Kỹ thuật mổ bắc cầu mạch vành có rất nhiều thay đổi kể từ các trường hợp phẫu thuật
bắc cầu đầu tiên trên thế giới cách nay trên 40 năm. Các cải tiến kỹ thuật đều nhằm
đến mục đích cuối cùng và quan trọng nhất là giúp kéo dài càng lâu càng tốt thời gian
sống không có triệu chứng, không có các biến cố về mạch vành và không cần phải
can thiệp mạch vành lại. Việc sử dụng cầu nối từ động mạch ngực trong trái vào
nhánh xuống trước trái, và sau đó là các cố gắng sử dụng thêm các loại cầu nối động
mạch khác để làmgiảm thiểu số lượng cầu nối bằng tĩnh mạch hiển đã làm cải thiện
rõ rệt tỷ lệ sống còn của bệnh nhân bắc cầu mạch vành
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tái tưới máu toàn bộ trong bệnh nhiều nhánh mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÁI TƯỚI MÁU TOÀN BỘ TRONG BỆNH NHIỀU
NHÁNH MẠCH VÀNH
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu thuật bắc cầu mạch vành dùng cả
hai động mạch ngực trong cho tỷ lệ sống cao hơn, giảm đau thắt ngực sau mổ rõ rệt
hơn và ít có các biến chứng liên quan đến tim hơn so với phẫu thuật bắc cầu mạch
vành sử dụng một động mạch ngực trong. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi
về kỹ thuật của phẫu thuật dùng hai động mạch ngực trong làm tất cả các cầu nối
nhằm tái tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành, đồng thời
bước đầu đánh giá kết quả sớm gồm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ của phương
pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng tiền cứu gồm 17 bệnh nhân bắc
cầu mạch vành tại Khoa Phẫu Thuật Tim mạch BV Đại học Y Dược TP HCM từ
tháng 4 đến tháng 10/2008.
Kết quả: 67 miệng nối xa, trong đó có 62 miệng nối bằng động mạch ngực trong
được thực hiện trên 17 bệnh nhân (trung bình 3,94 cầu nối động mạch trong đó có
3,62 cầu nối từ hai động mạch ngực trong cho một bệnh nhân). Không có tử vong.
Không trường hợp nào viêm trung thất hoặc nhiễm trùng vết mổ. Một trường hợp
nhồi máu cơ tim trong mổ.
Kết luận: Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch
vành, dùng hai động mạch ngực trong để làm tất cả các cầu nối khả thi về mặt kỹ
thuật và có kết quả sớm tốt. Cần tiếp tục theo dõi lâu dài với số lượng bệnh nhân lớn
để chứng minh ưu điểm dài hạn của phương pháp: cải thiện tỷ lệ sống còn của bệnh
nhân mổ bắc cầu mạch vành.
ABSTRACT:
TOTAL CORONARY REVASCULARIZATION USING EXCLUSIVE BITA T -
GRAFTS
IN PATIENTS WITH MULTI-VESSELS DISEASES: INITIAL RESULTS.
Nguyen Hoang Dinh, Nguyen Anh Dung, Vu Tri Thanh, Pham The Viet, Cao Dang
Khang,
Phan Van Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009:
81 – 89
Background: Many recent sudies have supported the use of bilateral internal thoracic
arteries (BITA) as the exclusive grafts in CABG surgery based on superior graft
patency, reduced cardiac-retaled eventsand enhanced survival when compared with
patients receiving only the left internel thoracic artery. This study aimed at evaluating
the feasibility of total coronary revascularization using exclusive BITA T - grafts in
patients with multi-vessels diseases. We also analyzed short-term results including
post operative mortality and morbidity of the technique.
Methods: This is a prospective clinical trial including 17 patients with multi-vessels
diseases underwent total coronary revascularization using exclusive BITA T – grafts
at the Cardiovascular Surgery Department of Medical University Center at Ho Chi
Minh city from April to October 2008.
Results: 67 distal anastomoses including 62 BITA grafts were performed (the
average numbers of distal anastomoses and BITA anastomoses per patient were 3.94
and 3.62, respectively). No superficial nor deep sternal infection was observed in this
group. No mortality was encountered. One patient developed intraoperative
myocardial infarction.
Conclusions: Total coronary revascularization using exclusive BITA T - grafts in
patients with multi-vessels diseases was feasible and safe with satisfactory short-term
results. Larger studies are required to confirm the potential benefits of the technique,
namely superior graft patency, reduced cardiac-retaled events and enhanced survival
rate.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thời gian gần đây việc dùng cả hai động mạch ngực trong làm cầu nối được nhiều tác
giả triển khai với mong muốn cải thiện kết quả dài hạn của phẫu thuật bắc cầu mạch
vành(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu thuật bắc cầu mạch vành
dùng cả hai động mạch ngực trong cho tỷ lệ sống cao hơn, ít có các biến chứng liên
quan đến tim hơn so với phẫu thuật bắc cầu mạch vành sử dụng một động mạch ngực
trong(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Bên
cạnh đó nhiều nghiên cứu cũng cho rằng kỹ thuật phẫu tích trần hai động mạch ngực
trong làm giảm tỷ lệ viêm xương ức và viêm trung thất sau mổ(Error! Reference source not
found., Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.).
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi về kỹ thuật của phẫu thuật dùng hai động
mạch ngực trong làm tất cả các cầu nối nhằm tái tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân
hẹp nhiều nhánh mạch vành, đồng thời đánh giá kết quả sớm gồm tỷ lệ tử vong và
biến chứng sau mổ của phương pháp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, tiền cứu. Các số liệu thu thập bao gồm đặc điểm
lâm sàng, các yếu tố nguy cơ đi kèm, các số liệu liên quan đến phẫu thuật, tỷ lệ tai
biến và tử vong sau mổ được phân tích bằng phần mềm SPSS.
Các biến chứng sau mổ được theo dõi bao gồm: nhồi máu cơ tim (có ít nhất hai trong
số các triệu chứng đau ngực, thay đổi trên điện tim, troponin Ic ≥ 12ng/mL, rối loạn
vận động vùng mới xuất hiện trên siêu âm tim); hội chứng giảm cung lượng tim (cần
hỗ trợ vận mạch trên 48 giờ); các rối loạn nhịp, suy hô hấp (thở máy trên 48 giờ), suy
thận cấp, nhiễm trùng xương ức và viêm trung thất, tai biến mạch máu não (triệu
chứng rối loạn tâm – thần kinh kéo dài trên 48 giờ hay được chẩn đoán bằng CT Scan
hay MRI), chảy máu phải mổ lại.
Bệnh nhân được tái khám định kỳ hàng tháng sau mổ hoặc khi có diễn biến bất
thường, được ghi nhận triệu chứng cơ năng, siêu âm tim, các thuốc đang sử dụng.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Từ tháng 4/2008 đến tháng 10/2008 các bệnh nhân bệnh nhiều nhánh mạch vành
có chỉ định phẫu thuật bắc cầu mạch vành tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch BV Đại
học Y Dược được chọn vào nhóm nghiên cứu nếu thỏa các điều kiện sau:
- Tuổi: thời gian đầu chúng tôi chọn các bệnh nhân không quá 65, sau đó chúng tôi
đưa vào nghiên cứu cả các trường hợp bệnh nhân trên 65 tuổi.
- Không phải là mổ cấp cứu. Tuy nhiên đau thắt ngực không ổn định, hẹp khít thân
chung cần mổ sớm hoặc nhồi máu cơ tim mới cách 2 – 3 tuần đã có troponin Ic giảm
dưới 0,2 ng/mL không phải là tiêu chuẩn loại trừ.
- Không có hoặc chỉ có một trong các yếu tố nguy cơ của viêm xương ức/ nhiễm
trùng trung thất: tiểu đường, béo phì (BSA ≥ ….), COPD.
- Không có tổn thương hẹp đoạn gần của động mạch dưới đòn trái (loại trừ bằng chụp
mạch máu hay siêu âm Doppler).
Tái tưới máu toàn bộ được định nghĩa là tất cả các nhánh mạch vành có đường kính
1,5mm trở lên, hẹp từ 70% trở lên (riêng thân chung hẹp từ 50% trở lên) đều được
ghép ít nhất một miệng nối xa sau chỗ hẹp.
Mô tả kỹ thuật
Hình 1a: cầu nối chữ T bằng hai động mạch ngực trong và phân bố các miệng nối
Hình 1b: cầu nối chữ T bằng hai động mạch ngực trong và phân bố các miệng nối
Chúng tôi sử dụng hai động mạch ngực trong cho tất cả các trường hợp. Trong thời
gian đầu cho một số ít trường hợp chúng tôi dùng động mạch quay làm một cầu nối,
hầu hết vào động mạch vành phải. Không trường hợp nào cần dùng tĩnh mạch hiển.
Trong thời gian sau đó chúng tôi dùng hai động mạch ngực trong làm tất cả các cầu
nối mà không sử dụng thêm vật liệu ghép nào khác.
Các động mạch ngực trong được phẫu tích trần (skeletonized) để đảm bảo đạt được
độ dài lớn nhất. Hơn nữa phẫu tích trần hai động mạch ngực trong cũng giúp giảm
đáng kể tỷ lệ nhiễm trùng xương ức và viêm trung thất.
Động mạch ngực trong trái được giữ nguyên không cắt rời khỏi động mạch dưới đòn
trái, được làm miệng nối xa với nhánh chéo theo kiểu bên – bên và với nhánh xuống
trước trái theo kiểu tận – bên (hai miệng nối liên tiếp – sequential graft). Động mạch
ngực trong phải được cắt rời ngay chỗ xuất phát từ động mạch dưới đòn phải thành
cầu nối tự do (free graft) và được nối tận – bên vào động mạch ngực trong trái theo
kiểu chữ T ở ngang mức gốc động mạch phổi. Động mạch ngực trong phải này sau đó
sẽ được dùng để làm một loạt các miệng nối liên tiếp hình thoi (diamond shape) với
nhánh trung gian, các nhánh bờ tù, nhánh nối dài của động mạch vành phải và kết
thúc bằng nhánh xuống sau của động mạch vành phải. Phải đảm bảo động mạch ngực
trong phải dùng làm cầu nối có hướng đi thẳng không gấp góc, không căng, không
xoắn vặn. Tất cả các miệng nối đều được khâu bằng chỉ Prolene 8.0.
Những trường hợp đầu chúng tôi sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể, không hạ thân
nhiệt, liệt tim thuận chiều ngắt quãng. Những trường hợp sau đều được tiến hành
không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể, với bộ dụng cụ cố định tim của Guidant (gồm
dụng cụ hút mỏm tim và dụng cụ hút cố định thành bên).
Xương ức được khâu cố định như thường lệ, ngoài ra còn được khâu tăng cường bằng
hai sợi chỉ thép theo chiều dọc một cách hệ thống cho tất cả các bệnh nhân.
Theo dõi sau mổ
Các bệnh nhân được tái khám định kỳ mỗi tháng sau mổ trong ba tháng đầu, sau đó
mỗi ba tháng trong năm đầu. Các yếu tố ghi nhận khi tái khám: tử vong, triệu chứng
lâm sàng, điều trị nội khoa, các lần nhập viện cấp cứu và các biến chứng có liên quan
đến cuộc mổ. Bệnh nhân được khuyến khích chụp mạch vành hoặc chụp MS-CT 64
để kiểm tra hệ thống cầu nối trong khoảng thời gian 3 đến 6 tháng sau mổ. Thời gian
theo dõi lâu nhất mới được sáu tháng.
KẾT QUẢ
Từ tháng 4/2008 đến tháng 10/2008, 17 bệnh nhân được phẫu thuật bắc cầu mạch
vành sử dụng hai động mạch ngực trong. Chúng tôi sử dụng hai động mạch ngực
trong để làm tất cả các cầu nối cho 12/17 bệnh nhân. 5/17 bệnh nhân ngoài tất cả các
cầu nối bằng động mạch ngực trong còn có thêm một cầu bằng động mạch quay (4
vào động mạch vành phải trước chỗ phân chia, một vào nhánh bờ tù). Gần đây khi đã
quen với kỹ thuật, chúng tôi chỉ sử dụng hai động mạch ngực trong để làm tất cả các
cầu nối.
Hình 2: Kiểm tra sau mổ với MSCT-64 cho thấy các cầu nối thông tốt
Bảng 1
Đặc điểm bệnh nhân trước
mổ
Tổng số 18
Tuổi trung bình 60,5 ± 8
Nam 15
Tiểu đường 5
Cao huyết áp 11
Hút thuốc lá 10
Rối loạn chuyển hóa lipid 8
Tiền căn nhồi máu cơ tim 11
Tiền căn can thiệp mạch
vành qua da
4
Tiền căn tai biến mạch máu
não
2
Bệnh mạch máu ngoại vi 2
Đặc điểm bệnh nhân trước
mổ
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn
tính
2
Suy thận mãn 1
EuroSCORE 3,02 ± 1,2%
Hẹp thân chung 9
Số lượng nhánh mạch vành
bị hẹp
70
Suy chức năng thất trái 4
Đau thắt ngực ổn định 9
Đau thắt ngực không ổn định 9
Dùng clopidogrel trước mổ 13
Dùng aspirin trước mổ 13
Dùng enoxoparin trước mổ 8
EuroSCORE: European System for Cardiac Operative Risk Evaluation
Bảng 2
Số liệu trong
mổ (1)
Có THNCT
(n=4)
Không
THNCT
(n=13)
Thời gian mổ 215 ± 31 ph 327 ± 42 ph
Thời gian chạy
THNCT
51 ± 9 ph
Thời gian kẹp
ĐMC
46 ± 8 ph
Máu mất trong
mổ
720 ± 240 ml
Bảng 3
Số liệu trong mổ (2) ĐMNT
T
ĐMNT
P
ĐM
quay
Số miệng nối xa
1 7 6 5
2 11 9 -
3 - 3 -
Tổng số miệng nối xa 29 38 5
Nhánh xuống trước
trái
18 - -
Nhánh chéo 11 - -
Nhánh bờ tù hoặc
nhánh chéo
- 24 1
ĐM vành P, nhánh P
kéo dài hoặc nhánh
xuống sau
- 12 4
Trung bình mỗi bệnh nhân được ghép 3,94 cầu nối toàn động mạch, trong đó 3,62 cầu
nối bằng hai động mạch ngực trong.
Bảng 4
Số liệu trong hồi sức
Thời gian thở máy (giờ)
Thời gian nằm tại hồi sức
(ngày)
Tỷ lệ tử vong 0
Mổ lại 0
Tỷ lệ tai biến
Nhồi máu cơ tim 1
Co thắt cầu nối ĐM quay 1
Suy tim 1
Rung nhĩ 3
Tràn máu MP 1
Viêm phổi 2
Chưa xảy ra nhiễm trùng vết mổ hay viêm trung thất.
Chưa xảy ra tai biến mạch máu não sau phẫu thuật.
BÀN LUẬN
Kỹ thuật mổ bắc cầu mạch vành có rất nhiều thay đổi kể từ các trường hợp phẫu thuật
bắc cầu đầu tiên trên thế giới cách nay trên 40 năm. Các cải tiến kỹ thuật đều nhằm
đến mục đích cuối cùng và quan trọng nhất là giúp kéo dài càng lâu càng tốt thời gian
sống không có triệu chứng, không có các biến cố về mạch vành và không cần phải
can thiệp mạch vành lại. Việc sử dụng cầu nối từ động mạch ngực trong trái vào
nhánh xuống trước trái, và sau đó là các cố gắng sử dụng thêm các loại cầu nối động
mạch khác để làm giảm thiểu số lượng cầu nối bằng tĩnh mạch hiển đã làm cải thiện
rõ rệt tỷ lệ sống còn của bệnh nhân bắc cầu mạch vành(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Do cấu trúc
thành mạch đặc biệt, hầu như không bao giờ có tổn thương xơ vữa, rất ít co thắt trong
và sau mổ, động mạch ngực trong là vật liệu làm cầu nối lý tưởng, có tỷ lệ thông suốt
rất cao qua theo dõi lâu dài sau mổ.
Tuy nhiên việc chỉ sử dụng động mạch ngực trong làm tất cả các cầu nối để tái tưới
máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành gặp một số trở ngại về mặt lý
luận (vấn đề lưu lượng của cầu nối, vấn đề tăng tỷ lệ nhiễm trùng xương ức) về mặt
kỹ thuật (chiều dài giới hạn của hai động mạch ngực trong không đủ để có thể làm tất
cả các cầu nối).
Thời gian gần đây có nhiều nghiên cứu, trong đó có các nghiên cứu đa trung tâm với
số lượng bệnh nhân lớn xác nhận việc sử dụng cả hai động mạch ngực trong làm cầu
nối cho kết quả dài hạn tốt hơn sử dụng một động mạch ngực trong. Đặc biệt nhiều
nghiên cứu chứng minh việc sử dụng hai động mạch ngực trong để làm tất cả các cầu
nối là khả thi và cho kết quả lâu dài rất tốt(Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm bước đầu đánh giá tính khả thi của phương
pháp cũng như tỷ lệ tai biến và tử vong. Qua 16 trường hợp, chúng tôi có một số nhận
xét ban đầu như sau:
Về đặc điểm của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
Đa số (10/17) các bệnh nhân có tiền căn nhồi máu cơ tim hoặc vừa qua đợt nhồi máu
cơ tim cấp. Nhiều (8/17) bệnh nhân cần mổ bán cấp do vì nguy cơ đột tử cao (đau thắt
ngực không ổn định, hẹp khít thân chung). 12/16 bệnh nhân phải dùng kháng đông
đến sát ngày mổ, đa số phối hợp hai hay ba thuốc kháng đông (clopidogrel, aspirin,
enoxoparin).
Trừ các trường hợp bệnh nhân có cơn đau thắt ngực không ổn định cần mổ bán cấp,
các trường hợp mới nhồi máu cơ tim thường được điều trị nội khoa và mổ trì hoãn
trong vòng 2 tuần sau khi troponin Ic giảm xuống dưới 0,3 mcg/ml.
Điểm EuroSCORE trung bình là 3,02 ± 1,2%.
Những bệnh nhân có một trong số các yếu tố nguy cơ của viêm trung thất (béo phì,
tiểu đường, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính) vẫn được đưa vào nhóm nghiên cứu. Tuy
nhiên các bệnh nhân có hai yếu tố nguy cơ trên trở lên được loại ra khỏi nghiên cứu.
Về tỷ lệ tai biến và tử vong
Không có trường hợp tử vong nào trong nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ tai biến thấp và
không ảnh hưởng đến tiên lượng lâu dài, trừ một trường hợp nhồi máu cơ tim trong
mổ.
Không trường hợp nào bị nhiễm trùng vết mổ, viêm xương ức hay viêm trung thất
trong nhóm nghiên cứu. Trước đây một số nghiên cứu kinh điển cho rằng việc phẫu
tích cả hai động mạch ngực trong đi kèm với tăng nguy cơ viêm trung thất sau mổ,
nhất là ở các bệnh nhân tiểu đường, béo phì, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Rất nhiều
nghiên cứu mới đây cho thấy kỹ thuật phẫu tích trần (skeletonize) động mạch ngực
trong hai bên làm giảm hẳn nguy cơ này. Các nghiên cứu với số lượng lớn các bệnh
nhân tiểu đường được phẫu tích trần cả hai động mạch ngực trong có tỷ lệ viêm trung
thất sau mổ chỉ khoảng 1,2 đến 2%(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Không có trường hợp nào bị tai biến mạch máu não hay bệnh lý não sau mổ.
Bệnh nhân Nguyễn Thị T., nữ, 56 tuổi, nhập viện vì NMCT cấp do hẹp khít nhánh
xuống trước trái. Một trong hai nhánh bờ tù hẹp 70%, nhánh bờ tù thứ hai kích thước
khá lớn và hẹp không đáng kể. ĐMV phải không có tổn thương hẹp đáng kể. Sau 3
tuần điều trị nội khoa ổn định, bệnh nhân được mổ bắc cầu không tuần hoàn ngoài cơ
thể với tổng số 4 cầu nối toàn động mạch ngực trong: động mạch ngực trong trái liên
tiếp vào nhánh chéo và nhánh xuống trước trái, cầu nối tự do động mạch ngực trong
phải từ động mạch ngực trong trái liên tiếp vào hai nhánh bờ tù. Tim bóp tốt, bệnh
nhân ổn định cho đến khi hai cầu nối vào nhánh chéo và nhánh xuống trước trái hoàn
tất. Sau khi thực hiện xong hai miệng nối xa vào hai nhánh bờ tù, xuất hiện triệu
chứng thiếu máu cơ tim cấp với thay đổi chênh lên của ST, rối loạn vận động cục bộ
trước vách và thành bên. Chúng tôi tháo rời cầu nối động mạch ngực trong phải ra
khỏi động mạch ngực trong trái và cắm trực tiếp vào động mạch chủ ngực đoạn lên,
sau đó các triệu chứng thiếu máu cấp dần biến mất. Men tim sau mổ tăng cao trong
ngày thứu nhất (cao nhất 50…) và giảm dần trong các ngày kế tiếp. Bệnh nhân ổn
định và ra trại sau 5 ngày nằm hối sức. Chúng tôi cho rằng chính sự tranh chấp của
dòng máu chảy ngược từ miệng nối của nhánh bờ tù không hẹp là nguyên nhân gây
giảm lưu lượng dòng chảy trong các cầu nối còn lại. Rút kinh nghiệm các trường hợp
sau đó chúng tôi đảm bảo đúng chỉ định kinh điển chỉ bắc cầu cho các nhánh hẹp
đáng kể; chúng tôi không còn gặp biến chứng này nữa.
Về một số kỹ thuật trong mổ
Kỹ thuật phẫu tích trần hai ĐM ngực trong: như đã phân tích ở trên, kỹ thuật này giúp
hạn chế tổn thương mô mềm và hệ thống mạch máu nuôi dưỡng thành ngực, làm
giảm tỷ lệ viêm xương ức. Nghiên cứu thực nghiệm trên chó của tác giả Takashi
Ueda(25) chứng minh rằng việc phẫu tích trần động mạch ngực trong không làm tổn
thương cấu trúc của cầu nối.
Phẫu tích trần động mạch ngực trong giúp có được cầu nối dài nhất. Nếu làm cầu nối
chữ T đúng kỹ thuật, động mạch ngực trong phải sẽ nối được đến nhánh xuống sau
một cách dễ dàng trong tuyệt đại đa số các trường hợp.
Nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp chụp mạch vành và chụp cầu nối kiểm tra
sau mổ, dùng đầu dò Doppler thông vào các cầu nối chữ T để đo lưu lượng trực tiếp,
hoặc khảo sát tưới máu cơ tim sau mổ bằng siêu âm tim gắng sức với dobutamin
chứng minh được rằng cầu nối chữ T của động mạch ngực trong trái ghép với động
mạch ngực trong phải cung cấp đầy đủ máu cho toàn bộ hệ thống mạch vành trái
cũng như phải(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found., Error! Reference source not found.). Các nghiên cứu trên chính là cơ sở lý luận của phương
pháp sử dụng cầu nối chữ T từ hai động mạch ngực trong để làm tất cả các cầu nối.
Để tránh hiện tượng “ăn cắp máu” từ động mạch ngực trong trái ra động mạch cánh
tay, trước mổ ta phải chắc chắn rằng đoạn gần của động mạch dưới đòn trái không bị
hẹp bằng cách chụp mạch máu hoặc siêu âm kiểm tra động mạch dưới đòn.
Kỹ thuật làm nhiều miệng nối xa bên – bên liên tiếp từ động mạch ngực trong phải
vào các nhánh bờ tù và nhánh xuống sau là hoàn toàn khả thi, và mức độ thông suốt
của các miệng nối được khẳng định bởi nhiều nghiên cứu chụp kiểm tra cầu nối sau
mổ với số lượng bệnh nhân lớn(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Đa số các bệnh nhân của chúng tôi được mổ theo kỹ thuật tim đập không dùng máy
tim phổi. Chúng tôi không gặp khó khăn đáng kể nào về mặt kỹ thuật khi làm các
miệng nối, kể cả các miệng nối từ cầu nối động mạch ngực trong phải vào các nhánh
mũ, bờ tù và liên thất sau. Tác giả Navia cũng có cách tiếp cận tương tự chúng tôi
trong báo cáo 569 trường hợp mổ bắc cầu toàn động mạch ngực trong, không dùng
máy tim phổi với kết quả chụp cầu nối kiểm tra cho thấy tỷ lệ thông suốt lên đến trên
94% sau 4 năm(Error! Reference source not found.).
Các ưu điểm khác của phương pháp
Ngoài ưu điểm quan trọng nhất là khả năng kéo dài thời gian và mức độ thông suốt
của các cầu nối, giúp cải thiện tiên lượng lâu dài của bệnh nhân sau mổ bắc cầu mạch
vành, chúng tôi nhận thấy phương pháp còn có một số ưu điểm khác như sau:
Động mạch ngực trong có đường kính và độ dày của thành mạch tương đối giống
các nhánh mạch vành. Tĩnh mạch hiển và động mạch quay có kích thước và bề
dày khác biệt khá nhiều với hệ mạch vành. Chúng tôi cho rằng miệng nối từ động
mạch ngực trong vào mạch vành dễ thực hiện hơn từ miệng nối từ tĩnh mạch hiển
và động mạch quay. Đó cũng có thể là một yếu tố giúp cải thiện chất lượng lâu dài
của các miệng nối.
Do không cần làm miệng nối gần vào động mạch chủ, các cầu nối được tưới máu
ngay sau khi thực hiện xong các miệng nối xa; điều này giúp cơ tim được tưới máu
tốt trong suốt quá trình phẫu thuật.
Động mạch chủ không kẹp trong suốt quá trình mổ giúp giảm nguy cơ tai biến mạch
máu não sau mổ, nhất là ở các bệnh nhân có động mạch chủ ngực lên vôi hóa.
Tránh được các biến chứng do phẫu tích lấy động mạch quay và tĩnh mạch hiển
(nhiễm trùng, biến chứng thần kinh) cũng là một ưu điểm của phương pháp, góp phần
làm giảm gánh nặng chi phí và thời gian nằm viện của bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành, dùng hai
động mạch ngực trong để làm tất cả các cầu nối khả thi về mặt kỹ thuật và có kết quả
sớm tốt. Cần tiếp tục theo dõi lâu dài với số lượng bệnh nhân lớn để chứng minh ưu
điểm dài hạn của phương pháp: cải thiện tỷ lệ sống còn của bệnh nhân mổ bắc cầu
mạch vành.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 128_7254.pdf