Mục lục
I -Một số vấn đề lý luận về KTNN
II-Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trũ chủ đạo của KTNN trong
nền kinh tế thị trường.
III-Một số giải phỏp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trũ chủ đạo của
KTNN trong nền kinh tế quốc dân.
30 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4187 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tầm quan trọng của kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn vốn để xây
dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vực then
chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các nước
khác. Do đó mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trũ dẫn dắt, làm
hạt nhõn để các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân có thể tham
gia vào nền kinh tế hội nhập.
Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu
trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vỡ trong nền kinh tế luụn
luụn cú những ngành, lĩnh vực rất khú cú khả năng sinh lời hoặc cũn rất nhiều
Trang 10
vựng kinh tế cú cơ sở hạ tầng thấp kém khó đầu tư sản cuất, do đó mà các
thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thỡ
kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các
vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các
phần tử kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Có như thế thỡ mới hỡnh
thành nờn một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng
xó hội chủ nghĩa ở nước ta đó là tạo nên một nề kinh tế có các ngành, lĩnh vực
được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, có các vùng kinh tế phát triển song
song với nhau.
Thứ ba, để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thỡ đũi hỏi
phải cú sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật.
Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu quan
trọng nhất đó là làm sao tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng tỡnh hỡnh nước ta
hiện nay, các chủ thể kinh hoanh có thể có trỡnh độ hiểu biết về ý thức, về
quản trị kinh doanh rất khác nhau, có người tham gia vào kinh doanh chỉ vỡ
họ cú vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đó dễ
dẫn đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vỡ lợi nhuận cỏc nhõn mà
quyờn mất lợi ớch của xó hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luôn
được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ có ý thức pháp luật, do đó
trong giai đoạn hiện nay đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần
gương mẫu để các thành phần kinh tế khác học tập để hoạt động có hiệu quả
hơn.
Từ ba lý do trờn mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành
phần kinh tế nắm vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi
đầu trong quá trỡnh hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản
xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối hợp lý, là lực lượng
gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo
phát triển một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xó hội phỏt triển đúng
định hướng đó chọn của Đảng.
3. Nội dung vai trũ chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Để đảm bảo thực hiện được vai trũ là thành phần kinh tế chủ lực của nền
kinh tế trong giai đoạn hiện nay thỡ kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn
Trang 11
nội dung hay là bốn chức năng của nó trong kinh tế nhiều thành phần của
nước ta hiện nay.
* Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp
nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà
nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đó quy mô hoạt động của các kinh tế
nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và
đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động
có hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp
nhà nước có 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối)
nên các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Có khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng
hoá, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu
đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất
cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng
đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao để có
thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân
và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh)
cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức
năng này thỡ kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát
triển thỡ mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong
mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đổi, luân
chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực
then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như
tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển
đúng hướng thỡ kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đó
tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào
việc tăng trưởng kinh tế.
Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khỏc phỏt triển thỡ kinh tế
nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công hiện
đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được
Trang 12
đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện
về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật
công nghệ sản xuất để từđó mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh
dạn cùng tham gia đầu tư phát triển.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của cỏc doanh nghiệp ngày nay cũn gắn
liền với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó
đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi
đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô
nhiễm môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của
các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thỡ
cụng nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiờn vỡ mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các
doanh nghiệp bỏ qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải
thể hiện vai trũ chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và
cung cấp các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thỡ doanh
nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi
trường và doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật
bảo vệ môi trường để các doanh nghiệp khác đi theo.
* Thứ hai, bằng nhiều hỡnh thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên
phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trũ chủ đạo, làm tâm điểm ảnh
hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực
lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đó chọn và đó
chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà
chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của
nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước.
Tuy nhiên như đó phõn tớch ở cỏc phần trờn chúng ta biết rằng quy mô của
các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta cũn rất nhỏ hẹp, mặt khỏc thời
gian phỏt triển cũn ngắn nờn cỏc doanh nghiệp dõn doanh chưa thể tích luỹ để
mở rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta.
Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để trở
thành lực lượng nguồn cốt, tạo choừ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh
nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đó thỡ kinh tế nhà
nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mỡnh một cỏch hợp
lý. Luụn giữ được vị trí, vai trũ xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác
được khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước,
Trang 13
kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then
chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xó hội, trở thành xương sống
của nền kinh tế quốc dân, để từ đó các thành phân kinh tế khác có được chỗ
dựa vững mà cùng phát triển, đi lên.
Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà các
doanh nghiệp theo đuổi, do đó các thành phần khác thường tập trung kinh
doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng có khả năng đưa đến lợi
nhuận cao một cách nhanh chóng mà ít rủi ro nhất, do đó sẽ tạo ra lỗ hổng là
những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc đũi hỏi đầu tư lớn: đó là
các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển có cơ sở hạ tầng thấp kém. Để
khắc phục tỡnh trạng đó, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác
cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thỡ kinh tế nhà nước phải có mặt để
xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều
kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế.
Đó cũng là một chức năng thể hiện vai trũ chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các
thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nó cân bằng
được trỡnh độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa
thành thị và nông thôn.
Phát triển theo đúng định hướng XHCN cũn thể hiện ở việc tuõn theo
phỏp luật mà nhà nước XHCN đó đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy khụng ớt
chủ cỏc doanh nghiệp dõn doanh chỉ vỡ lợi nhuận cỏ nhõn mà bất chấp cả
phỏp luật, hoặc cỏo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là
vấn đề mà nhà nước phải có biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong
những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vỡ vậy, DNNN
phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh
nghiệp khác cùng noi theo.
* Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế
vĩ mô.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là : các đơn
vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trũ điều tiết
nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Các đơn vị kinh tế luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản
xuất cái gỡ, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Điều
đó dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luôn chạy theo những loại hàng hoá
và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng
hoá không có lói hoặc lỗ. Tuy nhiờn khụng phải mọi doanh nghiệp đều luôn
Trang 14
thu nhận được thông đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào,
tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi
với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đó thỡ nhà nước sử dụng
KTNN là một lực lượng vật chất hay một công cụ điều tiết hiệu quả, là vỡ :
Thứ nhất: KTNN từ khi được hỡnh thành cho tới nay luụn được chú
trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành không có khả
năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hoá, dịch vụ công cộng) do đó nó làm cân đối
giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là công cụ điều tiết, các DNNN
được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh
tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó mà
các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh
thỡ khi đó cần có sự có mặt của DNNN”, đến một lúc nào đó khi khả năng
sinh lời tăng lên thỡ doanh nghiệp dõn doanh nhày vào hoạt động và đủ khả
năng cung cấp cho thị trường thỡ DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các
lĩnh vực khác.
Thứ hai : trong các vùng kinh té luôn có sự phát triển mất cân đối giữa các
ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát
triển. Nhà nước đó rất chỳ trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và
hiện nay nó đó phỏt huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đó
tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô của cả nước.
Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế
cho chế độ xó hội mới, XHCN.
Theo luận điểm của Mác-Lenin thỡ chế độ XHCN phải được xây dựng
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều
thuộc sở hữu chung của tập thể, của toàn dân, không một cá nhân nào được
biến TLSX thành tài sản riờng của mỡnh. Đó được coi là chế độ sở hữu tiến
bộ nhất trong lịch sử phát triển của xó hội loài người. Khi xem xét về nguồn
gốc hỡnh thành KTNN ta đó biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hỡnh
thức sở hữu toàn dõn, cũn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trờn hỡnh thức
sở hữu tập thể, trong thời kỳ quỏ độ lên CNXH của nước ta thỡ đây là hai
hỡnh thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nó đại diện cho QHSX mới
XHCN. Vỡ vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thỡ KTNN cựng kinh tế tập
thể cú vai trũ là nền tảng cơ bản .
II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trũ chủ đạo của KTNN trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay.
Trang 15
1. Những bước chuyển biến chủ yếu của KTNN trong thời kỡ đổi mới:
Từ giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 – 1990), một nền kinh tế đa phần được
hỡnh thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đó giữ vững và khẳng định được
vai trũ chủ đạo của nó. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xó hội
với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp.
Sang thập niên 90 – là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều
chính sách, biện pháp lớn mạnh nhằm cải tổ và sắp xếp lại cơ cấu lại các
doanh nghiệp nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn.
Với các chính sách, cơ chế đổi mới để DNNN tự chủ trong cơ chế thị
trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà
Nhà nước giao cho đó là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư
xây dựng cơ bản, tài chính, lao động… trên cơ sở tính toán nhu cầu thị trương
về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mỡnh. Về tài chớnh Doanh nghiệp
được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao để
đầu tư, đổi mới tài sản… Về tổ chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp có
quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh cho phự
hợp với mục tiờu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động
theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao động và
thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thôi việc,
mất việt… Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xoá bỏ chế độ
chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quỏ
sõu vào cỏc hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trờn cỏc mặt cú tớnh tổng
quan, chiến lược, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động
và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu,
Nhà nước đối với DNNN: có một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân công,
phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh
nghiệp.
Quỏ trỡnh đổi mới cơ chế, chính sách đó hỡnh thành được khung pháp
lý tương đối rừ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị
trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đó được sử dụng hiệu qủ hơn
tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định
việc làm cho người lao động.
Trang 16
Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đó được thể
hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các
DNNN bỡnh quõn theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung
của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngoài quốc
doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và
thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thỡ tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tỡnh trạng đó, tỷ trọng tổng sản
phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và
41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là
6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP
trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ
1995 đến nay, hằng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội
địa.
Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đó sắp xếp, tổ chức, củng cố và
phỏt triển cỏc DNNN, cỏc tổng cụng ty Nhà nước: Chính phủ đó liờn tục chỉ
đạo và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2
(1994 – 1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các DNNN đó
cú sự đổi mới về quy mô, về cơ cấu tổ chức quản lý bằng cỏch sỏt nhập, giải
thể phỏ sản cỏc doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh
nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần hoặc giao, bán, khoán, cho thuê
DNNN có quy mô nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới đó là hiệu quả hoạt
động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm xuống rất nhiều từ 12000
doanh nghiệp (năm 1990) xuống cũn 5280 doanh nghiệp (năm 2000).
Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động,
các tổng công ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh
vực kinh tế của đất nước. Các tổng công ty nhà nước có 1605 DN thành viên,
chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao
động. Năm 2000, các tổng công ty đó cung cấp cho nền kinh tế quốc dõn 98%
sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng
thép, các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay.
Một bộ phận DNNN đó được cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm
giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới công ty cổ
phần. Tính đến năm 2001, cả nước đó cổ phần hoỏ được 529 DN và 102 bộ
phận DN bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện có so với tổng số vốn Nhà
nước khi đánh giá lại khi cổ phần hoá các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng
1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động,
Trang 17
phần vốn nhà nước ở các công ty cổ phần đó tăng được giá trị tuyệt đối, theo
báo cáo của 202 DN đó cổ phần hoỏ được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước
không những được bảo toàn mà cũn tăng thêm 65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi
nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách
tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên
tăng 5,1% và không có doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào tỡnh trạng phỏ sản.
Những kết quả đạt được đó đó chứng tỏ rằng chớnh sỏch cổ phần hoỏ cỏc
DNNN là một chớnh sỏch đúng đắn và đó phỏt huy được những tính tích cực
của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường,
cạnh tranh bỡnh đẳng với mọi DN khác.
Thực hiện chính sách giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê những
DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đó là những doanh nghiệp nhỏ có vốn
dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trỡ sở hữu
Nhà nước, cần áp dụng các hỡnh thức xử lý thớch hợp như: sát nhập, đấu thầu
công khai, cho thuê, khoán kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ,
công nhân với điều kiện đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động và
thực hiện luật pháp của nhà nước. Theo nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư
(Khoá VIII) đó nờu trờn, đến thực hiện, tỡnh hỡnh sản xuất kinh doanh của
cỏc DN này khỏ lờn rừ rệt: so với trước khi chuyển đổi vốn kinh doanh tăng
67,3% , doanh thu tăng 42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5% lao động
tăng 12,8%, thu nhập bỡnh quõn đầu người bằng 38,7%, một số cũn tớch luỹ
thờm và đó mở rộng được sản xuất. Đó là thành quả rất đáng mừng đối với sự
phát triển của kinh tế nhà nước.
Như vậy trong suốt quá trỡnh đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính
sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đó
cú những chuyển biến tớch cực: việc tỏch quyền sở hữu đó tỏc động tích cực
đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đó hoạt động có hiệu quả hơn
trước, trỡnh độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn và
tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ
sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN
đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trũ chủ đạo
của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực
lượng nũng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho
ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và góp phần quan trọng trong ổn
định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản
phẩm chủ yếu của nền kinh tế.
Trang 18
1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trũ chủ đạo của KTNN từ những bước
đổi mới:
Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống nhất đang làm đũn
bẩy thỳc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá.
Thứ hai, trong những năm lại đây, hoà chung vào xu thế toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài rất được phát triển
mà chủ yếu là với thành phần KTNN. Điều đó khẳng định là thành phần kinh
tế đi đầu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở đường cho
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo xu hướng chung của nền
kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới.
Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản, quan trọng giúp
Nhà nước giải quyết được một số vấn đề kinh tế vĩ mô và vấn đề xó hội như
giảm thất nghiệp, bảo hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thôi
việc, góp phần xóa đói giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn hoá, giáo
dục…
Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà
nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, ổn định xó hội, hạn chế
khuyết tật của kinh tế thị trường.
Thứ năm, KTNN phát triển, vừa tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của
các thành phần kinh tế khác, vừa là tấm gương để các thành phần kinh tế khác
đi theo trong việc quản lý, tuõn thủ phỏp luật, bảo vệ mụi trường… Nhờ đó
tạo nên sự phát triển đồng bộ, ổn định cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu, KTNN đó gúp phần tạo nờn con người mới XHCN với những
phẩm chất, trỡnh độ cần có để xây dựng chế độ xó hội mới. Điều đó được thể
hiện qua đội ngũ cán bộ lao động trong các DNNN đang ngày càng có trỡnh
độ cao, phẩm chất tốt, năng lực quản lý tiến bộ… từ đó tạo điều kiện phát huy
vai trũ giai cấp cụng nhõn trong xõy dựng xó hội mới – XHCN.
1.3 Nguyên nhân những thành quả đạt được:
Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền kinh tế nước ta đó
là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương
xây dựng một nền
Kinh tế mở của Đảng đó rất phự hợp với thực tế tỡnh hỡnh đất nước ta do
đó đó mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chóng đưa
đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế, - xó hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ
Trang 19
đổi mới (1986 đến nay), gió cỏc văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần
thứ IX luôn đặt KTNN lên nắm vai trũ chủ đạo: “Làm đũn bẩy thỳc đẩy tăng
trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xó hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ XHCN” (Văn kiện
đại hội Đảng lần thứ VIII)
Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hoàn thiện dần hệ thống
cỏc cụng cụ quản lý vĩ mụ, của mỡnh đối với thành phần KTNN đặc biệt là
đối với các DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà
nước đó thể chế hoỏ cỏc quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trũ chủ đạo
của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về
hạch toán kinh doanh trong DNNN, quy chế quản lý tài chớnh đối với DNNN.
Luật DNNN, luật thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các
DNNN, nghị quyết về giao, bán, khoán, đó là những công cụ điều tiết, quản lý
kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức kiên trỡ của chớnh phủ cỏc
cấp, cỏc ngành.
Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý
và người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra đũi hỏi cỏc DNNN cũng
như các cán bộ quản lý người lao động, phải có một sự thay đoỏi nhất định,
đáp ứng được những đũi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy
tính năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, công nhân
viên ở các DNNN được nâng cao. Các DNNN đó cú những việt làm nhằm
đưa hoạt động của sản xuất của mỡnh hiệu quả hơn như đổi mới công nghệ,
đào tạo đội ngũ cán bộ….
Thứ bốn: Hợp tác đa phương, đa hỡnh thức, hướng về xuất khẩu, của các
DNNN được phát triể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tầm quan trọng của kinh tế nhà nước.pdf