu tiên của gói dữ liệu.
Các nút ẩn sẽ không phải là vấn đề trở ngại nếu như các vùng phủ sóng vô tuyến được cách ly tốt.
Bởi vì các va chạm thường ít xảy ra trong các hệ thống trải phổ hơn là trong hệ thống bǎng hẹp
nên sự tồn tại các nút ẩn không thể gây ra nhiều trở ngại cho các WLAN DSSS và FHSS. Ngược
lại các nút ẩn có thể có lợi cho cả hai hệ thống vì khi không sử dụng cảm ứng sóng mang truyền
dẫn đa gói bằng các phiên bản dịch thời gian khác nhau của một mã giả nhiễu hoặc nhảy tần có
thể được sử dụng.
Hình 3. Nút ẩn trong WLAN
Trong hình 3b chỉ ra các va chạm nút ẩn có thể xảy ra như thế nào trong WLAN cơ sở. Trong
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
trường hợp này điểm truy nhập chịu một va chạm do chồng lấn truyền dẫn từ 2 nút D và E. Một
vấn đề lớn ở đây là nút D và E không thể trao đổi thông tin khi điểm truy nhập không định cấu
hình như là một bộ lặp để chuyển tiếp truyền dẫn các gói thông tin giữa các nút trong vùng phủ
sóng. Một giao thức đa truy nhập tập trung (do điểm truy nhập điều phối) giải quyết được vấn đề
nút ẩn cho các LAN cơ sở. Các nút không thể phát đi nếu điểm truy nhập không đưa ra các lệnh
cho phép rõ ràng. Tuy nhiên một va chạm giao thức vẫn có thể xảy ra khi 2 điểm truy nhập lân
cận phát đồng thời tới một nút trong vùng chồng lấn. Tình huống này có thể được giảm xuống
nếu như các điểm truy nhập lân cận điều phối truyền dẫn thông qua mạng hữu tuyến hay hoạt
động thông qua các kênh tần số không chống lấn.
5.2 Theo dõi công suất
Do các thay đổi lớn về suy giảm tín hiệu nên cần có khả nǎng theo dõi công suất. Khả nǎng này
cho phép bộ thu vô tuyến tách thành công các tín hiệu có cường độ lớn hơn ngay cả khi có nhiều
nút phát cùng một thời gian. Đó là do các bộ thu có thể dò bám theo tín hiệu mạnh nhất nếu như
công suất của tín hiệu mạnh nhất tiếp theo giảm xuống 1,5 đến 3 dB. Khoảng cách là một yếu tố
chính quyết định công suất tín hiệu nhận được.
Giả thuyết hai nút A và C đang thử trao đổi thông tin với nút B. Cả hai nút nằm trong khoảng phủ
sóng của nút B. Tuy nhiên vì nút A gần nút B hơn nên tín hiệu thu được từ nút A có thể lớn hơn
rất nhiều so với công suất tín hiệu thu được từ nút C nếu như cả 2 nút cùng phát chồng lấn. Do
vậy làm tǎng thêm vấn đề về cân bằng bởi vì nút xa nhất luôn luôn bị đối xử phân biệt và có khả
nǎng nút C không bao giờ có thể trao đổi thông tin với nút B. Nói cách khác hiệu quả của theo
dõi có thể giúp cho giảm xác suất xung đột (bao gồm cả các va chạm nút ẩn) và nhờ vậy tǎng
được chất lượng mạng của WLAN.
Trong các hệ thống trải phổ, quá trình theo dõi giúp cho bộ thu giải mã thành công một gói với
mã giả ngẫu nhiên hoặc mẫu nhảy tần cho dù có nhiều tín hiệu chồng lấn đồng thời với cùng mã
hoặc cũng mẫu nhảy tần. Nói chung theo dõi công suất không xảy ra trong các hệ thống FHSS
nếu có nhiều nút phát không sử dụng chung một mã nhảy tần và các kênh tần số không được
đồng bộ đồng thời. Tuy nhiên hầu hết các WLAN hoạt động với một mã nhảy tần chung và các
kênh tần số được đồng bộ. Đối với hệ thống DSSS CDMA điều khiển công suất trở nên cấp thiết
hơn vì truyền dẫn nhiều người dùng thường chống lấn. Tiêu chuẩn IEEE 802.11 bắt buộc sử dụng
điều khiển công suất đối với cả hai truyền dẫn DSSS và FHSS với mức công suất nhỏ hơn 100
mW. Mặc dù điều khiển như vậy cho phép sử dụng nguồn hiệu quả nhưng khó có thể duy trì
được trong môi trường fading và di động cao.
5.3 Các nguồn nhiễu vô tuyến
Đối với các WLAN hoạt động ở bǎng tần vô tuyến 2,4 GHz các lò vi sóng có thể là một nguồn
nhiễu quan trọng. Các lò vi sóng công suất lên tới 750W với 150 xung trên giây và có bán kính
bức xạ hoạt động khoảng 10 m. Như vậy đối với tốc độ dữ liệu 2 Mbit/s độ dài gói lớn nhất phải
nhỏ hơn 20.000 bit hoặc 2.500 octet. Bức xạ phát ra quét từ 2,4 GHz đến 2,45 GHz và giữ ổn
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
định theo chu kỳ ngắn ở tần số 2,45 GHz. Cho dù các khối bị chắn thì phần lớn nǎng lượng vẫn
có thể gây nhiễu tới truyền dẫn WLAN. Các nguồn nhiễu khác trong bǎng tần 2,4 GHz gồm máy
photocopy, các thiết bị chống trộm, các mô tơ thang máy và các thiết bị y tế.
5.4 Các vật cản lan truyền tín hiệu
Đối với các tín hiệu vô tuyến, các tín hiệu có thể truyền được bao xa phụ thuộc rất nhiều vào các
vật liệu xây dựng của tường, vách ngǎn và các vật thể khác (bảng 1).
Bảng 1. Các vật cản truyền lan vô tuyến và các ảnh hưởng của chúng
6. Các phương pháp nâng cao chất lượng WLAN
Phần này sẽ điểm qua một số phương pháp để nâng cao chất lượng WLAN. Đặc biệt đề cập tới
các kỹ thuật như tǎng dung lượng mạng bằng các kênh đa tần số, mở rộng vùng phủ sóng bằng
giảm tốc độ dữ liệu, lọc lưu lượng dư thừa, cung cấp khả nǎng di động thông qua chuyển vùng,
cải thiện tắc nghẽn mạng nhờ cân bằng tải và bảo đảm an toàn truy nhập mạng.
6.1 Xây dựng cấu hình đa kênh
Hình 4. Hoạt động đa kênh
Các cấu hình đa kênh có thể chứng tỏ rất hữu hiệu trong các môi trường có tập trung các nút vô
tuyến cao hoạt động trong cùng một vùng phụ cận. Nếu một vùng phủ sóng nào đó của WLAN
có nhiều nút hơn và cần bǎng thông bổ sung thì một điểm truy nhập thứ hai hoạt động ở tần số
khác sẽ được thêm vào, nhờ vậy sẽ gấp đôi được bǎng thông khả dụng. Hoạt động đa kênh cũng
cho phép các điểm truy nhập phục vụ nút có nhu cầu tốc độ cao và chỉ có thể áp dụng cho các
LAN vô tuyến. Nhờ xây dựng cấu hình các điểm truy nhập khác nhau với các kênh tần số khác
nhau mà các truyền dẫn trong 1 vùng phủ sóng vô tuyến được cách ly với nhau. Như vậy sẽ giảm
được nhiễu qua lại và tần suất trì hoãn thông tin của các nút. Đối với một hệ thống dùng một
kênh duy nhất các nút trong vùng bóng (hình 4) phân chia môi trường chung. Có nghĩa nếu một
nút trong vùng phát thì tất cả các nút khác bị trì hoãn lại. Nhờ ấn định mỗi điểm truy nhập một
kênh khác nhau nên tắc nghẽn trong vùng được giảm xuống do dàn tải lưu lượng ra cho 2 điểm
truy nhập. Các mạng độc lập không hỗ trợ hoạt động đa kênh.
Hoạt động đa kênh cũng có thể được áp dụng cho cầu vô tuyến (hình 5). Khi một kênh tần số
khác được dùng cho cầu thì nó sẽ không gây nhiễu lên hoạt động của điểm truy nhập thông
thường. Nhờ vậy cho phép mở rộng khoảng cách mà không cần đường trục hữu tuyến. Một số
WLAN cần một điểm truy nhập để làm cầu nối vô tuyến trong khi các WLAN khác cần các ǎng
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
ten ngoài trời định hướng.
Hình 5. Cầu vô tuyến đa kênh để mở rộng khoảng cách
6.2 Khai thác đa kênh cho WLAN 2,4 GHz, WLAN DSSS 2,4 GHz
Trong bǎng ISM 2,4 GHz toàn bộ bǎng thông cho các WLAN DSSS có thể được phân chia thành
các tần số sóng mang khác nhau. Số lượng các tần số sóng mang có thể chọn lọc. Số lượng của
các tần số sóng mang như sau: Bắc Mỹ 11; toàn bộ Châu Âu 13; Pháp 4; Nhật 1. Khi tín hiệu
DSSS trải ra một bǎng thông rộng thì sự cách biệt tần số sóng mang được ưa chuộng nằm giữa
các điểm truy nhập lân cận ít nhất là 30 MHz. Có nghĩa ở Mỹ và Châu Âu, có thể áp dụng lên tới
3 sóng mang trong cùng một vùng. Bảng 2 chỉ ra 13 ấn định đa kênh DSSS có thể dựa trên 13 tần
số sóng mang khác nhau. Sự cách biệt tần số sóng mang lớn nhất sẽ làm giảm dược nhiễu lân cận
và nâng cao chất lượng so với mạng có cách biệt tần số nhỏ.
Bảng 2: Â'n định đa kênh cho WLAN DSSS 2,4 GHz
WLAN FHSS 2,4 GHz
Vì các kênh tần số trong mẫu nhảy tần chiếm toàn bộ bǎng tần ISM 2,4 GHz, nên phương pháp
phân kênh sử dụng trong DSSS không thể áp dụng trực tiếp cho các hệ thống FHSS. Các WLAN
FHSS đạt được hoạt động đa kênh nhờ thực hiện các kênh tách biệt trên các mẫu nhảy tần khác
nhau.
6.3 Giảm tốc độ dữ liệu (Fall back)
Hầu hết các WLAN có ưu điểm của vùng phủ sóng nhỏ và các điều kiện truyền sóng tốt để tǎng
tốc độ số liệu. Trong khi truyền tín hiệu ở tốc độ thấp thường tin cậy hơn và cho phép vùng phủ
sóng rộng hơn thì đôi khi người ta lại thích thông lượng cao hơn. Để cân bằng giữa tốc độ và
vùng phủ sóng card giao diện mạng vô tuyến thường phát ở tốc độ dữ liệu khả dụng lớn nhất. Sau
khi bị lỗi một vài lần thì card giao diện sẽ giảm xuống tốc độ thấp hơn.
6.4 Lọc lưu lượng mạng
Một trong các phương thức để tối ưu chất lượng WLAN là tránh lưu lượng dư thừa phát đi trên
kênh vô tuyến. Lưu lượng thừa này có thể là:
- Các bản tin mạng được chuyển đổi bởi các thiết bị mạng hữu tuyến (ví dụ như các server)
nhưng nó lại không liên quan tới các đầu cuối vô tuyến.
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
- Các bản tin quảng bá/multicast không có địa chỉ xác định tới các thiết bị đầu cuối vô tuyến
- Các bản tin lỗi được tạo ra bởi các thiết bị hỏng hoặc các thiết bị có cấu hình sai (các thiết bị
trong các mạch vòng mạng đóng)
Lọc lưu lượng dư thừa sẽ tiết kiệm bǎng thông của kênh vô tuyến cho các nút di động. Thông qua
sử dụng các chức nǎng sau của cầu nối điểm truy nhập có thể đạt được điều đó:
- Lọc giao thức để từ chối các giao thức mạng hữu tuyến nối tới mạng vô tuyến
- Lọc lưu lượng trao đổi giữa hai nút không xác định
- Cho phép mở rộng cơ chế cây để giải quyết các lỗi mạng kín
- Lọc ngưỡng để giới hạn số lượng bản tin
6.5 Phủ sóng và chuyển vùng
Một yêu cầu chính đối với WLAN là khả nǎng giám sát vị trí của nút di động và thiết bị xách tay.
Thiết bị xách tay di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác nhưng chỉ sử dụng tại một vùng cố định.
Các nút di động thực sự truy nhập LAN khi đang di chuyển. Khả nǎng di động của người dùng
đòi hỏi một chức nǎng chuyển vùng sao cho chức nǎng này cho phép nút di động dịch chuyển
giữa các vị trí vật lý khác nhau trong môi trường LAN mà không bị mất kết nối. Để có chuyển
vùng liên tục mỗi vị trí này được một điểm truy nhập phục vụ và các vùng phủ sóng của điểm
truy nhập phải chồng lấn lên nhau. Một nút di động sẽ kiểm tra tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm (SNR)
khi nó di chuyển và khi cần nó quét các điểm truy nhập có thể sử dụng và sau đó tự động kết nối
tới điểm truy nhập mong muốn để duy trì truy nhập mạng liên tục (hình 6). Khi SNR giảm xuống
dưới mức ngưỡng đã được xác định trước thì nút sẽ tìm kiếm một điểm truy nhập gần đó với
SNR tốt hơn.
Hình 6 Chuyển vùng trong WLAN
Nếu như phát hiện ra một điểm truy nhập như vậy thì nút di động sẽ phát một yêu cầu chuyển
vùng tới điểm truy nhập và điểm truy nhập này sẽ chuyển tiếp yêu cầu đó tới điểm truy nhập cũ
(hình 7). Điểm truy nhập cũ sẽ giải phóng điều khiển của kết nối đang hoạt động và chuyển nó tới
điểm truy nhập mới. Chuyển vùng hoàn thành khi nút di động được thông báo. Thủ tục này tương
tự như chức nǎng chuyển vùng trong mạng di động, chỉ khác là chuyển vùng trên WLAN truyền
gói dễ dàng hơn bởi vì chuyển tiếp từ một vùng phủ sóng này tới một vùng phủ sóng khác có thể
được thực hiện thông qua truyền gói. Chủ yếu là chuyển vùng phải được thực hiện nhanh vì tốc
độ dữ liệu của các WLAN, có nghĩa là có rất nhiều gói được phát đi trong khi đang thực hiện quá
trình chuyển vùng. Điều đó có thể gây ra truyền lại quá nhiều do các gói bị mất hoặc bị sai
hướng. Tốc độ dữ liệu sau khi chuyển vùng phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ mà tại đó SNR bị suy
giảm.
Hầu hết các LAN có thể hỗ trợ các nút di động với tốc độ đi bộ (dưới 10 km/h). Một số WLAN
có thể đảm bảo kết nối mạng liên tục mà không mất hoặc lặp lại khung khi nút chuyển từ một
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
vùng phủ sóng này sang một vùng phủ sóng khác ở tốc độ 60km/h. Để hỗ trợ chuyển vùng ở cấu
hình đa kênh các nút di động thường có thể tự động chuyển đổi các kênh tần số hoặc tự động
chuyển đổi các mẫu nhảy tần khi chuyển vùng giữa các điểm truy nhập. Các mạng độc lập không
hỗ trợ chuyển vùng.
Hình 7. Đàm phán chuyển vùng
6.6 Cân bằng tải
Cân bằng tải cho phép các WLAN phục vụ được các tải lớn hơn hiệu quả hơn. Mỗi điểm truy
nhập có thể giám sát tải lưu lượng trong vùng phủ sóng của nó và sau đó thử cân bằng với số
lượng nút đã được phục vụ theo tải lưu lượng trong các điểm truy nhập lân cận. Để đạt được điều
đó các điểm truy nhập phải trao đổi thông tin tải lưu lượng qua mạng đường trục. Hầu hết các
phương pháp cân bằng tải không phụ thuộc vào cường độ tín hiệu, vì nó có thể làm phức tạp
thêm thuật toán chuyển vùng rất nhiều. Thông thường chuyển vùng có ưu tiên hơn so với cân
bằng tải bởi vì một nút di động có thể kết nối vào một điểm truy nhập nhờ mức cường độ tín hiệu
trước khi cân bằng tải được thực hiện.
6.7 Bảo vệ truy nhập vô tuyến
Kênh vô tuyến dễ mắc phải các nhược điểm: bị nghe trộm, dễ bị lừa và có các truyền dẫn không
được phép hơn là mạng hữu tuyến. Do đó một số cơ chế sau sẽ được áp dụng để tránh các truy
nhập không được phép đối với WLAN:
- Mã hoá tất cả các dữ liệu được phát qua kênh vô tuyến
- Khoá mạng đối với tất cả các nút không có nhận dạng mạng đúng
- Giới hạn truy nhập trong WLAN chỉ với các nút trong danh sách được phát dữ liệu
- Thực hiện các mã khoá (password) trong hệ điều hành mạng.
Kết luận
Có thể tìm thấy các ứng dụng WLAN trong hầu hết các môi trường như công nghiệp, chính phủ,
khu dân cư. Một vấn đề cần quan tâm của truyền dẫn vô tuyến là những người không được phép
có thể can thiệp vào từ bên ngoài. Vì vậy truy nhập của đối tượng sử dụng phải được bảo vệ. Các
bức xạ vô tuyến cũng có thể là một nguồn nhiễu không mong muốn tới các mạng vô tuyến khác
và cần phải điều khiển được. Các công nghệ WLAN thay đổi từ các mạng độc lập (phù hợp với
các cấu hình tạm thời) tới các mạng cơ sở (cung cấp kết nối hoàn toàn phân tán có roaming
chuyển vùng) Nhiều kỹ thuật khác nhau như cân bằng tải lưu lượng, quản lý công suất và hoạt
động đa kênh giúp cho nâng cao chất lượng của WLAN.
Training & Education Network
02 Bis Dinh Tien Hoang Street, Dakao Ward, District 1, HCMC – Tel: (848) 824 4041 – Fax: (848) 824 4041
E-mail: training@athenavn.com – URL: www.athenavn.com
Y O U’LL L O V E T H E W A Y W E M I N D Y O U R K N O W L E D G E
Phần 8:
Nối mạng gia đình không dây
Nối mạng không dây ngày nay đang trở thành một xu hướng
được ưa chuộng đối với người sử dụng máy tính trên toàn thế
giới. Ngày càng có nhiều người dùng máy tính gia đình nhận
thấy sự tiện lợi của việc nối mạng không dây và xu hướng
không dây là một kết quả tự nhiên, tất yếu của việc nối mạng
tại nhà.
Bên cạnh việc tương đối dễ cấu hình, các mạng không dây giúp
bạn không phải đi dây cáp khắp nhà của bạn-một nhiệm vụ đòi
hỏi những sự chuẩn bị công phu và tốn kém. Nối mạng không
dây cũng cho phép bạn mở rộng mạng của mình tới những khu vực khuất nẻo trước đây trong nhà
của bạn, chẳng hạn như bếp, chân cầu thang, sân sau, v.v... Trong tương lai gần, còn một tiềm
năng to lớn nữa là khả năng nối mạng máy tính của bạn với những thiết bị giải trí và thiết bị điện
tử gia dụng khác. Nhiều sản phẩm mới cho phép bạn nối mạng không dây chiếc máy tính của bạn
với dàn máy âm thanh nổi hay bàn điều khiển trò chơi, cho phép bạn truyền các hình ảnh và âm
thanh từ máy tính tới hệ thống nhà hát tại gia của bạn.
Trong khi việc nối mạng Ethernet hữu tuyến đã diễn ra từ 30 năm trở lại đây thì nối mạng không
dây vẫn còn là tương đối mới đối với thị trường gia đình. Trên thực tế, chuẩn không dây được sử
dụng rộng rãi đầu tiên, 802.11b, đã được Viện kỹ sư điện và điện tử Mỹ (IEEE) phê chuẩn chỉ 4
năm trước đây (năm 1999). Vào thời điểm đó, phần cứng nối mạng không dây còn rất đắt và chỉ
những công ty giàu có và có nhu cầu bức thiết mới có đủ khả năng để nối mạng không dây. Một
điểm truy nhập (hay trạm cơ sở), hoạt động như một cầu nối giữa mạng hữu tuyến và mạng
không dây, có giá khoảng 1000 đô la Mỹ vào thời điểm năm 1999, trong khi các card không dây
máy khách giành cho các máy tính sổ tay có giá khoảng 300 đô la. Vậy mà bây giờ bạn chỉ phải
trả 55 đô la cho một điểm truy nhập cơ sở và 30 đô la cho một card máy khách 802.11b và đó là
lý do tại sao mà việc nối mạng không dây lại đang được mọi người ưa chuộng đến vậy. Rất nhiều
máy tính sổ tay-thậm chí cả những máy thuộc loại cấu hình thấp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TailieucanbanvemangLANAthena.pdf